I
Một buổi sáng, trong một căn hộ thuộc một trong những tòa nhà lớn trên phố Gorokliovaia1, mà dân số đủ để thành lập một cái thị trấn tỉnh lẻ, ở đó, đang nằm trên giường là một anh chàng quý tộc tên Ilya Ilyitch Oblomov. Đó là một chàng trai trạc ngoài ba mươi tuổi, chiều cao trung bình, và có vẻ ngoài dễ coi. Xúi quẩy làm sao, trong đôi mắt xám sẫm màu của anh chàng lại chẳng có bất kỳ ý định rõ ràng nào cả, còn những đặc điểm khác trên khuôn mặt thì thiếu hoàn toàn sự tập trung. Một ý nghĩ sẽ bất thình lình lang thang ngang qua khuôn mặt chàng, tự do như một cánh chim, vẫy vẫy đôi cánh trong chốc lát nơi đôi mắt, đậu lên bờ môi hé mở, và lẩn quất giây lát trong những nếp nhăn nơi vầng trán. Thế rồi nó sẽ biến mất, và một lần nữa khuôn mặt chàng lại rực rỡ cái vẻ vô tư lự, lan đến tận dáng dấp, điệu bộ và len vào trong những nếp gấp ở cái áo choàng ngủ của chàng. Vào những lúc khác, ánh mắt chàng lại tối sầm đi vì mệt mỏi và buồn chán. Tuy vậy, cả vẻ mặt này lẫn vẻ mặt kia đều không thể hoàn toàn trục xuất khỏi dung mạo của chàng cái vẻ hiền lành đó, nó là đặc điểm nổi trội và chủ yếu, không phải chỉ của nét mặt, mà của cả cái tinh thần nằm ẩn ở bên dưới nét mặt đó nữa. Cái tinh thần đó tỏa sáng trong đôi mắt chàng, trong nụ cười của chàng, và trong mọi cử động của bàn tay cùng mái đầu chàng. Nếu như tình cờ liếc nhìn Oblomov, kẻ lạnh lùng, hay để ý hời hợt sẽ nói: “Rõ ràng anh ta tốt bụng, nhưng là một thằng ngốc.” Trong khi người sâu sắc và cảm thông hơn sẽ liếc nhìn lâu hơn, rồi lại tiếp tục trầm ngâm bước đi, trên môi nở nụ cười như thể đang vui vì điều gì đó.
1. Một trong những phố chính của Petrograd (nay là Saint Petersburg).
Khuôn mặt Oblomov không hồng hào, không xám xịt, cũng chẳng xanh xao, mà có màu sắc khó xác định. Dù thế nào đi chăng nữa, đó là cái ấn tượng mà nó gây ra - có lẽ là vì thiếu vận động rèn luyện, hoặc do thiếu không khí thoáng đãng, mà cũng có thể do thiếu cả hai, nên mặt chàng đã nhăn nheo trước tuổi. Nói chung, sau khi xem xét cái cổ trắng bong, đôi bàn tay nhỏ mũm mĩm, và hai bờ vai mềm mại của chàng, người ta sẽ kết luận rằng chàng có một cơ thể như của đàn bà. Thậm chí ngay cả khi phấn khích, những hành động của chàng cũng bị chi phối bởi cái tính hiền lành không thay đổi kia, góp thêm vào cái điệu bộ uể oải vốn dĩ chẳng hề thiếu chút bệ rạc nào. Mặt khác, nếu sự buồn chán trong tinh thần xuất hiện trên khuôn mặt, ánh mắt chàng sẽ trở nên lờ đờ, và hai hàng lông mày sẽ cau lại khi hoài nghi, nản lòng và lo lắng rơi vào cuộc giằng co đối địch lẫn nhau. Tuy thế, cơn khủng hoảng xúc cảm này hiếm khi kết tinh lại thành hình dạng một ý tưởng xác định - và trở thành hình dạng một quyết tâm dứt khoát thì còn hiếm hơn. Cảm xúc đó hầu như luôn bay hơi thành một tiếng thở dài, và tắt lụi dần vào trong cái vẻ thờ ơ lãnh đạm.
Trang phục mặc ở nhà của Oblomov tương hợp hoàn toàn với những đường nét tĩnh lặng trên khuôn mặt chàng và vẻ ẻo lả trong dáng người chàng. Bộ trang phục đang được nhắc đến ở đây bao gồm một cái áo choàng nữ được may bằng một thứ chất liệu Ba Tư nào đó - một cái áo choàng nữ Đông Phương thực sự - không có cả những quả tua lẫn những viền nhung, và chỗ thắt lưng, rộng lùng thùng đến mức Oblomov có thể quấn xung quanh mình đến những hai vòng. Thêm nữa, để phù hợp với thứ truyền thống không lẫn vào đâu được của châu Á, hai ống tay áo của nó rộng đều từ những khớp ngón tay lên đến tận vai. Thực ra, đó không còn là cái áo choàng mới nữa, và tại nhiều vị trí đã bợt đi cái vẻ óng ánh tự nhiên ban đầu vì bị mặc quá nhiều; tuy thế, nó vẫn còn giữ được cả sắc màu phương Đông sáng sủa lẫn sự toàn mỹ trong những đường kim mũi dệt của nó. Trong mắt Oblomov, đó là một tấm áo sở hữu vô số những phẩm chất vô giá, bởi vì nó vô cùng mềm mại và mượt mà đến mức, khi mặc vào, cơ thể như không cảm thấy sự hiện diện của nó, và, giống như một tên nô lệ ngoan ngoãn, nó đáp ứng lập tức ngay cả những cử động nhẹ nhàng nhất. Ở nhà, Oblomov không mặc gi lê lẫn thắt cà vạt, bởi vì chàng thích tự do thoải mái. Cũng vì lý do đó mà đôi dép lê của chàng dài, mềm, và rộng hết mức, đến nỗi, bất cứ khi nào chàng đưa chân từ trên giường xuống sàn, không cả nhìn xem mình đang làm gì, thì hai bàn chân đã có thể lập tức xỏ ngay được vào đôi dép rồi.
Với Oblomov, nằm ở trên giường không phải là sự cần thiết (như trường hợp một người tàn tật hay một người đã quá buồn ngủ), cũng không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên (như trong trường hợp một người đã quá mệt mỏi) hay sự ban thưởng (như trong trường hợp của một kẻ hoàn toàn lười biếng). Đúng hơn, nó thể hiện cái trạng thái bình thường của chàng. Bất cứ khi nào chàng ở nhà - cũng chẳng mấy khi chàng không ở nhà - chàng sẽ giết thời gian bằng cách nằm ngửa ra như thế. Thế nên chàng chỉ sử dụng có một căn phòng mà thôi - nó vừa mang chức năng phòng ngủ, phòng viết, và cả phòng tiếp khách nữa - mà ở trong đó chúng ta vừa mới khám phá ra chàng đấy. Thực ra, còn hai căn phòng nữa mà chàng được quyền sử dụng, nhưng ngoại trừ những buổi sáng ra (nói thế không hề có ý bảo là tất cả các buổi sáng), hiếm khi chàng nhòm vào trong đó khi người đầy tớ già của chàng vào quét dọn phòng viết. Đồ đạc ở trong hai căn phòng đó bị che phủ quanh năm, và những tấm rèm không bao giờ được kéo lên.
Mới nhìn thì thấy căn phòng nơi Oblomov đang nằm không to mà cũng chẳng nhỏ. Ở đó có một cái bàn viết bằng gỗ đỏ, hai cái ghế xô pha, được bọc bằng một thứ vải bóng láng nào đó, và một bức bình phong xinh đẹp thêu hình chim muông, hoa trái không có trong thế giới tự nhiên.
