Ergenzingen, Frankfurt, Mainz 1983-2001
Tin tức về một thần đồng cấp làng mười lăm tuổi lan nhanh ra cả vùng như một cơn gió núi mát lành từ Rừng Đen. Điềm tĩnh dưới áp lực, luôn đọc trước diễn biến trận đấu, sở hữu đôi chân trời phú vô cùng uyển chuyển, cậu bé rõ ràng là một điều đặc biệt. Jürgen là tên của cậu: Jürgen Haug.
Thần đồng tuổi thiếu niên này chơi cho SV Glatten của Ulrich Rath cùng Hartmut “Hardy” Rath và Jürgen Klopp, và giỏi đến mức TuS Ergenzingen, câu lạc bộ danh tiếng nhất vùng trong việc ươm mầm tài năng trẻ, đã chủ động liên hệ để chiêu mộ cậu. Nhưng cha mẹ Haug lại không sẵn lòng di chuyển 60km cả đi và về để đưa con trai mình đến các buổi tập và thi đấu ở ngoại ô Rottenburg. Walter Baur, vị huấn luyện viên rất được trọng vọng của Ergenzingen, đã ứng biến kịp thời. Ông trao thêm lời đề nghị đến Klopp, với ý đồ rằng mẹ anh - Lisbeth - sẽ cho Haug đi nhờ ba tuần một lần.
Đó là cách mà Klopp, người luôn tỏ ra khiêm tốn về khả năng chơi bóng của mình, thuật lại câu chuyện. Huấn luyện viên quá cố Baur (ông mất vào năm 2012) từng thừa nhận với tờ Die Zeit rằng Haug “rõ ràng là một tài năng lớn”, nhưng Klopp và Rath, hai cầu thủ trẻ cùng chuyển tới đội bóng miền Đông, cũng thể hiện được không ít. “Với bọn tôi Ergenzingen cũng xa vời như FC Barcelona vậy,” Klopp nói trong cuộc phỏng vấn với tờ Der Tagesspiegel vào năm 2012. “Nếu bạn được coi là đủ giỏi trong mắt Walter Baur, thì bạn đã thành công rồi đấy.” Ulrich Rath cho hay một vài người ở Glatten vẫn thất vọng với ông, sau hơn ba mươi năm, vì đã để ba cậu bé này ra đi. “Họ không nhận thức được rằng Ergenzingen là một cơ hội lớn dành cho chúng, một cơ hội thực sự để phát triển,” ông nói. Đáng tiếc là, trên thực tế, con trai ông, Hartmut, về sau tỏ ra quá chậm chạp để chơi bóng chuyên nghiệp; và sự tiến triển của Haug, cũng sớm ngừng lại. “Chúng tôi có ít nhất năm cầu thủ sở hữu kỹ thuật cơ bản tương đồng,” Baur cho hay. “Nhưng đó không phải là tất cả. Nếu Klopp để tâm vào điều gì đó, cậu ấy sẽ biến nó thành hiện thực.”
Được ủng hộ bởi cha mẹ, những người luôn sẵn sàng dậy sớm trước sáu giờ sáng cả tiếng đồng hồ để đưa đến các trận đấu, Klopp đã khẳng định bản thân đúng lúc với tư cách đội trưởng và tay săn bàn chủ lực của Ergenzingen. Cách tiếp cận của Baur - cấp tiến hơn nhiều so với phương pháp lúc bấy giờ - là yếu tố quyết định cho sự phát triển của cầu thủ trẻ này. Huấn luyện viên Ergenzingen muốn các cầu thủ của ông dành càng nhiều thời gian với bóng càng tốt thay vì sử dụng hàng giờ vào việc chạy bền quanh sân. Ông từng đến Brazil gặp Pelé, và được truyền cảm hứng bởi môn Futsal, một phiên bản bóng đá năm người buộc các cầu thủ phải mài sắc các kỹ năng và sự sáng tạo. “Chúng tôi phải tung hứng trái bóng trong vòng ba mươi phút trước mỗi buổi tập,” Klopp nhớ lại. “Sau sáu tháng, chúng tôi đã có thể biểu diễn như lũ hải cẩu làm xiếc ở bữa tiệc Giáng sinh.”
Baur bị chẩn đoán mắc ung thư dạ dày vào năm 1977 nhưng không chấp nhận bỏ cuộc. Tình yêu vô hạn dành cho bóng đá của những người như ông trao cơ hội thi đấu cho sáu triệu cầu thủ chính thống ở nước Đức.
Hermann Baur (không có quan hệ gì với Baur ở trên), Giám đốc Điều hành của đội bóng, sở hữu một bộ sưu tập quý giá những tấm hình và mẩu báo chí về những kỳ tích của đội U-19 Ergenzingen ở mùa giải 1984-85. Tuy chỉ cán đích ở vị trí thứ ba tại giải vô địch nhưng họ còn giành được một số thành tựu khác. Tháng 3 năm 1985, Ergenzingen xếp thứ ba ở một giải đấu trong nhà với các đội bóng đến từ khối Liên Xô diễn ra ở Katowice, Ba Lan. Đội bóng Đức, được tung hô là “đại sứ vĩ đại cho đất nước” trong bài tường thuật của một tờ báo địa phương, đã tới thăm trại tập trung Auschwitz (“Rất xúc động,” trích lời Klopp), tặng đội chủ nhà một bộ quần áo thi đấu và năm quả bóng. Đổi lại, họ nhận được một chiếc bình chế tác từ than đá. “Một màn sum họp Đông Tây đích thực,” bài báo viết. Chiến tranh lạnh vẫn đang tiếp diễn.
Trong năm đó, Klopp, Haug và một đồng đội khác là Ralf Scheurenbrand được đến Hamburg để nhận danh hiệu á quân ở một giải đấu được tài trợ bởi thương hiệu kem dưỡng da sau cạo râu Hattric. Hàng công của Ergenzingen cán mốc ghi mười cú hat-trick ở cấp độ U-19 mùa giải năm đó; duy chỉ có Chemie Wirges làm tốt hơn với mười ba lần. Tại Hamburg, đội hình tuyển chọn các nhà vô địch, trong đó có thủ thành Bodo Illgner vô địch World Cup 1990, ra sân đấu với đội huyền thoại HSV có sự góp mặt của cựu tiền đạo Uwe Seeler. Chính tượng đài này đã tận tay trao cho Klopp giải á quân tại bữa tiệc liên hoan ở khách sạn Plaza.
Đội bóng của Walter Baur tiếp tục lên ngôi ở giải đấu hằng năm International Pentecost Day mà ông tổ chức ở quê hương mình từ đầu những năm bảy mươi. Vítkovice Ostrava của Tiệp Khắc là đội chơi hay hơn trong trận chung kết và Baur đã có ý định để họ thắng trên loạt luân lưu sau 120 phút kết thúc không bàn thắng. Klopp bảo huấn luyện viên của anh bị điên. “Chúng ta sẽ biến từng cú sút thành bàn,” anh tuyên bố. Đội chủ nhà thắng 3-2.
Klopp ngưỡng mộ Baur nhiều tới mức anh từng dọa câu lạc bộ mình sẽ ra đi nếu vị huấn luyện viên không được cầm đội một, nơi anh sẽ chơi ở mùa giải 1986-87. Ergenzingen nhượng bộ. Ở một trong những trận đấu đầu tiên với đội chính, cầu thủ mười chín tuổi Klopp đã đối đầu với câu lạc bộ Bundesliga Eintracht Frankfurt, đội đã rời căn cứ đến vùng Rừng Đen để luyện tập trước mùa giải mới. Die launische Diva (ả diva đồng bóng) - như cách gọi suồng sã dành cho họ - đã không hề khoan nhượng. Đội bóng của Dietrich Weise vùi dập đội chủ nhà, dù vắng bảy cầu thủ trụ cột và chưa bung hết sức.
Việc hiện diện ở vị trí không mong muốn trên bảng tỉ số nhục nhã 9-1 có thể cổ động một hoặc hai cầu thủ nghiệp dư của Ergenzingen thử sức mình ở một môn thể thao khác, nhưng với tiền đạo Jürgen Klopp của TuS, trận đấu vào ngày 21 tháng 7 năm 1986 là một bước đột phá. “Ngày hè năm đó, khi Dietrich Weise ghé thăm Rừng Đen, nhiều điều mang tính quyết định cho cuộc đời tôi đã được khởi sự,” anh thừa nhận trong một cuộc phỏng vấn với tờ Tagesspiegel vào năm 2012. “Ông ấy đưa tôi đến Frankfurt - một sân khấu bóng đá lớn hơn nhiều so với Rừng Đen.”
Klopp ghi bàn thắng an ủi cho Ergenzingen, và suýt có thêm bàn thứ hai sau khi tăng tốc vượt qua hậu vệ hào hoa Thomas Berthold của Frankfurt - tuyển thủ Đức vừa trở về với tư cách á quân World Cup tại Mexico. Weise thực sự ấn tượng. Là cựu huấn luyện viên đội trẻ quốc gia, ông sở hữu con mắt tinh đời để có thể nhìn ra những tài năng triển vọng sẽ đóng vai trò chủ chốt trong công cuộc cải tổ hệ thống đào tạo trẻ của nước Đức vào thời điểm chuyển giao thiên niên kỷ.