Căn phòng này cũng có những tấm màn cửa bằng lụa, mấy cái thảm chùi chân, vài bức tranh, những bức tượng đồng, mấy thứ đồ sứ, và hằng hà sa số những thứ vớ vẩn xinh xắn khác. Tuy thế, ngay cả cái liếc nhìn vội vàng nhất từ con mắt từng trải của một người có khiếu thẩm mỹ cũng chỉ có thể nhìn thấy ở đó cái xu hướng tuân theo les convenances1 mà bỏ qua chức năng thực sự của chúng. Không còn nghi ngờ gì nữa, đó là tất cả những gì Oblomov nghĩ đến lúc trang bị cho căn phòng viết của mình. Khiếu thẩm mỹ của một con người thực sự tao nhã hẳn không bao giờ thỏa mãn với những cái ghế gỗ đỏ cục mịch, thô thiển đến thế, với những thứ đồ đạc ọp ẹp như vậy. Thêm nữa, lưng của một trong những cái xô pha đã chùng xuống, và đôi chỗ, gỗ đã bong keo. Tình trạng gần giống như thế cũng có thể được trông thấy ở nơi những bức tranh, những cái lọ, và những thứ đồ đạc vặt vãnh khác trong căn hộ. Tuy vậy, ông chủ của nó đã quen với việc nhìn những đồ đạc ấy bằng con mắt lạnh lùng, bàng quan của một con người sẽ hỏi “Ai đã dám cả gan mang thứ này đến đây?” Chính thái độ dửng dưng như thế của chủ nhân có lẽ cũng góp thêm vào cái thái độ thậm chí còn dửng dưng hơn nữa ở lão đầy tớ Zakhar của chàng, là nguyên do mà căn phòng viết, khi được chú ý quan sát, sẽ khiến người thưởng ngoạn có một ấn tượng về sự cẩu thả và lơ là lan tràn khắp mọi nơi. Trên những bức tường và xung quanh những bức tranh là mạng nhện phủ đầy bụi; những tấm gương, thay vì để soi, lại thường được sử dụng làm tấm bảng ghi nhớ; tất cả các thảm chùi chân đều vấy bẩn lung tung; trên ghế xô pha là một cái khăn tắm bị bỏ quên, và ở trên bàn (hầu như sáng nào cũng thế) là một cái đĩa, một lọ muối, một cùi bánh mì đã bị ăn một nửa, và những vụn bánh vương vãi - tất cả những thứ đó đã không được dọn đi từ sau bữa ăn đêm hôm trước. Quả thực, nếu không phải vì cái đĩa, cái tẩu mới được sử dụng gần đây đặt tựa vào giường, và cái dáng người nằm nghiêng của Oblomov, thì người ta có thể tưởng rằng chẳng có ai sống ở nơi này cả, đó là vì cái vẻ bụi bặm và bạc màu của tất cả mọi thứ, và bầu không khí thiếu vắng dấu vết những hoạt động cho thấy sự hiện diện của một con người. Thực ra, ở trên cái tủ kệ có hai ba cuốn sách để mở, còn một tờ báo thì bị vứt lăn lóc, và trên mặt bàn làm việc cũng có một cái giá bút và dăm ba cây viết mực; nhưng các trang chỗ những cuốn sách mở ra đã bám đầy bụi và bắt đầu ố vàng (điều đó chứng minh rằng từ lâu chúng đã bị quẳng sang một bên), ngày trên tờ báo là thuộc về năm trước, và từ cái giá bút, bất cứ khi nào một cây viết được cắm vào, lại bay lên một con ruồi nhếch nhác, cùng với tiếng vo ve khiếp đảm.
1. Nguyên văn tiếng Pháp, nghĩa là “sự tiện lợi”.
Vào buổi sáng đặc biệt ấy, trái với lệ thường của chàng, Oblomov thức dậy vào cái giờ sớm sủa là tám giờ. Không biết vì sao mà anh chàng trông lại có vẻ lo âu; sự băn khoăn, hối hận và khó chịu không ngừng đuổi nhau qua nét mặt của chàng. Rõ ràng anh chàng đã trở thành nạn nhân của cuộc vật lộn nào đó trong nội tâm, và vẫn chưa yên ổn trở lại được. Chuyện là thế này, vào đêm hôm trước, chàng đã nhận được từ viên starosta1 tại điền trang của mình ở nông thôn một bức thư vô cùng khó chịu. Tất cả chúng ta đều biết những điều khó chịu mà một viên starosta có thể nói trong những lá thư của hắn là gì - nào là những vụ thu hoạch không thuận lợi, những khoản nợ bị khất, những khoản thu nhập bị giảm bớt, vân vân và vân vân; và dẫu cho cái gã viên chức đặc biệt này vẫn thảo những bức tâm thư đúng hệt như thế đã ba năm nay rồi, nhưng bức thư mới nhất của hắn vẫn tác động mạnh đến người nhận nó như thể Oblomov vừa lãnh một cú đánh bất ngờ. Tuy vậy, để công bằng với Oblomov mà nói, chàng vẫn luôn dành cho những công việc của mình một sự quan tâm nhất định. Quả vậy, ngay khi nhận được bức thư phiền phức đầu tiên của viên starosta (chàng nhận được nó ba năm về trước) chàng đã lập tức nghĩ ngay đến một kế hoạch thay đổi và cải tiến việc quản lý tài sản của mình. Ấy thế mà cho đến tận hôm nay, cái kế hoạch đó vẫn chưa được nghĩ ra hoàn toàn, dẫu cho từ lâu chàng đã nhận thấy sự cần kíp của việc phải tiến hành làm gì đó thật dứt khoát.
1. Nghĩa là “đốc công” hay “quản lý điền trang”.
Do đó, vừa mới thức giấc, chàng quyết tâm sẽ đứng dậy, rửa ráy, uống trà, cân nhắc các vấn đề, viết vội vài ba bức thư ngắn, và nói chung, giải quyết công chuyện một cách đúng đắn. Ấy thế nhưng trong suốt nửa giờ, chàng cứ nằm sấp dưới cuộc tra tấn của cái quyết tâm kia; cho đến khi quyết định rằng một sự giải quyết công việc như thế tốt nhất là nên được tiến hành sau khi đã uống trà, và rằng, cũng như thường lệ, chàng sẽ uống trà ở trên giường - nhất là khi mà tư thế nằm nghiêng không thể chứng tỏ là dấu hiệu cản trở cho việc suy nghĩ được.
Thế nên chàng làm như đã quyết; và sau khi uống trà xong, chàng chống khuỷu tay nhấc người mình lên, suýt chút nữa đã ra khỏi giường. Quả vậy, lúc liếc nhìn xuống đôi dép lê, chàng thậm chí đã thò một chân về phía đó, nhưng rồi lập tức rụt về ngay.
Đồng hồ điểm mười giờ rưỡi, Oblomov rung lắc toàn thân. “Chuyện gì ấy nhỉ?” Chàng nói một cách khó chịu. “Thật lòng mà nói, đã đến lúc ta phải làm điều gì đó rồi! Liệu ta có thể quyết định rằng sẽ... sẽ...” Chàng tự ngắt lời mình bằng tiếng gọi lớn: “Zakhar!” Ngay sau đó, một ông già trong bộ quần áo mặc ngoài màu xám có những khuy đồng bước vào trong phòng - đó là một ông lão nuôi ở bên dưới cái đầu hói nhẵn một cặp tóc mai dài, rậm rạp và hoa râm, đủ làm thành bộ râu cho ba người đàn ông bình thường. Bộ quần áo của lão, quả thực vậy, được cắt may theo kiểu nông thôn, nhưng lão nâng niu nó như một hồi ức mong manh về bộ chế phục trước đây của mình, như một biểu tượng phẩm giá còn sót lại của gia tộc nhà Oblomov. Gia tộc nhà Oblomov một thời đã từng giàu có và cao quý, nhưng trong những năm gần đây đã phải chịu cảnh nghèo nàn và sa sút, cho đến khi cuối cùng không còn nằm trong nhóm những gia đình quý tộc được phong tước mới đây nữa.
Oblomov quá chìm đắm vào suy nghĩ, đến mức trong một lát chàng không nhận thấy sự hiện diện của lão Zakhar; cuối cùng người đầy tớ đằng hắng một tiếng.
“Lão muốn gì?” Oblomov hỏi. “Ngài vừa gọi tôi ạ, thưa barin1?”
1. Nghĩa là “ông chủ” hoặc “ngài”.
“Lão bảo tôi gọi lão ư? Ồ, tôi không thể nhớ ra vì sao mình lại làm vậy. Quay về phòng lão đi cho đến khi tôi nhớ ra.”
Lão Zakhar rút lui, và Oblomov lại nghĩ về lá thư đáng nguyền rủa kia thêm mười lăm phút nữa.
“Mình nằm đây thế là đủ rồi.” Cuối cùng chàng tự nhủ. “Thực vậy, mình phải dậy thôi... Nhưng nếu như mình đọc lại bức thư thật cẩn thận rồi mới dậy thì sao nhỉ? Zakhar!”
Zakhar lại vào, và Oblomov ngay lập tức chìm vào một cơn mơ màng. Lão đầy tớ đứng nhìn ông chủ của mình với vẻ oán hận được che đậy trong một hoặc hai phút. Thế rồi lão quay trở lại phía cánh cửa.
“Sao lão lại bỏ đi?” Oblomov bất thình lình hỏi.
“Bởi vì, thưa barin, ngài chẳng nói gì với tôi cả. Tôi đứng ở đây thì có được tích sự gì đâu ạ.”
“Cái gì? Chân lão đã teo đến mức không thể đứng được một lát hay sao? Tôi đang lo lắng về một chuyện, thế nên lão phải chờ. Lão lại nằm ườn xác ra bên phòng mình chứ gì? Làm ơn kiếm giùm bức thư của viên starosta vừa mới gửi đến đây tối qua. Lão đã làm gì với nó rồi?”
“Lá thư nào cơ? Tôi chẳng trông thấy lá thư nào cả.” Lão Zakhar quả quyết.
“Nhưng chính lão đã nhận từ người đưa thư kia mà?”
“Có lẽ vậy, nhưng làm sao tôi biết từ lúc đó đến giờ ngài đã để nó ở đâu?” Lão đầy tớ lục lọi trong đống giấy tờ và những đồ vật khác ở trên bàn.
“Lão chả bao giờ biết cái gì cả.” Ông chủ lão nhận xét. “Tìm trong cái giỏ đằng kia xem. Hay có khi nào nó rơi đằng sau cái ghế xô pha không? Nhân tiện, lưng cái ghế xô pha vẫn chưa được sửa lại đấy. Gọi gã thợ mộc đến ngay. Chính lão làm gãy nó đấy, lão chả ngó ngàng đến nó bao giờ cả!”
“Tôi không làm gãy nó.” Lão Zakhar vặn lại. “Tự nó gãy đấy chứ. Nó chả thể dùng mãi được. Một ngày nào đó nó sẽ phải gãy.” Đây là điều mà Oblomov chả buồn tranh cãi. “Lão đã tìm thấy bức thư hay chưa?” Chàng hỏi.
“Rồi ạ... bao nhiêu là thư đây này.”
“Nhưng không phải là lá thư mà tôi cần.”
“Tôi chẳng thấy bức thư nào khác cả.” Lão Zakhar khẳng định.
“Thôi được rồi.” Oblomov nóng nảy đáp. “Tôi sẽ đứng dậy và tự tìm nó vậy.”
Lão Zakhar quay về phòng mình, nhưng vừa mới đặt hai bàn tay lên giường, chưa kịp nằm ườn ra thì lại nghe thấy vang lên mấy tiếng “Zakhar! Zakhar!” đầy cấp bách.
“Chúa ơi!” Lão đầy tớ gầm gừ khi lần thứ ba phải vào trong phòng viết. “Sao tôi lại phải chịu đựng cảnh hành hạ như thế này chứ? Thà chết quách đi còn hơn!”
“Khăn tay của tôi!” Oblomov kêu lên. “Đúng thế, và phải thật là nhanh lên đấy! Lão hẳn phải đoán được đấy là thứ mà tôi đang cần chứ.”
Lão Zakhar không tỏ bất kỳ dấu hiệu bất ngờ hay mếch lòng nào trước cái mệnh lệnh đầy oán trách kia. Có lẽ lão nghĩ cả cái mệnh lệnh lẫn lời oán trách đều là tất nhiên thôi.
“Ai mà biết cái khăn tay ấy ở đâu kia chứ?” Lão lẩm bẩm lúc đi một vòng khắp căn phòng để sờ lên từng cái ghế một (dẫu cho lão thừa hiểu rằng chẳng có gì được đặt trên những cái ghế đó cả). “Đồ đạc ngài cứ vứt lung tung hết cả.” Lão nói thêm lúc mở cánh cửa thông sang phòng khách để xem cái khăn tay có lẩn trốn ở trong đó hay không.
“Lão đi đâu đấy?” Oblomov la lên. “Lão phải tìm ở đây kia. Từ năm kia đến giờ tôi có sang căn phòng nào khác đâu. Lão không thể nhanh hơn được hay sao?”
“Tôi chẳng thấy cái khăn tay nào cả.” Lão Zakhar nói, dang hai tay ra và nhòm vào từng ngóc ngách. “Nó kia kìa!” Bất thình lình lão càu nhàu. “Nó ở ngay bên dưới ngài đấy. Một góc của nó thòi ra ngoài kia kìa. Ngài nằm đè lên nó suốt từ nãy đến giờ, thế mà còn bắt tôi đi tìm!” Lão tập tễnh bỏ đi không đợi cả nghe trả lời. Trong một lát, Oblomov hết sức ngạc nhiên, nhưng ngay lập tức tìm được cách khác để mắng mỏ lão đầy tớ của mình.
“Lão lau chùi hay gớm nhỉ!” Chàng nói. “Toàn bụi với bẩn, chắc chắn đấy! Nhìn mấy cái góc kia mà xem! Lão chẳng bao giờ chịu động tay động chân chút nào cả.”
“Nếu như tôi không bao giờ chịu động tay động chân…” Lão Zakhar vặn lại với vẻ mếch lòng. “Thì ít nhất tôi đã cố gắng hết sức, và không tự dung thứ cho bản thân, bởi vì tôi phủi bụi và quét dọn hầu như hằng ngày. Tất cả mọi thứ trông đều sạch sẽ và sáng sủa, đủ để tổ chức một cái đám cưới ấy chứ.”