Berthold có thể vẫn nhớ rõ chuyến tập huấn ở Rừng Đen (“nơi này tuyệt đẹp”) và chuyện anh trở lại tập nặng mà gần như không được nghỉ sau trận chung kết đối đầu Diego Maradona của Argentina trên sân vận động Azteca. Nhưng cựu hậu vệ AS Roma và Bayern Munich thú nhận, anh chẳng có chút ký ức nào về chính trận đấu với Ergenzingen, chưa kể đến chuyện Klopp là đối thủ. Anh coi lời gợi mở rằng mình từng bị vượt qua bởi một gã nghiệp dư cao lêu nghêu là điều phi lý, gần như sỉ nhục. “Anh ta làm gì cơ? Vượt qua tôi á? Làm gì có chuyện đó!” Anh cười lớn. “Tôi chạy 100m chưa tới 11 giây khi đó đấy. Có khi tôi nhường anh ta để tặng họ một bàn thắng chăng?”
Đương nhiên Weise đã đặt vấn đề với Klopp về việc chuyển tới Frankfurt sau trận đấu. “Tôi háo hức đến nỗi làm vỡ cả ly Spezi của mình,” Klopp kể. Tuy nhiên, anh phải lịch sự từ chối lời đề nghị. “Jürgen bảo tôi rằng cậu ấy phải hoàn thành kỳ thi tú tài trước,” Weise, hiện đã tám mươi hai tuổi, cho hay. “Chúng tôi thỏa thuận là sẽ nói chuyện lại sau một năm nữa.” Bạn của Weise là Walter Baur hứa sẽ gửi những cập nhật chi tiết về sự tiến triển của tiền đạo trẻ này.
Frankfurt, cách Glatten gần ba giờ lái xe, không phải là một điểm đến khả thi chừng nào Klopp vẫn đang đi học. Nhưng câu lạc bộ 1. FC Pforzheim thuộc Oberliga (giải hạng Tư) là một đề xuất khác. Nằm ở một thị trấn có 120.000 dân cách Rừng Đen bảy mươi phút lái xe về phía bắc, đội bóng được dẫn dắt bởi Bernd Hoffmann, cựu tiền đạo giải 2. Bundesliga từng chơi cho Heilbronn và Karlsruhe (không liên quan gì đến CEO của Hamburger SV), mang đến một bước tiến có lợi cho Klopp. “Cậu ấy nổi tiếng trong vùng là một cầu thủ tấn công trẻ trung và nguy hiểm,” Hoffmann cho hay. “Tôi đã xem cậu ấy chơi nhiều trận cho Ergenzingen và chứng kiến vô số bàn thắng mà cậu ấy ghi được. Sự hiện diện của cậu ấy trong vòng cấm nhờ vào chiều cao vượt trội, và cả tốc độ nữa, thật ấn tượng.”
Các quan chức của Pforzheim và Ergenzingen gặp nhau tại một trạm nghỉ nằm giữa hai địa điểm, nơi 12.000 DM (6.000 euro) tiền mặt đã được trao tay để đổi lấy chữ ký của Klopp. Anh trải qua sáu tháng lái xe đi và về cho những trận đấu và các buổi tập, trên chiếc Golf màu vàng của chị gái Stefanie.
Có khoảng 3.000 đến 5.000 người đến xem các trận đấu ở sân Stadion im Brötzinger Tal. Klopp đa phần cũng là một khán giả. Anh chỉ góp mặt bốn lần và chẳng làm được gì trước khung thành. “Cậu ấy không thể tạo ra bước chuyển mình lên Oberliga,” Hoffmann nói. “Cậu ấy chán nản, như bạn có thể tưởng tượng. Nhưng cậu ấy thừa nhận rằng có những người khó thay thế ở trong đội. Thái độ của cậu ấy trong tập luyện, trừ việc đôi khi dễ nổi nóng, luôn tỏ ra mẫu mực.”
Pforzheim là ngõ cụt. Nhưng Eintracht Frankfurt chưa quên anh.
“Khi đó là sau kỳ thi tú tài, mùa hè năm 1987, Jürgen, tôi và một vài bạn cùng trường đang ngao du khắp Nam Âu bằng tàu hỏa,” Hartmut Rath cho hay. “Sau khoảng mười ngày, chúng tôi đặt chân đến một nơi rất hẻo lánh trên đảo Crete. Đã vài hôm Jürgen không liên lạc với bố mẹ anh ấy, vì thời đó chưa có điện thoại di động. Một người đánh cá có chiếc thuyền bé xíu đưa anh ấy đến một trạm điện thoại. ‘May quá con đây rồi,’ mẹ anh nói. ‘Con đến Frankfurt thử việc đi nhé.’ Jürgen ngẫm nghĩ vài ngày, rồi tự mình bắt tàu hỏa từ Athens - một chuyến đi 48 tiếng - đến Stuttgart.”
Norbert Klopp và Isolde Reich bổ sung điều khoản rằng, họ chỉ đồng ý cho Klopp chuyển đến Frankfurt nếu thu xếp được một suất ở Đại học Goethe tại Frankfurt để anh theo học ngành Khoa học thể thao.
Klopp thể hiện đủ thuyết phục ở buổi trình diễn kỹ năng chơi bóng trước Những chú đại bàng để có được một bản hợp đồng, nhưng là với Eintracht Frankfurt Amateure, đội B của Frankfurt, bao gồm những cầu thủ dự bị cùng các tài năng trẻ tranh tài ở giải hạng Ba cấp khu vực (Oberliga Hessen) và không có quyền được lên chơi ở các giải chuyên nghiệp chính là Bundesliga và 2. Bundesliga. Người cố vấn của Klopp là Weise đã bị sa thải sáu tháng trước đó. Karl-Heinz Feldkamp, một huấn luyện viên nhìn chung cổ hủ hơn, đã ruồng bỏ tài năng trẻ này ở đội một.
“Một chàng trai có mái tóc vàng, cao ráo, làn da nâu đậm kèm bộ ria mép và cặp kính gọng sắt, nói chất giọng Swabia đặc sệt,” tiền đạo Sven Müller của Eintracht Amateure cho hay. “Cậu ấy khả năng là người đá cặp với tôi trên hàng công, nên tôi nghĩ mình nên thăm hỏi kỹ hơn. Jürgen kể cậu ấy vừa có một kỳ nghỉ ở Hy Lạp và trời nóng đến mức cậu ấy vã mồ hôi lúc lái xe máy.” Anh này bắt chước cách nói của người Swabia, một tông giọng the thé tạo nên từ những âm “sh” gây chút khó chịu khi nghe đối với những người phi bản địa: “Ngồi trên con Veshh-pa mà ướt shh-ũng mồ hôi.” (“Da schitscht auf der Veschpa und schwitscht.”)
Müller, lớn hơn Klopp hai tuổi, tỏ ra hoàn thiện hơn về mặt chuyên môn và là một chân sút hiệu quả hơn nhiều. Klopp hiếm khi được đá chính dưới thời huấn luyện viên Hubert Neu, người (có lẽ là do) không thích việc cầu thủ hai mươi tuổi này làm ca muộn tại một quán bar ở khu phố đêm của Frankfurt, Sachsenhausen, để phụ thêm vào thu nhập còm cõi của mình.
Những lần vào sân thay người của anh cho Amateure cũng không để lại ấn tượng mạnh mẽ. Khoảnh khắc đáng chú ý nhất của Klopp trong một mùa giải vô vị, theo lời Müller, đến ở trận đấu với SG Hoechst. “Tỉ số trận đấu đang là 1-1 hay 0-0 gì đó khi chỉ còn vài phút nữa là hết giờ. Klopp được tung vào sân. Chúng tôi được hưởng một quả đá phạt. Một cầu thủ của chúng tôi bước lên… và sút tung nóc lưới! Chúng tôi bắt đầu ăn mừng như điên nhưng sau đó trọng tài cắt còi và không công nhận bàn thắng. Klopp đã đẩy hai cầu thủ đối phương trong hàng rào. Cả đội tức điên.”
Ngoài bóng đá, chàng trai xuất thân từ Rừng Đen đã có khoảng thời gian rất thú vị ở thành phố. Müller nhận chỉ đạo từ Norbert Neu, vị giám đốc điều hành của đội bóng hạng Oberliga Hessen, trong việc giúp đỡ Klopp và đồng đội Armin Bohn, những người mới đến và đang ở trong khu ký túc sinh viên. Anh này thực hiện nhiệm vụ rất chu toàn. “Bọn tôi ghé qua Sachsenhausen vào buổi tối để uống rượu táo. Đương nhiên không bao giờ vào đêm trước trận đấu - bọn tôi quá chuyên nghiệp cho chuyện đó - nhưng sau trận đấu thì có, và thi thoảng trong tuần. Là những đối thủ cạnh tranh nhưng bọn tôi gắn kết nhờ sự yêu đời và khiếu hài hước tương đồng. Bọn tôi quậy tung thành phố, đến những nơi có mấy kiểu đèn xập xình hay ho. Thật may, thời đó không có điện thoại chụp hình. Chẳng ai bắt bớ được bọn tôi cả.”