“Nói dối!” Oblomov kêu lên. “Thôi xéo về phòng lão đi!” Việc khiêu khích được lão Zakhar tham gia vào cuộc chuyện trò kia đã mang lại cho chàng một chút niềm vui. Sự thật là chàng quên khuấy mất, khi một vấn đề nhạy cảm bị chạm đến, con người ta không hoàn toàn tránh khỏi được rối bời. Dẫu cho có mong muốn những căn phòng của mình được lau chùi sạch sẽ, chàng cũng mong cái nhiệm vụ đó sẽ được thực hiện một cách lặng lẽ, không để cho chàng phải trông thấy; trong khi ấy, bất cứ lúc nào lão Zakhar được gọi vào để làm một việc quét dọn hay phủi bụi dù là nhỏ nhặt nhất, thì chàng lại phàn nàn.
Oblomov chìm vào suy nghĩ sau khi lão Zakhar đã quay trở về căn phòng nhỏ của lão, cho đến vài phút sau đấy, đồng hồ gõ chuông báo hiệu nửa giờ đã trôi qua.
“Cái gì thế nhỉ?” Oblomov hốt hoảng kêu lên. “Chẳng bao lâu nữa sẽ mười một giờ, thế mà mình còn chưa dậy và lau rửa! Zakhar! Zakhar!”
Zakhar lại xuất hiện.
“Đồ lau rửa của tôi đã sẵn sàng chưa đấy?” Ông chủ lão hỏi.
“Rồi ạ, chúng đã sẵn sàng từ lâu rồi. Sao ngài không dậy đi ạ?”
“Thế sao lão không bảo tôi mọi thứ đã sẵn sàng rồi? Lão mà làm thế, thì tôi đã dậy từ lâu rồi. Đi đi, và tôi sẽ đi theo lão; nhưng bây giờ tôi phải ngồi xuống để viết một lá thư đã.”
Zakhar rời khỏi căn phòng. Ngay sau đó lão lại xuất hiện với một cuốn sổ kế toán dây mỡ đầy những chữ viết cẩu thả và một bọc giấy.
“Nếu như ngài định viết cái gì đấy…” Lão nói. “Có lẽ ngài cũng muốn kiểm tra cả những hóa đơn này nữa? Có vài món tiền đã đến hạn phải trả rồi đấy ạ.”
“Hóa đơn nào? Tiền nào?” Oblomov cáu kỉnh hỏi. “Những hóa đơn từ chỗ lão hàng thịt, mụ bán rau quả, ả thợ giặt và gã bán bánh ạ. Tất cả đều đang đòi tiền mình.”
“Lúc nào cũng tiền và lo lắng!” Oblomov càu nhàu. “Sao lão không đưa cho tôi từng cái một mà lại đưa cả xấp thế này?”
“Bởi vì cứ mỗi lần như vậy ngài lại đuổi tôi ra, rồi lại để đấy cho đến ngài mai.”
“Ồ, những hóa đơn này có thể chờ cho đến ngày mai được đấy.”
“Không, không thể được đâu, đám chủ nợ đang hối thúc, bọn họ nói rằng sẽ không cho ngài mua chịu nữa. Hôm nay là ngày đầu tháng, ngài phải nhớ chứ ạ.”
“A! Những mối bận tâm mới, những lo lắng mới!” Oblomov rầu rĩ kêu lên. “Sao lão còn đứng đấy? Sửa soạn cái bàn mau, tôi sẽ dậy, lau rửa, rồi sẽ xem xét toàn bộ công việc. Nước đã sẵn sàng chưa?”
“Lâu rồi ạ.”
Oblomov vươn mình dậy và cằn nhằn như thể thực sự có ý định sẽ rời khỏi cái giường.
“Nhân tiện…” Lão Zakhar nói. “Trong lúc ngài đang ngủ, lão quản lý tòa nhà có cử một gã dvornik1 đến nói rằng ngài phải rời khỏi căn hộ này ngay, bởi vì lão muốn lấy lại nó để dành cho một người khác.”
1. Phu khuân vác hay người gác cửa.
“Tốt thôi. Chúng ta phải đi rồi. Sao cứ làm tôi phải lo lắng về chuyện ấy thế nhỉ? Đây là lần thứ ba lão làm thế rồi đấy.”
“Nhưng bọn họ cứ quấy quả tôi về chuyện này suốt.”
“Thế thì cứ bảo với bọn họ rằng chúng ta sẽ đi.”
Lão Zakhar lại đi ra, và Oblomov quay trở về với cơn mơ màng của mình. Không biết chàng sẽ còn ở trong tình trạng thiếu quả quyết như thế bao lâu nữa nếu cái chuông cửa không vang lên ngoài hành lang.
“Có người đến chơi, thế mà mình còn chưa dậy!” Oblomov kêu lên lúc khoác tấm áo choàng vào người. “Ai vậy nhỉ?”
Lại nằm xuống, chàng cáu tiết chăm chú nhìn cánh cửa.
II
Bước vào là một người đàn ông trẻ khoảng hai mươi lăm tuổi. Rạng ngời sức khỏe và áo quần không chê vào đâu được, đến mức độ làm người ta lóa mắt với thứ vải lanh trắng bong, sạch tinh và trang sức lộng lẫy, anh ta là một nhân vật sinh ra trên đời để bị người khác ghen tị.
“Xin chào, Volkov!” Oblomov kêu lên.
“Xin chào.” Quý ông rực rỡ kia đáp lời, tiến lại gần giường và nhìn quanh tìm chỗ để đặt mũ. Tuy vậy, sau khi nhìn thấy chỉ toàn bụi là bụi, anh ta đành cầm nguyên cái mũ trên tay. Thế rồi anh ta kéo vạt áo choàng ngoài của mình sang một bên (sửa soạn để ngồi xuống), nhưng sau khi xem xét nhanh cái ghế gần nhất, anh ta cho rằng cứ đứng như thế hóa ra lại hay hơn nhiều.
“Anh vẫn chưa dậy kia à?” Anh ta nói. “Thế quái nào mà anh vẫn còn mặc cái áo ngủ như thế hử? Chúng đã lỗi thời từ lâu rồi.”
“Đây không phải là áo ngủ, đây là một cái áo choàng.” Oblomov nói, âu yếm cuộn mình trong những nếp rộng lùng thùng của cái áo choàng. “Anh từ đâu đến thế?”
“Từ chỗ lão thợ may. Anh có nghĩ cái áo choàng này đẹp không?” Và anh ta quay người vòng vòng để cho Oblomov ngắm nghía.
“Đẹp tuyệt! Được may bằng một khiếu thẩm mỹ vô cùng tinh tế!” Chàng nhận xét. “Chỉ có điều vì sao đằng sau nó lại rộng thế?”
“Để cưỡi ngựa cho được thoải mái đấy. Đây là cái áo choàng mặc để cưỡi ngựa. Tôi đã đặt may và lấy nó vào hôm nay vì lý do hôm nay là ngày đầu tiên của tháng Năm và tôi sẽ đến Ekaterinhov cùng với Gorunov. Hắn vừa mới được thăng chức, và chúng tôi định nhân dịp này mà phô trương một bữa. Hắn có một con ngựa lang - tất cả ngựa trong trung đoàn của hắn đều là ngựa lang - thế mà ngựa của tôi lại màu đen. Thế còn anh thì sao - đi xe hay đi bộ?”
“Chẳng đi xe cũng chẳng đi bộ.” Oblomov đáp.
“Cái gì? Hôm nay là ngày đầu tiên của tháng Năm, thế mà anh định không đến Ekaterinhov sao? Tất cả mọi người đều sẽ có mặt ở đó đấy!”
“Không thực sự là tất cả mọi người đâu.” Oblomov lười biếng nói.
“Dù sao anh cũng phải đi. Sophia Nikolaevna và Lydia sẽ đi chung xe với chúng ta, nhưng ghế đối diện với họ bị bỏ trống. Đi với chúng tôi đi, xin anh đấy.”
“Không, tôi không định ngồi vào cái ghế trống ấy đâu.
Tôi mà ngồi vào đấy thì sẽ ra cái thứ dị hợm gì kia chứ?”
“Thế thì, nếu anh thích, Mischa Gorunov sẽ cho anh mượn một con ngựa.”
“Gã này đang nghĩ cái gì thế không biết?” Oblomov nói như thể nhủ thầm. “Làm sao anh và nhà Gorunov lại thân thiết với nhau thế nhỉ?”
“Hãy thề danh dự rằng anh sẽ không tiết lộ cho ai biết, rồi tôi sẽ giải thích cho anh nghe.”
“Xin thề.”
“Rất tốt. Tôi yêu Lydia.”
“Tuyệt vời! Anh yêu cô ấy đã lâu chưa? Cô ấy thật là xinh đẹp.”
“Tôi yêu nàng đã được ba tuần rồi.” Volkov nói, với một tiếng thở dài. “Còn Mischa thì yêu Dashenka.”
“Dashenka là ai?”
“Sao! Anh không biết Dashenka ư? Thế nào, cả thành phố đang ca tụng những bước nhảy của cô ấy. Tối nay tôi sẽ đi xem nhạc kịch với Mischa, và hắn sẽ ném cho cô ấy một bó hoa. Ồ, tôi phải đi mua hoa trà đây.”
“Xong thì quay về đây ăn trưa với tôi nhé. Tôi muốn nói chuyện với anh, bởi vì tôi vừa mới gặp phải hai chuyện không may.”
“Tôi sợ rằng không thể, bởi vì tôi sẽ ăn trưa với Hoàng thân Tiumenev. Tất cả thành viên nhà Gorunov - vâng, cả Lydia nữa - đều sẽ có mặt ở đó. Một ngôi nhà mới tươi vui làm sao! Cả ngôi nhà ở nông thôn của Tiumenev cũng thế. Tôi nghe nói ở đó sẽ có vô số những buổi khiêu vũ và hoạt cảnh vào mùa hè này. Anh có khả năng được mời không nhỉ?”
“Không - tôi nghĩ là không.”
“Cái ông Hoàng thân này mới hiếu khách làm sao! Mùa đông này số lượng khách khứa trung bình của anh ta là năm mươi, có khi lên đến một trăm người.”
“Tất cả những chuyện đó chắc hẳn phải mệt mỏi vô cùng!”
“Cái gì? Mệt mỏi ư? Có mà càng đông lại càng vui ấy chứ. Lydia cũng đã từng đến đấy - dẫu cho lúc bấy giờ tôi hầu như chẳng để ý gì đến nàng cả. Quả thực, tôi đã chẳng để ý gì đến nàng, cho tới một hôm tôi nhận ra mình “đang cố gắng vô ích để quên nàng, đang lấy lý trí đấu tranh vô ích với tình yêu trên vũ đài”.” Volkov ngâm nga những lời cuối cùng này, và vô tình ngồi xuống một cái ghế. Thế rồi gần như ngay lập tức anh ta phải đứng bật dậy, phủi bụi bám trên quần mình.
“Anh giữ ở đây mới lắm bụi làm sao!” Anh ta nhận xét.
“Đấy là lỗi của lão Zakhar, chả phải của tôi.” Oblomov đáp.
“Ồ, bây giờ tôi phải đi đây, bởi vì có một việc vô cùng quan trọng, đó là tôi sẽ mua những đóa hoa trà cho bó hoa của Mischa. Au revoir1!”
1. Nguyên văn tiếng Pháp, nghĩa là “tạm biệt”.
“Hãy đến uống trà sau buổi hòa nhạc, và kể cho tôi nghe tất cả nhé.”
“Ồ, không thể được, bởi vì tôi đã hứa sẽ đến ăn khuya ở nhà Musinski rồi. Anh cũng biết hôm nay là ngày tiếp khách của họ rồi đấy. Tuy vậy, hãy đến đó gặp tôi, tôi sẽ giới thiệu anh.”
“Có gì ở nhà Musinski?”
“Sao, anh không biết thật ư? Cuộc giải trí ở ngôi nhà nơi anh có thể nghe mọi tin tức.”
“Chuyện này hẳn cũng sẽ làm tôi phát chán như tất cả những chuyện khác mà thôi.”
“Thế thì hãy đến chơi nhà Mezdrov, nơi những cuộc chuyện trò chỉ xoay quanh một chủ đề, và chỉ một chủ đề mà thôi - nghệ thuật. Anh sẽ chẳng nghe thấy gì khác ngoài trường phái Venice. Beethoven, Bach, Leonardo da Vinci, vân vân và vân vân.”
“Tất cả những thứ đó thật là chán ngắt!” Oblomov nói với một cái ngáp. “Nhà Mezdrov hẳn phải là một lũ thông thái rởm! Anh không bao giờ thấy mệt với việc cứ chạy hết từ nhà này sang nhà khác như thế sao?”
“Mệt ư? Sao lại mệt? Mỗi buổi sáng tôi đều thích đi ra ngoài và hỏi thăm tin tức. Cảm ơn Chúa, công việc hành chính của tôi không bao giờ đòi hỏi tôi phải thực sự có mặt, ngoại trừ hai lần một tuần, lúc phải ăn trưa và thực hiện nghĩa vụ dân sự với Tướng quân1. Sau đó tôi đến thăm những người lâu ngày rồi chưa lại chơi. Sau đấy là đến xem một đào hát mới nào đó - có thể là ở nhà hát Nga hoặc nhà hát Pháp. Hơn nữa, lúc nào cũng phải dành thời gian đến nhà hát nhạc kịch, nơi mà tôi đã đặt mua vé dài hạn. Thêm nữa, tôi đang yêu, còn Mischa thì sắp sửa tận hưởng đợt nghỉ phép một tháng không phải ở trung đoàn, mà mùa hạ thì chỉ vừa mới bắt đầu mà thôi, Mischa và tôi dự định sẽ đến ở ngôi nhà nông thôn của hắn để thay đổi không khí. Ở đó, chúng tôi sẽ chơi thể thao rất nhiều, bởi vì hắn có những bạn láng giềng xuất sắc và bọn họ sẽ tổ chức bals champêtres2. Thêm nữa, tôi sẽ có thể hộ tống Lydia đi dạo chơi trong rừng, chèo thuyền chở nàng đi chơi và hái những bông hoa cho nàng. Bây giờ thì tôi phải đi rồi. Tạm biệt!”
1. Trong trường hợp này chữ “Tướng quân” biểu thị một cấp bậc dân sự tương đương với cấp bậc đó trong quân sự.
2. Nguyên văn tiếng Pháp, nghĩa là “những buổi vũ hội nông thôn”.
Lúc đứng dậy, anh ta còn cố gắng soi mình trong tấm gương bám đầy bụi; sau đó anh ta bỏ đi - rồi lại quay trở lại để khoe với bạn đôi găng tay kiểu Pháp mốt mới nhất đang thịnh hành tại Paris và một tấm thiếp Phục sinh mà Hoàng thân Tiumenev vừa mới gửi cho anh ta.