Müller đoán chắc rằng những ngày đó - đúng hơn là những buổi tối đó - đã giúp Klopp trong việc đối xử với các cầu thủ trẻ trên tư cách một huấn luyện viên sau này. “Cậu ấy biết chính xác lũ trẻ ở tuổi đó ra sao. Chúng vẫn là những đứa trẻ, thực sự vậy. Thi thoảng lạc lối. Không tránh được. Cậu ấy có thể thông cảm với điều đó, bởi cậu ấy cũng đã từng như vậy.”
Tại Frankfurt, Klopp có lần đầu nếm trải nghề huấn luyện. Cùng với đồng đội Michael Gabriel ở Amateure, anh đảm trách đội U-11 - “để đổi lấy 400 DM, một cái áo khoác đại hàn và một tấm vé cả mùa của Eintracht”, theo lời anh kể với nhà báo Jonathan Northcroft của tờ Sunday Times vào tháng 1 năm 2017. “Chúng tôi, hai huấn luyện viên và các cầu thủ, đã rất vui vẻ bên nhau,” Gabriel cho hay. Klopp thích trải nghiệm này đến mức anh tiếp tục dẫn dắt nhóm cầu thủ nói trên ở mùa giải sau đó, trước khi rời đi để chơi cho Viktoria Sindlingen ở vùng ven thành phố. “Việc giữ lại toàn bộ những cậu bé đó là quyết định thực tế đầu tiên của tôi trên tư cách một huấn luyện viên,” anh nói, “câu lạc bộ muốn thay chúng bằng những cậu bé nhỏ tuổi hơn.” Klopp chiến thắng trong cuộc tranh luận cam go đó nhưng cuối cùng nhận ra anh quá bận rộn để tiếp tục chỉ bảo những cầu thủ trẻ này. Tiền vệ cánh phải Patrick Glöckner là người duy nhất trong số các cậu bé của Kloppo góp mặt ở Bundesliga sau này (mười bốn trận cho Eintracht Frankfurt và Stuttgarter Kickers ở mùa giải 1997-98).
Tình bạn giữa Müller và Klopp vẫn được duy trì tốt đẹp sau quãng thời gian một năm ở đội hình hai của Frankfurt. Müller, một chuyên viên tổ chức sự kiện và PR, chính là người đã chuẩn bị cho lễ thành hôn bên bờ biển của Klopp với Ulla, vợ hai của anh, vào năm 2006. (Trước đó họ đã kết hôn theo thủ tục tại văn phòng đăng ký ở Mainz-Gonsenheim. Klopp diện quần jeans bạc màu, mặc chiếc áo vest kẻ sọc kèm áo sơ mi kẻ sọc không sơ-vin. Christian Heidel sắp xếp để ca sĩ Thomas Neger cùng nhóm của anh này biểu diễn bài “Im Schatten des Doms”, “In the shadow of the cathedral” - bài hát cổ động của Mainz đã trở thành một phần trong danh sách phát nhạc của DJ sân vận động theo yêu cầu trực tiếp từ vị huấn luyện viên FSV.) “Jürgen đơn giản là một chàng trai tuyệt vời,” Müller nói. “Vui vẻ, đáng tin và tử tế. Cậu ấy biết điều gì quan trọng trong đời, không quên mình đến từ đâu và trân quý tình bạn đẹp. Một gã hàng xóm thú vị.”
Nhưng đấy là trừ khi anh tham gia vào bất kỳ một cuộc đấu bóng đá nào. Trong cuộc đấu, tất cả những sự thú vị kia dường như không còn tồn tại. Ở một kỳ nghỉ gia đình tại Thổ Nhĩ Kỳ vài năm trước, Müller góp mặt trong một đội bóng năm người cùng hai cậu con trai của Klopp, Marc và Dennis. Klopp bị chấn thương nhưng vẫn dẫn dắt đội bóng với sự máu lửa đích thực, không ngừng đưa ra những chỉ đạo chi tiết từ đường biên. “Tôi phải ra nghỉ bởi trời cực kỳ nóng còn tôi đã có tuổi rồi,” Müller nhớ lại. “Tôi nghĩ chúng tôi đang dẫn với cách biệt mong manh. Kloppo, trong một phong thái khó bắt chước nổi, lại gần và vỗ nhẹ lên mặt tôi. ‘Cậu sẽ ghi thêm một bàn thắng nữa, một bàn nữa!’ Cậu ấy bảo vậy. Tôi trở lại sân và trên thực tế đúng là đã ghi một bàn nữa. Cậu ấy cực kỳ lì lợm mỗi khi dính đến chuyện thắng thua trong các trận đấu bóng đá. Thậm chí kể cả khi đó chỉ là một trận đấu vui trên một bãi biển nào đó. Cậu ấy không thể kìm lòng được.”
Tuy nhiên, về sự nghiệp của Klopp ở Eintracht Frankfurt, chẳng có sự cứu giúp nào từ những người phụ trách. Người kế nhiệm Hubert Neu được chỉ định làm huấn luyện viên trưởng Amateure, Jürgen Sparwasser - cầu thủ ghi bàn thắng nổi tiếng ở chiến thắng 1-0 của Đông Đức trước các nhà vô địch World Cup Tây Đức vào năm 1974 - nói với Klopp vào mùa xuân năm 1988 rằng anh không có tên trong kế hoạch của ông này cho mùa giải sau. “Jürgen về cơ bản đã bị đẩy ra đường,” Müller cho hay.
Dẫu vậy, Dietrich Weise vẫn cảm thấy cầu thủ trẻ người Swabia có tiềm năng. Weise lúc này đang huấn luyện Al Ahly tại Cairo, Ai Cập và đã mở trung tâm đào tạo cấp vùng đầu tiên dành cho các cầu thủ trẻ tài năng ở khu vực Frankfurt, mười năm trước khi Liên đoàn Bóng đá Đức chấp nhận bản kế hoạch của ông cho việc phát triển cầu thủ trẻ và giới thiệu những “cơ sở” này ra khắp cả nước. Weise, ngoài ra, từng làm cố vấn cho Viktoria Sindlingen, đội bóng của những cầu thủ bán thời gian chơi ở giải hạng Ba có trụ sở tuềnh toàng nằm ngay cạnh nhà máy hóa chất Hoechst ở khu ngoại ô phía tây Frankfurt. Norbert Neuhaus nhớ lại cách chào hàng của Weise. “Ông ấy tìm tôi và bảo: ‘Tôi vừa mang về một cầu thủ từ Pforzheim - cậu ta không hợp lắm với Eintracht. Nhưng tôi cho là cậu ta rất tiềm năng, tôi tin cậu ta có vài thứ để thể hiện. Sẽ tốt hơn chăng nếu cậu ta đi đường vòng qua Sindlingen…’”
Cuốn sổ ghi nhớ của Neuhaus cho thấy ông đã gặp Klopp trên sân của FC Homburg vào ngày 16 tháng 4 năm 1988 để có buổi nói chuyện đầu tiên. Tới tháng 5, họ đã đạt được thỏa thuận. Sindlingen mua tiền đạo này từ Eintracht với giá 8.000 DM (4.000 euro), và anh được trả 1.200 DM (600 euro) một tháng, bằng tiền mặt - nhưng chỉ khi mùa giải diễn ra. Nhiều hơn tiền tiêu vặt một chút.
Sindlingen nằm ở khu vực xuống hạng trong phần lớn mùa giải. Đồng đội Axel Schubert cảm nhận được sự thất vọng của Klopp. “Anh ấy chẳng tạo ra chút tiến triển nào như mong đợi trên tư cách một cầu thủ. Anh ấy có thể cảm thấy khó khăn để tập trung vào bóng đá trong những ngày này, một phần bởi việc học hành ở Frankfurt và một phần bởi cô bạn gái đang mang bầu to.” (Con trai anh, Marc, ra đời vào tháng 12 năm 1988.) Tuy vậy, năm đó không phải là không có vài khoảnh khắc ngọt ngào. Đến làm khách trước đội bóng cũ Eintracht Amateure, Klopp ghi bốn bàn trong chiến thắng 6-0. “Thật kinh khủng cho chúng tôi và sung sướng cho cậu ấy,” Müller cho hay. “Cậu ấy đã gửi một tin nhắn thú vị cho Sparwasser trong ngày hôm đó: nhìn xem ông bỏ lỡ điều gì đi.”
Neuhaus, bảy mươi mốt tuổi, tỏ ra hãnh diện khi giữ được một bài tường thuật trận thua 0-2 của Sindlingen trên sân khách trước Rot-Weiß Frankfurt từ tháng 11 năm 1988. Ông phụ trách đội bóng với tư cách huấn luyện viên tạm quyền vào ngày hôm đó, sau khi huấn luyện viên Günter Dutiné (một cựu thủ quân của Mainz 05) bị sa thải. “Tôi kể với các cháu tôi rằng mình từng huấn luyện người nổi tiếng Jürgen Klopp trong một trận đấu,” ông cười vang. “Cậu ấy không phải là một Rakete (tên lửa), thành thật mà nói, nhưng lại luôn thu hút và có mặt trong mọi buổi tập.”
Huấn luyện viên mới của Sindlingen, Ramon Berndroth, bắt cả đội chơi một trận đấu sau buổi tập đầu tiên của ông, để tìm hiểu những mặt mạnh và yếu của các cầu thủ. Chưa đến ba mươi phút sau, Berndroth cho dừng trận đấu và chọn ra một cầu thủ để quở mắng: Klopp. “Klopp đã nhắc lại câu chuyện đó trước mọi người trong phòng VIP tại sân của đội trẻ Dortmund, Rote Erde, khi anh phát hiện Berndroth dự khán một trận đấu ở đây nhiều năm sau đó,” Neuhaus cho hay. Berndroth, người đang làm công tác huấn luyện đội trẻ trong những năm gần đây, bảo Neuhaus rằng trước nay ông chưa từng gặp một huấn luyện viên Bundesliga nào không những biết tất cả các cầu thủ trong đội trẻ của mình, đến tận những cầu thủ dự bị, mà còn về quá trình đào tạo và thông tin lý lịch của họ.
Là một cầu thủ, “Klopp tỏ ra tham vọng và biết cách giữ gìn bản thân trên sân. Anh ấy không thuộc dạng ẻo lả,” Schubert thuật lại. “Anh ấy không e ngại việc góp ý với những đồng đội lớn tuổi hơn cách họ có thể cải thiện về chuyên môn. Sau trận đấu, anh ấy sẽ ngẫm nghĩ về màn trình diễn của cả đội. Tôi muốn nói là đã có những dấu hiệu nhỏ cho thấy anh ấy có thể đọc được một trận đấu.”
Năng lực không chiến của Klopp giúp Berndroth phát minh ra một phương án thực hiện các tình huống cố định. Nó phát huy tác dụng ở thời điểm quyết định trong mùa giải của Sindlingen. Họ gặp FC Erbach ở trận play-off xuống hạng diễn ra một lượt trên sân trung lập, khi tỉ số đang là 2-2 và thời gian còn lại hai mươi phút, Walter Braun treo bóng từ một quả phạt góc hướng vào cột gần. Schubert đánh đầu nối đưa bóng sang cột hai, nơi Klopp bật cao dứt điểm tung lưới đối thủ. Sindlingen thắng chung cuộc 4-2.
Vào năm 2009, Neuhaus gửi đến Klopp một chiếc đĩa DVD trong đó có đoạn phim nội bộ về trận đấu nói trên. “Cậu không hề gây ấn tượng xấu,” ông viết, đề cập thêm rằng ông đã trông thấy ngón đòn này được đội Mainz của Klopp bắt chước. Klopp đã gọi điện và cảm ơn ông rối rít. Anh và Schubert gặp lại nhau trên sân ở Mainz, nhưng không phải với tư cách cầu thủ. “Khi đó tôi đang làm quản sân cho Mainz và chăm sóc mặt sân Bruchweg (khi đó được sở hữu bởi chính quyền tự trị),” Schubert nói. “Ngày đầu tôi đi làm, Mainz đang luyện tập trên sân. Klopp rất bất ngờ khi thấy tôi. Cậu ấy từ phía bên kia sân, nơi cả đội đang tập giãn cơ, chạy ngang qua và ôm chầm lấy tôi, đầy hân hoan. “Cậu làm gì ở đây thế?” và cứ thế. Chúng tôi nói chuyện một lúc lâu và buổi tập giãn cơ kéo dài hơn đôi chút… Anh ấy luôn dành thời gian cho những cựu cầu thủ và các huấn luyện viên. Trong ngày sinh nhật huấn luyện viên Helmut Jakob, đội Sindlingen đã sắp xếp cho ông ấy một buổi huấn luyện cùng Klopp tại Mainz. Anh ấy đồng ý ngay tức khắc. Jakob quay về đầy hứng khởi, cùng một tấm áp phích có hình ông ấy và Klopp đứng cạnh nhau trên sân tập.”
Tổng cộng mười bốn bàn thắng của Klopp ở mùa giải 1987-88 đã đóng góp một phần trong việc cứu Sindlingen khỏi rớt hạng nhưng câu lạc bộ “mong đợi nhiều hơn thế”, Neuhaus cho hay. “Ở trình độ của chúng tôi, mức lương đó là rất cao.” May mắn cho Klopp, một đội bóng khác, cùng sa lầy ở hạng đấu khiêm nhường này nhưng có túi tiền nặng hơn và tham vọng lớn hơn nhiều, đã thể hiện sự quan tâm: Rot Weiss Frankfurt.
“Một người bạn của tôi bảo: có một tiền vệ phải ở Sindlingen mà chắc chắn cậu sẽ thích,” Dragoslav “Stepi” Stepanović kể lại. Stepanović, cựu tuyển thủ Nam Tư, chuyển tới Đức vào cuối những năm bảy mươi, đầu quân cho Eintracht Frankfurt trước khi có một chuyến phiêu lưu ở Manchester City (1979-1981). Sau khi nghỉ hưu, ông mở một quán rượu rất có tiếng (Stepi’s Treff) ở trung tâm Frankfurt và đánh bạn với nhiều người có tầm ảnh hưởng của thành phố. Giám đốc Điều hành Bernd Hölzenbein của Eintracht Frankfurt, đồng đội cũ của ông, bổ nhiệm Stepanović làm huấn luyện viên vào năm 1991 và đội bóng trẻ trung này - với sự góp mặt của những cầu thủ trẻ tài năng như Uwe Bein, Andy Möller và Anthony Yeboah - suýt chút nữa giành Bundesliga với thứ bóng đá vô cùng tốc độ và kích thích từng được truyền thông Đức gắn cho cái tên “Fußball 2000”. Stepanović, một ông bầu bẩm sinh thích hút xì gà sở hữu bộ ria mép tướng cướp kiểu Mexico, nói giọng Serbia lai Hessen thuần thục và có một niềm yêu thích dành những bộ vest màu hồng cam, là đứa con cưng mới nổi của những đài truyền hình thương mại. Ông từng hát ca khúc “My Way” của Frank Sinatra trên một chương trình về bóng đá.
Một vài năm trước đó Stepi đã được giao phó để đưa đội bóng hàng xóm nhỏ bé hơn nhiều của Eintracht là đội bóng bán chuyên nghiệp Rot-Weiss Frankfurt từ hạng ba lên 2. Bundesliga. RW có một chút tiền giúp đỡ từ ân nhân Wolfgang Steubing. Câu lạc bộ sâm banh, truyền thông địa phương gán mác họ. “Chúng tôi là Bayern Munich của giải Hessenliga,” Stepanović cho hay.
Stepanović đến xem một trận đấu của Sindlingen để chứng thực lời mách nước. Tiền vệ phải đó là Jürgen Klopp. “Ở trận đấu đó, cậu ấy chơi như một vị thần,” huấn luyện viên sáu mươi tám tuổi cho hay. “Cậu ấy vượt qua đối thủ ở bên cánh của mình một nghìn lần và tung ra những quả tạt tuyệt mỹ. Từ việc xem cậu ấy chơi bóng, tôi chẳng thể đoán nổi cậu ấy có những thiếu sót gì về chuyên môn. Tôi thích những cầu thủ tốc độ và muốn có những cầu thủ có xu hướng tấn công mạnh mẽ ở hai bên cánh.” RW Frankfurt đã trả một khoản phí chuyển nhượng 8.000 DM (4.000 euro) cho Sindlingen.
Klopp “có lẽ tự cảm thấy bất ngờ” khi có được một hợp đồng với RW, Stepanović nói. Tuy nhiên, giai đoạn đầu mang đến sự vỡ mộng cho cả hai. Klopp rõ ràng không phải cầu thủ mà Stepanović nghĩ rằng mình đã chọn. “Sau ba, bốn trận ở giải bán chuyên, tôi tống cậu ấy xuống đội hình hai. Tôi gặp chút rắc rối với mọi người ở câu lạc bộ, họ hỏi tại sao tôi lại mua cậu ấy, rồi gọi cậu ấy là một thương vụ thất bại. Cậu ấy thậm chí còn ngồi dự bị ở đội hình hai. Cậu ấy đơn giản là không đủ tố chất để chen chân vào mười một cầu thủ xuất phát. Tôi nghĩ, khả năng là mình đã sai rồi?”
“Stepi bảo tôi rằng tôi là cầu thủ yêu thích của vợ và con gái ông ấy nhưng bất chấp điều đó, ông ấy không thể dùng tôi,” Klopp nói trong buổi trò chuyện với tờ Ruhrnachrichten vào năm 2014. “Tôi nghĩ mình có thể mặc quần jeans ngồi dự bị trong nửa năm, ông ấy sẽ không để ý tới điều đó một chút nào.”
Vị huấn luyện viên của RW quyết định trao cho tiền đạo này một cơ hội khác sau kỳ nghỉ đông. Ông đón anh trở lại đội một, và thay đổi vai trò của anh thành một “số 9”. Là một tiền đạo mũi nhọn, Klopp đột nhiên bắt đầu ghi bàn số lượng lớn theo kiểu công nghiệp. “Ba, sáu, mười - cậu ấy xé lưới trong mọi buổi tập. Về không chiến, chẳng ai đọ được với cậu ấy. Cách chơi đầu của cậu ấy thật dị thường. Cậu ấy ghi được mười bốn bàn ở giai đoạn hai của mùa giải cho đội bóng, để đưa chúng tôi đến danh hiệu Hessenliga ở mùa giải 1989-90. Những bàn thắng của cậu ấy giúp chúng tôi vô địch giải đấu.”