“Ôi, cái cuộc sống ấy!” Oblomov vừa nghĩ vừa nhún vai. “Sống như thế thì được cái gì nhỉ? Chỉ có hoang toàng và phí hoài tất cả. Tất nhiên, thỉnh thoảng đến nhà hát một lần cũng chẳng phải là việc xấu, cả yêu đương cũng thế - bởi vì Lydia là một cô nàng xinh đẹp, yêu kiều, và những trò theo đuổi như hái hoa với cô ấy và chèo thuyền chở cô ấy đi chơi thì ngay cả mình cũng khoái; nhưng hằng ngày phải có mặt ở mười nơi khác nhau như Volkov thì...”
Chàng nằm ngửa người ra và tự tán thưởng rằng ít nhất mình không có những ham hố xã hội phù phiếm đó. Tốt hơn là cứ nằm nguyên một chỗ và giữ gìn cả thần kinh lẫn phẩm giá con người mình...
Lại một tiếng chuông cửa nữa vang lên làm gián đoạn những nghĩ suy của chàng. Lần này vị khách là một quý ông khoác trên mình tấm áo choàng ngoài tối màu với những chiếc cúc hình huy hiệu, đặc điểm nổi bật nhất của người đó là cái cằm nhẵn nhụi, hai chòm râu má đen bao quanh một khuôn mặt phờ phạc (nhưng lặng lẽ và sáng suốt) cùng một nụ cười trầm ngâm.
“Xin chào, Sudbinski!” Oblomov sung sướng kêu lên. “Xin chào bạn.”
Quý ông kia đáp lại. “Lâu rồi không được gặp anh, nhưng anh cũng biết lo mấy cái chuyện công vụ nghĩa là đủ thứ quái quỷ thế nào rồi đấy. Hãy nhìn đống báo cáo tôi mang theo đây mà xem! Và không chỉ có thế, nhưng tôi đã phải nhắn lại cơ quan nếu cần có thể bảo người đến đây tìm tôi. Chẳng khi nào được yên ổn một mình cả.”
“Thế ra anh đang trên đường đến cơ quan đấy ư? Làm sao anh lại đi làm muộn thế? Giờ thường lệ của anh là chín giờ kia mà.”
“Vâng, đã từng là chín giờ, nhưng bây giờ mười hai giờ tôi mới đi.”
“A, tôi hiểu rồi: Anh vừa mới được bổ nhiệm làm trưởng bộ phận. Từ khi nào thế?”
“Từ lễ Phục sinh.” Sudbinski đáp, với cái gật đầu đầy ý nghĩa. “Nhưng công việc thì mới ngập đầu ngập cổ làm sao! Thật là kinh khủng! Từ tám đến mười hai giờ sáng tôi làm nô lệ ở nhà; từ mười hai đến năm giờ ở Văn phòng Bộ trưởng; và suốt buổi tối lại ở nhà. Tôi đã hoàn toàn chẳng liên hệ gì với những người quen biết nữa rồi.”
“Hôm nay đến ăn trưa với tôi đi, chúng ta sẽ uống mừng việc thăng tiến của anh.” Oblomov nói.
“Không, hôm nay tôi sẽ ăn trưa với ông Phó Cục trưởng, cũng như có một bản báo cáo phải chuẩn bị cho thứ Năm. Anh biết đấy, không thể tin những bản báo cáo từ các tỉnh được, mà phải tự mình thẩm tra lại tất cả các bản thống kê. Hôm nay anh sẽ đến Ekaterinhov chứ?”
“Không, tôi thấy không được khỏe.” Oblomov nhíu mày đáp. “Vả chăng, cũng như anh, tôi có việc phải làm.”
“Tôi rất lấy làm tiếc.” Sudbinski nói. “Bởi vì hôm nay thật là đẹp trời, và là ngày duy nhất mà tôi có thể hy vọng được thảnh thơi một chút.”
“Mà anh có tin tức gì mới thế?” Oblomov hỏi.
“Ồ, rất nhiều. Giờ chúng ta không cần phải viết ở cuối những bức thư hành chính cái câu “Kẻ nô bộc khiêm nhường của ngài” nữa mà chỉ cần “Xin hãy nhận lời đảm bảo về lòng kính trọng sâu sắc của tôi.” Chúng ta cũng được thông báo rằng không cần phải sao các tài liệu chính thức nữa. Cũng như thế, cơ quan của chúng ta vừa mới được chia cho ba cái bàn mới và mấy viên thư ký riêng. Cuối cùng, Ủy ban vừa chọn được những vị trí của nó. Có cả một đống tin tức dành cho anh đấy!”
“Thế còn những bạn đồng chí cũ của chúng ta thì sao?”
“Hiện giờ thì không có gì, ngoại trừ việc Svinkin đã thua trong vụ kiện của anh ta.”
“Thế ra anh làm việc từ tám đến mười hai giờ, và từ mười hai giờ đến năm giờ, và cả buổi tối nữa! Ôi bạn thương mến ơi là bạn thương mến!”
“Ồ, nếu không ở trong Nhà nước thì tôi biết làm gì?” Sudbinski hỏi.
“Anh có thể đọc và viết những gì mình thích.”
“Nhưng đâu phải ai cũng có thể làm nhà văn học được. Chẳng hạn như chính anh có viết cái gì đâu.”
“Không, bởi vì tôi có một số tài sản ở trong tay.” Oblomov nói với một tiếng thở dài. “Nhưng tôi đang nghĩ cho nó một hệ thống mới; tôi sẽ thực hiện nhiều loại cải tổ khác nhau. Việc này làm tôi bận tâm lo nghĩ kinh khủng.”
“Ồ, về phần tôi, tôi phải làm việc, để kiếm một ít tiền. Vả chăng, mùa thu tới tôi sẽ cưới vợ.”
“Thực ư! Cưới ai thế?”
“Cưới tiểu thư Murashina. Anh có nhớ căn biệt thự ở nông thôn của họ không, kế bên căn của tôi ấy? Tôi nhớ hình như anh đã đến uống trà với tôi và gặp nàng ở đó rồi thì phải?”
“Không, tôi chẳng nhớ gì cả. Cô ấy có xinh đẹp không?”
“Có chứ, rất quyến rũ. Hôm nào chúng ta ăn trưa với nàng thì sao nhỉ?”
Oblomov do dự. “Hay đấy.” Chàng nói sau một lát im lặng. “Chỉ có điều...”
“Tuần sau thì thế nào nhỉ?”
“Chắc chắn rồi. Tuần sau được đấy. Nhưng vào lúc này tôi chẳng có bộ quần áo nào thích hợp cả. Fiancée1 của anh có phải là một mối giàu có hay chăng?”
1. Nguyên văn tiếng Pháp, nghĩa là “vị hôn thê”.
“Vâng, bởi vì cha nàng là một hội viên Hội đồng Nhà nước, và định sẽ cho nàng mười ngàn rúp1 cũng như sẽ cho phép chúng tôi được sống trong một nửa ngôi nhà công vụ của ông ấy (ngôi nhà gồm có mười hai phòng - tất cả đều được trang bị đồ đạc, củi sưởi, ánh sáng, và được trả bằng tiền công quỹ); vì thế chúng tôi sẽ sống rất ổn. Nhân đây xin mời anh làm phù rể cho tôi.”
1. Đơn vị tiền tệ của Nga.
Chuông cửa lại rung vang.
“Tạm biệt.” Sudbinski nói. “Tôi thấy bồn chồn quá, có lẽ ở cơ quan người ta đang cần tôi.”
“Ở lại đây đi.” Oblomov nài nỉ. “Tôi cần nghe lời khuyên của anh, cho hai việc không may vừa mới xảy ra với tôi.”
“Không, không, tôi đến thăm anh vào hôm khác thì hơn.” Và Sudbinski đi ra.