Stepanović tin rằng Klopp đã được số phận định cho một sự nghiệp bóng đá không cần những đôi giày. “Tôi luôn nghĩ, cậu chàng này thực sự là một người nói chuyện giỏi ở độ tuổi trẻ như vậy. Cậu ấy có thể trở thành một giám đốc điều hành hoặc giám đốc thể thao một ngày nào đó. Nhưng chưa từng nghĩ cậu ấy sẽ trở thành một huấn luyện viên. Đó là một sự bất ngờ lớn với tôi. Cậu ấy luôn nói những gì mình nghĩ, không bao giờ che giấu quan điểm. Sau những thăng trầm đã trải qua, chúng tôi không hẳn quá thân, nhưng tôi thích cách cậu ấy không bao giờ bỏ cuộc.”
Chuyện kể rằng huấn luyện viên của Mainz là Robert Jung chiêu mộ Klopp sau khi Rot-Weiss Frankfurt hai lần đối đầu (và thua) với Mainz ở vòng play-off 2. Bundesliga vào mùa hè năm 1990, nhưng Stepanović tiết lộ rằng tiền đạo này đã ký với FSV khi kết thúc mùa giải chính, một vài tuần trước đó. “Khi chúng tôi ăn mừng chức vô địch giải đấu, tôi thấy Jürgen ngồi trong phòng thay đồ, đang hút một điếu thuốc. Tôi là người nghiện thuốc và tôi đã phải bật cười. Tôi bảo với cậu ấy: ‘Tôi mà biết cậu hút thuốc, thì tôi đã cho cậu đá nhiều hơn.’ Ngày hôm đó, cậu ấy bảo chúng tôi rằng cậu ấy sẽ rời đến Mainz. Chúng tôi thấy hơi thất vọng nhưng với cậu ấy đó là một bước đi hợp lý.”
Ở tuổi hai mươi ba, Jürgen Klopp cuối cùng cũng trở thành một cầu thủ chuyên nghiệp thực thụ.
Ở đầu kia của đường dây điện thoại, bạn có thể nghe thấy Hermann Hummels cười khúc khích trước khi cất lời: “Với Kloppo ư, thật khó diễn tả,” ông ngưng lại để tạo điểm nhấn. “Về đỡ bóng bước một hay sút khung thành?”
Jürgen Klopp, theo cách nhìn nhận của chính anh, không phải là một ảo thuật gia mặc quần đùi. Anh miêu tả bản thân là “một gã khốn hung hăng ở trên sân” (taz, năm 2004), là “một cỗ máy tinh thần và chiến đấu, cực giỏi không chiến và rất nhanh” (Der Tagesspiegel, năm 2012). Nhưng “về mặt chuyên môn”, anh thừa nhận, mình “chưa đủ giỏi”. “Tôi nhận thấy giới hạn của bản thân trước những người khác. Nói tóm lại là: về đầu óc, tôi là Bundesliga, còn đôi chân là Landesliga (giải hạng Tư). Thành tích ở tầm 2. Bundesliga. Tôi mau chóng chấp nhận điều đó. Buồn bã chỉ tổ phí thời gian.” Anh tỏ ra rất đỗi vui thích khi nhấn vào sự thiếu hụt của mình. “Tôi chưa thể tin rằng tôi từng là một cầu thủ chuyên nghiệp,” anh nói. “Tôi sẽ trả tiền để được trở lại chơi bóng ở quãng thời gian ấy!”
Trong bữa tiệc kỷ niệm hai mươi năm trên cương vị Giám đốc Thể thao tại Mainz của Christian Heidel vào năm 2012, Klopp nhắc lại chuyện có lần Heidel trông thấy một cầu thủ Homburg khống chế bóng hỏng một cách dở tệ trong một trận đấu và hét lên: “Nhìn kìa, họ cũng có một Kloppo!”
Sự kém cỏi của anh trên tư cách một cầu thủ có thể đã được phóng đại lên chút, bởi chính anh hoặc những người khác, để tạo ấn tượng. Đồng đội cũ của anh ở Mainz 05, Guido Schäfer, giờ là một nhà báo bóng đá làm việc ở Leipzig, có một cách nhìn nhận mang nhiều sắc thái hơn. “Jürgen có nhận thức rõ về những điểm mạnh yếu của cậu ấy,” anh cho hay. “Cậu ấy không cố rê dắt, bởi cậu ấy không thể. Nhưng cậu ấy cực kỳ nhanh. Cậu ấy không có vẻ gì là nhanh đến mức đó ở một vài mét đầu tiên nhưng một khi cậu ấy vào guồng, bạn khó có thể bắt kịp cậu ấy. Thời gian chạy 100m của cậu ấy cũng rất tốt. Cậu ấy chắc chắn không hoàn toàn là một thảm họa. Bạn sẽ không được chơi tận 325 trận ở giải hạng Hai nếu bạn không sút nổi một quả bóng. Cậu ấy là một cầu thủ rất quan trọng của đội trong nhiều năm, nhờ vào những màn trình diễn và thái độ mẫu mực.”
Xuất phát ở vị trí tiền đạo trung tâm, Klopp có được con số mười bàn thắng đáng khâm phục trong mùa giải đầu tiên của anh tại sân Bruchweg (1990-91) và cán mốc tám bàn vào tháng 2 trong mùa giải thứ hai của mình, trong đó có khoảnh khắc vẻ vang nhất trong đời cầu thủ chuyên nghiệp: bốn bàn thắng trong chuyến làm khách trước RW Erfurt (Mainz thắng 5-0). “Đó là thời khắc của anh ấy,” theo lời Martin Quast, người tường thuật trận đấu cho một tờ báo địa phương. “Kloppo cưỡi lên hàng rào để ăn mừng với nhóm hai nghìn cổ động viên Mainz có mặt trên sân. Bức ảnh do tôi chụp đã được in ra hàng trăm lần từ thời điểm đó. Klopp, nhân với bốn. Mặc chiếc áo trắng với số 4 lớn sau lưng. Thật tuyệt vời.”
Ít lâu sau chiến công đó, tiền đạo mảnh khảnh nhưng cơ động này được liên hệ bởi một gã khổng lồ thực sự của Bundesliga: Hamburger SV. “Họ chết mê chết mệt cậu ấy,” Schäfer cho hay. “Nhưng họ không thể chiêu mộ cậu ấy, không hiểu vì sao. Nhiều năm sau, họ cũng lỡ luôn việc bổ nhiệm cậu ấy làm huấn luyện viên trưởng. Một đội bóng, hai sai lầm bi thảm.” Việc Klopp tỏ ra thèm muốn cú nhảy việc này là điều có thể hiểu được, đổi việc cày cuốc khó nhọc ở giải hạng Hai lấy một đãi ngộ xứng đáng hơn nhiều về mặt tài chính vào giai đoạn đỉnh cao của sự nghiệp, đương nhiên là quá tốt với cậu ấy. Nhưng theoC tịch Harald Strutz của Mainz, huấn luyện viên Robert Jung của FSV phủ quyết thương vụ này. Ông dọa từ chức nếu câu lạc bộ để sự lựa chọn số một trên hàng công của mình ra đi.
“Khi đó Klopp tỏ ra rất tức giận. Bạn không thường xuyên có được cơ hội kiểu như vậy,” Strutz cho hay. “Nhưng rồi cậu ấy chấp nhận điều đó. Cậu ấy hiểu rằng chúng tôi đang chật vật để ở lại giải đấu với những cầu thủ hiện có và không thể để bất kỳ ai ra đi. Phải nói rằng, chúng tôi rất may mắn vì mọi chuyện diễn ra theo chiều hướng đó.”
Tuy nhiên, ngay từ đầu, tác động từ vụ chuyển nhượng tỏ ra vô cùng tiêu cực. Theo sau vụ áp phe hỏng của HSV nhằm đưa anh lên miền Bắc, Klopp chỉ ghi thêm được ba bàn trong toàn bộ mười tám tháng sau đó. Anh bị dời về hàng thủ, và những bàn thắng của Mainz cạn kiệt hoàn toàn trong bối cảnh tính thanh khoản thấp tương đương của họ bắt đầu gây hậu quả. “Năm này qua năm khác, mục tiêu duy nhất của đội là trụ hạng bằng mọi cách,” theo lời Hermann Hummels, người dẫn dắt đội bóng trong nhiệm kỳ sáu tháng ở mùa giải 1994-95 sau vài năm làm trợ lý huấn luyện. “Khi tháng 4 và tháng 5 đến, các ông chủ sẽ đi thắp nến trong nhà thờ, cầu mong sự cứu giúp.”
“Chúng tôi được lên hạng vào năm 1988 sau mười hai năm chơi nghiệp dư, rồi xuống hạng và lại trở lại. Trên thực tế, chúng tôi thực sự không thuộc về giải hạng Hai một chút nào,” Christian Heidel cho hay. “Khi tôi đến vào năm 1992, chúng tôi đang ở trong khu vực rớt hạng và bước vào trận đấu cuối cùng của mùa giải, tại Darmstadt, với nhận thức rằng chúng tôi chỉ có thể được thua cách biệt một bàn. Và rồi chúng tôi thua đúng như vậy. Chúng tôi không có sân tập, không có sân vận động riêng, và không có tiền. Vào năm 1994, ngân sách của chúng tôi là 3,5 triệu DM (1,75 triệu euro). Khoản đó đã bao gồm tất cả các đội trẻ.”
Mãi cho tới năm 1998 FSV mới có cầu thủ đầu tiên, Michael Müller, nhận mức lương đến 10.000 DM (5.000 euro). Theo tháng, không phải theo tuần. Lương của Klopp ít hơn đáng kể, lẹt đẹt vài nghìn, như lương của Schäfer. “Ở mùa 1988-89, mùa giải 2. Bundesliga đầu tiên của đội, chúng tôi có ba bậc lương cơ bản,” anh kể. “1.500 DM (750 euro) một tháng cho cấp mù; 2.500 DM (1.250 euro) cho cấp chột; và 3.500 DM (1.750 euro) cho cấp sáng. Tôi ở cấp chột. Harald Strutz, ngài Chủ tịch, bảo tôi: ‘Guido, thích nhé, cậu sẽ có 2.000 DM cho mỗi chiến thắng coi như khoản thưởng ngoài lương.’ Vấn đề là: chúng tôi chưa bao giờ thắng.”
Klopp nói đùa với vợ anh Ulla rằng Heidel không cần quà cho dịp kỷ niệm năm thứ hai mươi công tác của ông tại Mainz: “Tôi đã chơi bóng miễn phí cho ông ấy tận mười năm.” Việc ký kết những hợp đồng cầu thủ tại đại lý xe BMW của Heidel, trên thực tế là văn phòng của câu lạc bộ thời điểm đó, đã nêu bật chuyện mức lương khiêm tốn của anh trước đó. “Với số tiền ông ấy trả, tôi chẳng bao giờ có khả năng tậu được những chiếc xe ông ấy đang bán,” Klopp nói rồi cười vang.
Nhân sự duy nhất của câu lạc bộ, một nhân viên hành chính, là người làm bán thời gian, xuất hiện hai ngày một lần để sắp xếp thư trong một chiếc hòm. Xướng ngôn viên sân vận động Klaus Hafner của Mainz từng làm việc miễn phí trên tư cách CEO của câu lạc bộ. Ông bán vé cho những trận đấu vào cuối tuần, và một tình nguyện viên khác cung cấp dịch vụ ăn uống tại sân: bánh mì kẹp bơ tự làm. Quast nhớ cảnh Hafner đuổi theo các cổ động viên ở khu trung tâm thành phố với một cái hộp quyên góp vào dịp Giáng sinh, xin tiền để mua những bộ đồ thể thao cho đội U-17. Bộ cũ của họ đã sờn.
“Sản phẩm duy nhất của câu lạc bộ được bán vào năm 1995 là những chiếc khăn,” Hummels cho hay. “Tôi nghĩ họ bán được bốn cái. Tôi vẫn giữ cái của mình. Nếu ai đó nói với tôi rằng Mainz sẽ chơi ở Bundesliga trong quãng năm, bảy hay tám năm nữa, tôi sẽ cược mọi thứ tôi có để đánh ngược lại. Thậm chí tôi sẽ đi vay mượn để cược thêm. Điều đó đơn giản là không thể nhìn thấy trước được.”
Đội dự bị của Mainz (các cầu thủ U-21), mà Heidel đồng ý tiếp quản, có tình trạng tệ nhất trong toàn bộ các đội bóng chuyên nghiệp tại Đức, chơi ở hạng Kreisklasse C, cấp thấp nhất trong hệ thống giải đấu. “Họ thậm chí không có nổi một bộ áo đấu hoàn chỉnh, và đối mặt với những đội thực ra không hề biết đá bóng,” ông cười.
Việc tập luyện đối với các cầu thủ đội một, những người phải chia nhau vào những chiếc minivan hiệu VW, chỉ có thể diễn ra nếu người quản lý sân chơi công cộng đồng ý. Phòng thay đồ bên trong sân vận động là một “hệ sinh cảnh ngập nước” đầy ẩm mốc, Schäfer sởn gai ốc. “Treo khăn tắm ở đó sợ lắm. Trong đó có một cái bồn tắm lớn gỉ sét và một phòng cho bốn hoặc năm cầu thủ, ở trong đó lâu kiểu gì cũng lây nhiễm các loại bệnh tật. Để không phải rớt hạng, tại một câu lạc bộ như vậy, với những cầu thủ như thế, thực sự là một thành tựu to lớn.”
Sự tuyệt vọng dai dẳng của Mainz ngấu nghiến những huấn luyện viên. Trong mười một năm của Klopp trên tư cách cầu thủ của 05, anh được dẫn dắt bởi mười bốn người khác nhau. Sự kém ổn định ở vị trí cao nhất đã nảy sinh tình trạng hỗn loạn nhất định trong phòng thay đồ. “Một đám cầu thủ khá ngông cuồng,” Hummels cho hay. “Cảnh sát đã được triệu tập một vài lần.”
Trong đội, tiền vệ tấn công có biệt danh “Người Brazil trắng” Ansgar Brinkmann nổi tiếng về thói tiệc tùng. Khi chơi cho Osnabrück, anh này có lần bị chặn lại khi đang lái chiếc Porsche Boxster trong tình trạng say xỉn nhưng đã tìm cách né được xe cảnh sát và chạy bộ thoát thân trước khi họ kịp kiểm tra nồng độ cồn. Anh thoát án phạt. “Heidel và Strutz ghép tôi ở cùng phòng với Kloppo trong khách sạn ở các trận đấu sân khách, để cậu ấy trông chừng tôi,” anh kể. “Cậu ấy luôn chúi mũi vào quyển sách còn tôi thì liên tục xem ti-vi. Cậu ấy tỏ thái độ: ‘Tắt thứ đó đi, chúng ta phải ra sân ngày mai đấy.’ ‘Kloppo’, tôi đáp, ‘ngày mai có một tấm biển dừng ở giữa sân dành cho cậu. Cứ chuyền trái bóng cho tôi, tôi sẽ xử lý phần còn lại. Vì cậu có biết đá đâu.’ Cậu ấy sẽ liệng cái gối hay thứ gì khác vào tôi. Một đêm nọ, tôi ném cái ti-vi ra ngoài cửa sổ từ tầng tám. Cậu ấy bật dậy vì tiếng rơi. ‘Cái ti-vi đâu rồi, Ansgar?’ ‘Tôi ném ra ngoài rồi.’ ‘Tại sao vậy?’ ‘Kết phim như thổ tả’.”
Schäfer, trông vẫn phong độ với mái tóc bờm được nhuộm màu tinh tế ở tuổi năm mươi hai, cũng là một tay bất cần chẳng kém. Đôi khi anh đến tập muộn, hoặc bỏ luôn. “Tôi đã phải đóng rất nhiều tiền phạt bởi Kloppo, cậu ấy ở trong hội đồng cầu thủ. Các huấn luyện viên thường sẽ để hội đồng quyết định mức phí, và Kloppo luôn tỏ ra không thương tiếc. Cảm ơn nhé, Kloppo. Có lần tôi đã phải đóng 500 DM (250 euro). Tôi không ngủ quên hay tá túc ở quán rượu. Tôi muộn bởi con mèo của tôi chạy đâu mất. Rõ ràng là chẳng ai tin tôi. Kloppo phá lên cười: ‘Con mèo của cậu á? Lấy lý do khác đi. 500 DM dành cho cậu.’ Ba ngày sau, chúng tôi thua một trận đấu ở Chemnitz. Hermann Hummels nói: ‘Đây là lần đầu tiên một đội bóng hạng Hai thua vì một con mèo.’ Một lần khác, họ lấy của tôi 1.000 DM (500 euro) vì tội ra ngoài quá lâu trong một đợt tập huấn.”
Trong những năm đầu tuổi hai mươi, Klopp giống như một vị thánh: một chàng trai tốt bụng, để ria rậm, khá trầm tính, một người chồng và ông bố trẻ thường cầu nguyện bên dưới một cái khăn tắm trước các trận đấu. Trên đường về từ các trận sân khách, anh và những cầu thủ khác sẽ vây quanh một Schäfer lắm chiêu ở hàng ghế cuối xe buýt và nghe dăm ba câu chuyện của anh này về những cuốc nhậu om sòm và đàn bà. Schäfer: “Cậu ấy luôn là người chiếm chỗ đầu tiên, phá lên cười ngay khi tôi vừa mở miệng, và là người cuối cùng ngừng cười. Cậu ấy dễ chọc cười lắm. Cậu ấy luôn thích lắng nghe. Hồi đó cậu ấy không phải là dạng to mồm. Có lần cậu ấy bảo tôi rằng cậu ấy đã trau dồi được đáng kể về khả năng ứng biến nhanh và phong thái cuốn hút từ những lần ngồi ở hàng ghế cuối xe buýt.”