“Ngập đầu ngập cổ trong công việc, ôi anh bạn tốt!” Oblomov nghĩ lúc nhìn theo bạn mình đi ra. “Đúng thế, và câm, điếc, mù với tất cả mọi thứ khác ở trên đời! Tuy vậy, bằng việc tham gia vào xã hội và đồng thời bận tối mắt tối mũi anh sẽ… có được tước hiệu, và thăng tiến. Đó là thứ mà họ gọi là “một cái sự nghiệp”! Tuy thế mà một người đàn ông như vậy mới ít công dụnglàm sao! Trí tuệ của anh ta, ý chí của anh ta, cảm xúc của anh ta - chúng có ích gì cho anh ta kia chứ? Chỉ là một loạt những điều xa xỉ - chẳng có gì hơn. Một con người như thế sống cả cuộc đời bé mọn của mình mà chẳng đạt được điều gì đáng để được nhắc đến; và trong khi chờ chết, anh ta làm việc từ sáng đến tối ở trong một cái công sở - vâng, từ sáng cho đến tối, ôi con người bất hạnh tội nghiệp!”
Chắc chắn phải có một chút thỏa mãn âm thầm được rút ra từ cái ý nghĩ rằng từ chín giờ đến ba giờ, và từ tám giờ đến chín giờ ngày hôm sau, chàng, Oblomov đây, vẫn có thể nằm sấp trên một cái xô pha thay vì cứ phải lóc cóc chạy khắp nơi với những bản báo cáo và phải viết hàng đống tài liệu. Vâng, chàng muốn để cho những cảm giác và trí tưởng tượng của mình được nhàn rỗi muốn làm gì thì làm hơn. Chìm đắm trong cơn mơ màng triết học, chàng không để ý thấy đã có một người đàn ông với khuôn mặt xương xương ngăm đen hầu như bị che khuất bởi bộ tóc mai dày, bộ ria và chòm râu dưới môi dưới đã đến đứng bên cạnh giường mình. Cả quần áo người mới đến cũng lộ rõ tính chểnh mảng của anh ta.
“Chào buổi sáng, Oblomov.” Anh ta nói.
“Chào buổi sáng, Penkin.” Đó là câu đáp lại. “Tôi muốn cho anh xem bức thư mà tôi vừa mới nhận được từ viên quản lý của mình. Anh nhảy ra từ nơi nào vậy?”
“Từ quầy bán báo ở gần đây. Tôi đến để xem báo đã ra chưa. Anh đọc bài báo mới nhất của tôi rồi chứ?”
“Chưa.”
“Vậy thì anh nên đọc.”
“Nó nói về cái gì thế?” Oblomov hỏi với một cái ngáp uể oải.
“Về thương mại, về việc giải phóng phụ nữ, về những ngày tháng Tư tươi đẹp mà chúng ta vừa mới được tận hưởng, và về đội lính cứu hỏa vừa mới được thành lập. Làm sao anh lại chưa đọc bài báo ấy nhỉ? Ở trong đó anh sẽ được thấy chân dung toàn bộ cuộc sống thường ngày của chúng ta. Quan trọng hơn hết là ở trong đó anh sẽ đọc thấy cuộc tranh luận về chủ nghĩa hiện thực đương đại: một xu hướng trong văn chương.”
“Anh không có việc gì khác để làm ư?” Oblomov hỏi. “Có chứ, rất nhiều. Tôi viết hai bài báo một tuần, bên cạnh việc điểm những cuốn sách. Thêm vào đó, tôi vừa mới viết xong một câu chuyện.”
“Nó nói về điều gì vậy?”
“Nó kể việc, ở thị trấn kia, một ông quan đã tự tay đánh người dân của mình như thế nào.”
“Trào lưu hiện thực, khá đúng đấy!” Oblomov nhận xét.
“Thực vậy.” Nhà văn học vui sướng nói. “Trong câu chuyện của tôi (nó là một cuốn tiểu thuyết có nội dung khá táo bạo) một nhà du lịch đã chứng kiến một cuộc đánh đập như thế, bèn tìm cách gặp ông tỉnh trưởng, đệ trình một lá đơn kiện. Ngay lập tức ông tỉnh trưởng ra lệnh cho một viên chức đến thị trấn nọ để tiến hành điều tra xem cái đơn kiện kia có đúng sự thật hay không, và cũng để thu thập chứng cứ về nhân cách và hành vi của ông quan nọ. Người viên chức đang được nói đến ở đây đã tập hợp người dân địa phương lại, với cái cớ là một buổi hội nghị thương mại, và rồi làm như tình cờ hỏi họ về cái vụ việc trên. Và anh có biết họ đã làm gì không? Họ chỉ cười, khen ngợi và dành cho ông quan đó vô số lời ca tụng! Sau đấy, người viên chức hỏi thêm mấy câu ngoài lề nữa, và đã được thông tin cho biết rằng đám dân chúng nói trên toàn là những tên đểu giả chuyên buôn thiu bán thối, bán hàng thiếu cân, lừa dối Bộ Tài chính, và đắm mình trong những trò thương mại vô đạo đức; do đó mà những cuộc đánh đập là sự trừng phạt cũng xứng đáng thôi.”
“Thế anh định miêu tả những cuộc hành hung của viên quan như yếu tố quan trọng của câu chuyện, giống như cái fatum1 của những tác gia bi kịch ngày xưa đấy à?”
1. Tiếng Latin nghĩa là “tai họa”, hay “sự phán quyết”.
“Thực vậy.” Penkin nói. “Anh thật là nhanh trí, đáng lý ra anh cũng nên viết truyện mới phải. Vâng, tôi vẫn luôn có ý định vạch mặt thói chuyên quyền của những viên quan cai trị địa phương của chúng ta, phơi bày sự suy đồi đạo đức của cái đám ấy, tình trạng tổ chức sai lầm đang tồn tại giữa những viên chức cấp dưới của chúng ta, và sự cần thiết phải có các biện pháp quyết liệt, nhưng hợp pháp, để làm đối trọng với những điều xấu xa kia. Đó là ý tưởng mới lạ cho một câu chuyện, chả phải sao?”
“Chắc chắn rồi; và đối với tôi, kẻ đọc rất ít, thì đó là một cuốn tiểu thuyết khác thường.”
“Đúng thế, tôi chẳng trông thấy anh cầm một quyển sách trên tay bao giờ. Tuy vậy, tôi xin anh hãy đọc một bài thơ mà tôi có thể nói là rất ngắn. Đó là bài Tình yêu mà một tên tống tiền dành cho một người đàn bà sa ngã. Tôi không được phép tiết lộ danh tính tác giả - dù sao thì cũng chưa được phép.”
“Làm ơn hãy cho tôi biết một ý kiến về bài thơ đó.”
“Nó phơi bày, như anh sẽ thấy, toàn bộ thuyết cơ giới của vận động xã hội - nhưng là một cái thuyết cơ giới chỉ được tô vẽ bằng những sắc màu của thi ca mà thôi. Tất cả lò xo của cái động cơ đó đều được sờ đến, và tất cả mọi mức độ của cán cân xã hội đều được đưa ra ánh sáng. Chúng ta thấy một vị chúa tể yếu đuối nhưng sống sa đọa, cùng với một đám những tên tống tiền có liên quan đến việc lừa gạt ông ta, bị gọi lên trước vành móng ngựa, có thể nói như thế. Nhiều hạng đàn bà hư đốn khác nhau cũng bị xem xét - đàn bà Pháp, đàn bà Đức, và những nước khác nữa; toàn bộ sự việc đã được tiến hành với một sự giả dối tinh vi và chấn động. Một vài trích đoạn của bài thơ đó đã lọt đến tai tôi, và tôi có thể nói rằng tác giả là một con người vĩ đại - người ta nghe thấy ở tác giả này những vần thơ của cả Dante1 lẫn Shakespeare2.”