Klopp, Schäfer nhớ lại, không ăn uống như một vận động viên hàng đầu - “xúc xích nướng và khoai tây chiên là món khoái khẩu của cậu ấy” - và anh thi thoảng còn hút thuốc dưới quạt thông gió trong phòng tắm khách sạn. Tuy nhiên ký ức của Brinkmann về những căn phòng khách sạn của Klopp “trong tình trạng nhiều khói thuốc tới mức bạn cần treo một quả cầu disco lên để thấy được thứ gì đó” thì rất có thể đã được thêm thắt chút ít. Cả hai đều đồng tình rằng Klopp hiếm khi dùng đồ uống có cồn. Schäfer: “Cậu ấy luôn về thẳng nhà ở Frankfurt sau các buổi tập, cậu ấy chẳng có cơ hội ra ngoài nhậu nhẹt với bọn tôi. Ở vài dịp mà cậu ấy thực sự uống, vào một buổi tối tập thể trong dịp tập huấn, thì môn này xem ra không hợp với cậu ấy lắm. Cậu ấy nốc được hai ly rượu pha thì nôn ra sạch. Cậu ấy không thể nào trụ đến cuối được.”
Trong trận đấu, điều này ngược lại. Niềm đam mê và sự tận tụy của Klopp giúp anh rất nhiều ở giải đấu vùng ven 2. Bundesliga, có thể đôi lúc là quá nhiều. “Chưa đối thủ nào từng sỉ nhục tôi nhiều như cậu ấy, trên tư cách một đồng đội,” Brinkmann cho hay. “Đấy là sự thật. Tôi đá ngay đằng trước cậu ấy. Cậu ấy liên tục hét lên với tôi: ‘Ansgar, đồ ngu, về lại vị trí mau!’ Hoặc: ‘Không về luôn và ngay, tôi bẻ giò cậu đó, đồ con lừa! Nhanh cái chân lên!’ Tôi sợ cậu ấy hơn cả sợ đối thủ. Cậu ấy luôn là người đầu tiên được chọn trong các buổi đá tập bởi chẳng ai muốn đối đầu với cậu ấy. Khi đội của cậu ấy bị dẫn, cậu ấy bắt đầu tra tấn lỗ tai của huấn luyện viên tới khi quên mất rằng trận đấu đáng ra đã kết thúc. Mọi cầu thủ ở những trận đấu đó ở lại cho tới khi Kloppo thắng. Bạn luôn muốn ở đội cậu ấy. Cậu ấy sẽ không và không thể thua.”
Khát vọng chiến thắng của Klopp, Schäfer tán thành, tỏ ra thực sự kinh hãi. “Đôi lúc điều đó trở nên khó chịu. Cậu ấy tỏ ra rất bốc đồng, quá kích động. Dễ cáu gắt. Trong một trận đấu nọ, ở Saarbrücken, cậu ấy chạy ngay lại và hét vào mặt tôi trong vòng nửa phút đồng hồ. Tôi đã gây ra một quả phạt góc, tôi nghĩ vậy. Một phút sau, chuyện đó lại được bỏ qua, cậu ấy trở lại là đồng đội thân thiết. Cậu ấy không phải là mẫu người luôn cười nói và ôm ấp; cậu ấy có thể ngông cuồng và thiếu công bằng. Nhưng cậu ấy chẳng thù hằn ai bao giờ. Điều này cũng tốt.”
Jürgen Kramny, một cựu cầu thủ khác của Mainz từng có vinh dự - hoặc vận xui - chơi ngay phía trước hậu vệ dễ bị kích động này, kể một câu chuyện tương tự. “Dù tôi là một cầu thủ cừ, chẳng dễ dàng gì cho tôi khi có Kloppo ở phía sau. Cậu ấy thật to mồm. Nếu tôi không hỗ trợ đủ tốt, cậu ấy sẽ ca thán. Ôi trời, cậu ấy luôn miệng càu nhàu. Cậu ấy từng nổi khùng trên sân. Chúng tôi sẽ, nói thế nào nhỉ, trao đổi những góc nhìn thẳng thắn. Thi thoảng tôi cũng lao vào khẩu chiến. Mọi chuyện kiểu như: ‘Nếu cậu chuyền chuẩn hơn, tôi đã không phải chạy nhiều như vậy.’ Nhưng dùng ngôn từ khác.” Anh cười lớn. “Chúng tôi đều có thể kiềm chế được. Nhìn chung, chuyện đó ổn thỏa với cả hai bọn tôi.” Tiền đạo Sven Demandt, có một mối quan hệ tốt với Klopp, được trợ giúp nhờ một chút khoảng cách: “May mắn thay, cậu ấy cách xa tôi tận dưới hàng thủ, tôi không nghe được cậu ấy la hét nhiều đến vậy.”
Dù vậy, Kramny nhớ có một vụ việc trên sân tập khiến Klopp bực dọc đôi chút. “Cậu ấy ngồi bên một cái khung thành di động nhỏ, và tôi đứng đối diện cậu ấy sau một quả bóng. Tôi giả vờ tung cú sút. Cậu ấy giật mình, cái khung thành đổ nhào và cậu ấy ngã ngửa ra. Cậu ấy đứng dậy và đuổi tôi chạy quanh sân cho tới khi phải bỏ cuộc vì cơn đau trở nên trầm trọng hơn. Chắc tới giờ cậu ấy vẫn cảm nhận được.”
Ở 2. Bundesliga, một giải đấu được tạo nên từ sự bảo thủ, nợ nần và những nỗi sợ hãi, ai cũng dễ bị tổn thương. Hầu hết là vậy. Mainz, như phần đông các câu lạc bộ, tranh đấu cho một cuộc chiến trụ hạng không có hồi kết, và sự hung hăng - trên sân cũng như trên các khán đài - được coi là yếu tố tiên quyết. Trong một sự vụ điển hình không lấy gì làm dễ chịu tại sân Carl-Benz-Stadion của Waldhof Mannheim vào tháng 4 năm 1994, Klopp mắc sai lầm khi chui đầu qua lỗ hổng trên hàng rào khán đài để văng những lời đáp trả một nhóm cổ động viên Mannheim. “Cậu ấy bị vả vào mặt,” Schäfer cho hay. “Đó là lần cuối cùng cậu ấy dám chui đầu qua bất kỳ một cái hàng rào sân vận động nào khác.”
Vấn đề cốt yếu của Klopp chung quy cũng là bài toán chung của giải đấu. Anh muốn chơi thứ bóng đá hấp dẫn hơn, nhưng không làm nổi. Schäfer: “Cậu ấy thường nói rằng mình có ý tưởng tốt - rằng đường chuyền đó hoặc pha tạt bóng đó nên hướng đến đâu - nhưng đáng buồn là lại không có cách làm đúng.” “Anh ấy biết mọi thứ cần vận hành ra sao nhưng cơ thể của anh ấy không thể biến điều đó thành hiện thực,” Quast cho hay. “Có lần anh ấy bảo tôi rằng anh ấy cảm thấy như một kẻ bị cầm tù.”
Cảm giác giam hãm đó cuối cùng đã được giải phóng, khi Klopp được thúc đẩy để vượt qua những nhược điểm bên dưới viền cổ áo của anh qua việc suy nghĩ thấu đáo hơn nhiều về môn chơi này. Ban đầu, mối quan tâm của anh với chiến thuật không nhiều bằng những khía cạnh động lực xã hội của một đội bóng, theo quan sát của Hummels. “Cậu ấy tò mò về các mối quan hệ xã hội, bên trong phòng thay đồ và câu lạc bộ. Jürgen có một cảm nhận mạnh mẽ dành cho điều đó. Cậu ấy không nói kiểu: ‘Tôi không quan tâm, tôi chỉ ở đây để làm việc.’ Cậu ấy luôn hình dung đội bóng là một nhóm người. Cậu ấy không bao giờ là một gã khốn tự cao tự đại. Không bao giờ, chẳng khi nào cả.”
“Trải nghiệm ở Mainz 05 liên quan đến động lực nhóm dưới áp lực cực độ đã để lại một dấu ấn lớn với anh ấy,” theo lời Peter Krawietz, hiện là trợ lý thứ hai của Klopp tại Liverpool. “Nói thẳng ra, Mainz liên tục ở trong tình trạng bị dồn vào chân tường. Ngôi nhà ấy bốc cháy, mọi lúc. Họ trông mong mọi người sẵn sàng cống hiến tất cả mọi thứ. Anh ấy tiếp thu được một số lượng đáng kinh ngạc những động lực thúc đẩy một đội bóng trong những năm đó, và về những cá tính khác nhau mà bạn sẽ bắt gặp trong môn chơi này. Tôi tin anh ấy đã mang theo tất cả những năm tháng trong phòng thay đồ đó, suy xét chúng và nhận ra rằng nhiều chuyện có thể được giải quyết với một chút thường thức. Anh ấy có nhận thức cho từng hoàn cảnh, về việc nói điều đúng đắn vào thời điểm thuận lợi theo cách hợp lý.”
Dù vậy, khi nhìn lại khóa Khoa học thể thao của anh ở trường Đại học Goethe tại Frankfurt - ngành mà anh gắn bó cho tới khi tốt nghiệp với trình độ tương đương Cử nhân vào năm 1995 - Klopp tin rằng việc học của anh thực sự có lợi ích. “Đó là nền tảng của mọi thứ tôi làm sau này,” anh nói vào tháng 12 năm 2013. Anh học về lý thuyết đào tạo, phục hồi chức năng và tâm thần vận động, mối liên quan giữa đặc điểm trí tuệ và chuyển động cơ thể. “Hồi đó tôi chẳng hề biết rằng, tôi đang học công việc mà tôi có thể làm tốt nhất và muốn làm nhất: nghề huấn luyện.” Klopp nói thêm rằng việc học ở đó cũng dạy anh “cách làm việc độc lập”, và tầm quan trọng của nỗ lực: “Hoặc bạn hưởng lợi ngay tức thì hoặc mọi thứ sẽ lanh tanh bành, nếu bạn không làm hết sức. Bạn chẳng thể học những thứ đó dễ dàng như vậy ở những nơi khác.”
Trong một buổi phỏng vấn với tờ Der Tagesspiegel vào năm 2012, anh thừa nhận rằng mình “không phải là một sinh viên gương mẫu. Tôi có một gia đình và phải kiếm tiền bằng việc chơi bóng.” Nhưng, anh nói thêm, “việc giao thiệp với những giảng viên, các chuyên gia tâm lý học và xã hội học, cùng hiểu biết về hệ phương pháp có lẽ đã giúp tôi tìm ra những giải pháp trên tư cách một huấn luyện viên, mà tôi không nhận ra. Việc học có thể đã giúp tôi tránh được thất bại sớm khi làm huấn luyện viên.”
Mặc dù tài chính eo hẹp và thời gian biểu thậm chí còn chật chội hơn, anh thấy thú vị khi là một sinh viên. Vấn đề duy nhất của anh gắn liền với những phần thực hành kỳ quặc của khóa học. Bơi lội không phải môn anh thích, thể dục dụng cụ cũng vậy, nhảy sào lại càng không. Nhưng tại sao một người có tư tưởng bóng đá liên quan mật thiết với việc chạy lại thực hiện bài luận văn đại học về việc đi bộ?
Theo Klopp, ban đầu anh muốn viết về Rückenschule - phương pháp phòng ngừa đau lưng. Giáo sư Klaus Bös, người kèm cặp anh, không đồng ý, vì đã có cả tá chủ đề tương tự. (Trên thực tế, sự khác biệt chính là một phần làm nên sự cuốn hút của Klopp). Thay vào đó, Bös hướng anh viết về đi bộ, một “môn thể thao xu hướng” mới từ Mỹ mà trước đây chưa ai từng nghiên cứu một cách khoa học tại Đức. “Kết hợp với một sinh viên cùng ngành, chúng tôi tiến hành một nghiên cứu riêng biệt và đối chiếu các thống kê, thật thú vị,” Klopp nói.
Cấp đào tạo bóng đá của Klopp được nâng tầm bởi huấn luyện viên Wolfgang Frank của Mainz. Nhiệm kỳ đầu của ông tại sân Bruchweg (1995-1997) giống như một sự khai sáng về chiến thuật cho Klopp. Anh hiểu rằng một trận đấu có thể được nhìn nhận dưới dạng cấu trúc, như một chuỗi những sự sắp xếp mà một đội bóng được rèn luyện kỹ càng có thể gây ấn tượng mạnh mẽ với đội còn lại. Nhưng sự hứng thú của anh và Frank đều không bị thúc đẩy bởi một mối quan tâm trừu tượng dành cho cách thể hiện mang tính nghệ thuật hay còn gọi là thẩm mỹ. Chiến thuật, như giáo sư Frank dạy, là một phương tiện để đạt mục đích. “Tôi chưa bao giờ thích thú chuyện sáng tạo lại bóng đá,” Klopp nói sau đó, “tất cả những gì tôi muốn là tìm ra cách để giành chiến thắng thường xuyên hơn.”
Được coi là “cánh tay phải của thầy Frank” (Schäfer), Klopp không hề có sự kiên nhẫn với bất kỳ ai khác ngồi vào băng ghế huấn luyện sau đó. Quast nhớ lại một sự vụ khi huấn luyện viên quá cố Dirk Karkuth đương nhiệm, không lâu sau khi nhiệm kỳ hai của Frank tại sân Bruchweg kết thúc vào tháng 4 năm 2000. “Klopp bị thay ra ba phút trước khi hết giờ, trong tình thế Mainz đang dẫn 2-0 trước Stuttgarter Kickers. Karkuth đang dặn dò Machado - cầu thủ Brazil được cho là sẽ vào sân - trên đường biên. Klopp đi qua, đẩy Karkuth sang một bên và thay ông động viên Machado bằng cách vỗ lưng và khoa chân múa tay chỉ bảo những thứ cần làm trên sân. Sau đó Kloppo rời đi và sút tung một cái xô trong sự bực dọc.”
Khi hậu vệ được tái phân bổ này trở nên già và chậm đi, lối chơi của anh - vẫn “rất khó chịu, tranh chấp mạnh mẽ, giỏi đánh đầu, và nguy hiểm trong vòng cấm đối phương,” như cựu tiền vệ Sandro Schwarz của FSV nhận định - trở thành bằng chứng cho quan niệm rằng sự chuyên cần có thể ăn đứt năng lực. Những tập thể vốn tài năng hơn cho thấy việc chơi bóng một cách kiên định ở giới hạn cao nhất hoặc thậm chí cao hơn là điều có thể thực hiện được. “Anh ấy biến điều không thể thành có thể,” Schwarz cho hay. Ở tuổi mười chín, tiền vệ này mới chỉ được đôn lên từ đội trẻ, và thường xuyên săn đón Klopp, khi đó ba mươi tuổi, để tìm sự ủng hộ và lời khuyên. Nhiều cầu thủ từng làm vậy. “Anh ấy chính là người bạn muốn tìm đến, cả trên tư cách cầu thủ lẫn huấn luyện viên, khi có bất kỳ câu hỏi hay khúc mắc nào,” anh nói. “Anh ấy là thủ lĩnh tuyệt đối trong phòng thay đồ và cũng rất có ý thức xã hội.” Khi tiền vệ tuổi thiếu niên bị rách dây chằng chéo vào năm 1998, Klopp thậm chí còn trở thành hình mẫu cá nhân với anh này. “Anh ấy dính một chấn thương tương tự (hai năm trước) và tái xuất với thời gian kỷ lục, chỉ trong ba tháng. Anh ấy thực sự đã giúp đỡ tôi vượt qua giai đoạn hồi phục, giữ cho tôi luôn lạc quan.”
Các cầu thủ chuyên nghiệp thường cần ít nhất sáu tháng để chơi bóng lại sau khi bị rách dây chằng chéo. Sự gấp gáp trở lại sân đấu của Klopp nhấn mạnh sự tận tâm to lớn với đội bóng và công việc, nhưng đồng thời cũng phản ánh tình trạng tài chính bấp bênh của anh hồi đó. Các câu lạc bộ bóng đá Đức theo luật chỉ trả đầy đủ tiền lương cho các cầu thủ chấn thương trong sáu tuần đầu, sau đó bảo hiểm nhà nước sẽ chi trả 80 phần trăm. Đối với Klopp, 20 phần trăm bớt đi hằng tháng của một khoản tiền vốn đã eo hẹp là điều thực sự khó khăn. “Là một cầu thủ ở giải hạng Hai vào giữa những năm chín mươi, anh ấy lo ngại cho cuộc sống của mình,” Krawietz cho hay. “Anh ấy đang nhận vài nghìn DM một tháng, có một con nhỏ ở nhà và anh ấy hiểu rằng rớt hạng có nghĩa là dấu chấm hết cho câu lạc bộ và cho cá nhân anh ấy với tư cách một cầu thủ.” Ý chí chiến thắng của Klopp đã vượt xa tính ganh đua thượng võ mà anh được thừa hưởng từ cha mình. Anh muốn thắng vô cùng bởi anh buộc phải làm vậy. Cuộc sống mà anh đang trú chân hoàn toàn phụ thuộc vào điều đó.
“Chúng tôi thường xuyên ở trong tình cảnh thiếu thốn cùng cực,” Schäfer cho hay. “Vài tuần trước khi kết thúc một mùa giải, chúng tôi thường không biết liệu mùa tới có còn là cầu thủ chuyên nghiệp nữa hay không. Tôi vẫn trả được tiền thuê nhà chứ? Chuyện đó là thật, những câu hỏi nghiêm túc ở trình độ của chúng tôi. Sau mười năm ở Mainz, hai năm ở giải hạng Ba và tám năm ở giải hạng Hai, tôi kiếm được đủ tiền để mua một nửa căn hộ.”
Klopp cảm thấy anh có trách nhiệm phải thi đấu hết mình, Krawietz cho hay. “Năng lực để chuyên tâm hướng về trận đấu trong cả tuần, để hoàn toàn tập trung vào cơ hội nhằm chiến thắng và sống sót, kiểu vậy, và rồi cống hiến mọi thứ trong chín mươi phút - đó là vài điều anh ấy tự mở mang cho mình tại Mainz trên tư cách một cầu thủ. Giờ đây, anh ấy truyền lại khái niệm đó cho đội bóng của mình trên tư cách một huấn luyện viên.”