1. Dante Alighieri (1265-1321): một nhà thơ lớn người Ý, tác phẩm Thần khúc của ông được coi là tác phẩm văn học vĩ đại nhất bằng tiếng Ý.
2. William Shakespeare (1564-1616): một nhà văn, nhà viết kịch vĩ đại người Anh.
“Nhưng anh ta đã khởi nguồn từ đâu vậy?” Oblomov hỏi, ngạc nhiên chồm người tới phía trước; nhưng Penkin, chợt nhận ra mình đã nói quá nhiều, chỉ nhắc lại rằng Oblomov phải đọc bài thơ đó, rồi tự mình phán xét lấy. Đó là việc mà Oblomov từ chối làm.
“Tại sao?” Penkin hỏi. “Bài thơ này sẽ gây được tiếng vang lớn và sẽ được nói đến rất nhiều.”
“Rất tốt thôi: cứ để cho mọi người nói. Đấy là tất cả những gì mà một số người nào đó phải làm. Đấy là nghề nghiệp của họ.”
“Dù sao cũng hãy đọc nó, dù chỉ để thỏa mãn tính tò mò.”
“Còn điều gì mà tôi chưa thấy ở trong những cuốn sách?” Anh chàng kia bình luận. “Chắc chắn người ta viết những điều như thế chỉ là để mua vui cho chính mình mà thôi.”
“Đúng; ngay tôi đây cũng thế thôi. Nhưng có sự thật nào, có điều giả dối nào mà anh không tìm thấy trong những cuốn sách? Qua những bản miêu tả sống động mà một số cuốn sách chứa đựng, chúng khiến cho con người ta xúc động mới mãnh liệt làm sao! Dù cho tác giả có chọn ai - một tchinovnik1, một sĩ quan, hay một tên tống tiền - họ vẽ những nhân vật đó đúng hệt như những con người đang sống.”
1. Viên chức chính phủ.
“Nhưng những tác giả đó có gì mà phải lo lắng, khi mà như anh nói, họ biết nếu như người ta chọn một mẫu người cụ thể chỉ để mua vui, thì bản miêu tả chắc chắn sẽ thành công? Nhưng mà không: cuộc đời thực không phải là để miêu tả như thế. Trong một hệ thống thuộc loại đó không có sự thấu hiểu hay cảm thông, cả cái mẩu nhỏ mà chúng ta gọi là nhân tính. Tất cả chỉ là thói tự phụ - không hơn. Người ta miêu tả những tên kẻ cắp và những người đàn bà trụy lạc như thể họ đang bắt bớ những người đó ở trên phố và tống họ vào tù. Không bao giờ tìm thấy dấu vết của “giọt nước mắt bị che giấu” trong những câu chuyện của các nhà văn đó - chỉ có tính hiểm độc tục tĩu và lộ liễu cùng với thói yêu thích nhạo báng mà thôi.”
“Và anh còn có thêm những gì nữa nào? Chính anh đã nói (và nói rất thông minh) rằng những yếu tố cần thiết chỉ có nọc độc sục sôi, thị hiếu ham thích trạng thái khích động ác ý đối với thói hư tật xấu, và một thái độ khinh bỉ giễu cợt đối với sự sa ngã.”
“Không, không phải chỉ có thế.” Oblomov nói một cách hăng hái. “Hãy miêu tả một tên kẻ cắp, một người đàn bà hư hỏng, hay một thằng ngốc bị lừa phỉnh, nếu như anh thích, nhưng đừng quên phần còn lại của loài người. Vậy còn nhân tính thì sao, ôi Chúa ơi? Những nhà văn như anh chỉ cố gắng viết bằng cái đầu. Anh cho rằng bậc thức giả có thể làm việc mà không cần trái tim sao? Không đâu, bậc thức giả cần tình yêu để nuôi cho nó phát triển khỏe mạnh. Đúng hơn, hãy dang tay ra với kẻ sa đọa và nâng đỡ anh ta, khóc thương anh ta nếu như anh ta đã lầm đường lạc lối đến mức không thể cứu rỗi được, và trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được cười nhạo anh ta, bởi vì đối với anh ta chỉ nên mở rộng lòng thương xót mà thôi. Hãy tự mình soi xét anh ta, và dựa theo đó mà hành động. Nếu vậy, tôi sẽ đọc những gì anh viết, và sẽ cúi đầu trước anh. Còn nếu không, anh có thể khám phá ra nghệ thuật nào, sắc màu thi ca nào trong những tác phẩm thuộc cái trường phái mà tôi vừa nói đến? Chả nhẽ anh lại miêu tả sự trụy lạc và những nơi chốn bẩn thỉu, ít nhất là làm việc đó mà không cần cầu viện gì đến thi ca hay sao?”
“Sao? Anh bảo tôi phải miêu tả tự nhiên - những bông hoa hồng, những con chim sơn ca, một buổi sáng mùa đông, và tất cả những thứ đại loại như thế - trong khi những việc thế này đang sục sôi và quay cuồng ở xung quanh chúng ta ư? Không, điều chúng ta cần hơn là một thứ triết học trần trụi về xã hội. Những bản tình ca đã hết thời rồi.”
“Hãy trao cho tôi con người, và chỉ con người mà thôi.” Oblomov nói. “Và, trong lúc trao anh ta cho tôi, hãy cố gắng yêu anh ta.”
“Cái gì? Yêu tên cho vay nặng lãi, yêu kẻ đạo đức giả, yêu gã công chức thụt két và ngu ngốc hay sao? Vì sao tôi lại phải như thế? Rõ ràng anh có rất ít hiểu biết về văn học! Những hạng người như thế phải bị trừng phạt - phải bị cách ly ra khỏi đời sống xã hội và cộng đồng.”
“Cách ly ra khỏi đời sống xã hội và cộng đồng, anh nói như thế ư?” Oblomov kêu lên, há hốc miệng kinh ngạc lúc trở dậy và đứng trước mặt Penkin. “Thế thì cũng giống như nói rằng một khi đã ở trong cái bình hỏng rồi, thì yếu tố tối thượng đó sẽ ở đấy mãi - nhưng dù cho người đàn ông kia có thể hư hỏng, anh ta vẫn cứ là một con người, thậm chí là một con người giống như anh và tôi. Cách ly anh ta, thực vậy sao! Anh sẽ loại bỏ anh ta ra khỏi nhân loại, ra khỏi bầu vú của Mẹ Tự nhiên, ra khỏi lòng nhân từ của Chúa như thế nào?” Oblomov gần như hét lên lúc nói những lời đó, và đôi mắt anh chàng sáng rực.
“Anh trở nên kích động quá rồi!” Penkin kinh ngạc nói; do đó mà Oblomov nhận ra mình đã đi quá xa. Chàng kìm mình lại, ngáp ngắn, và lại uể oải nằm ườn ra trên ghế xô pha. Sự im lặng ngự trị trong một lát.
“Anh đọc chủ yếu là loại sách nào?” Penkin hỏi.
“Sách du lịch.” Oblomov đáp.
Lại im lặng.
“Và anh sẽ đọc bài thơ ấy khi nó ra mắt chứ?” Penkin nói tiếp. “Nếu thế, tôi sẽ mang tới cho anh một bản.”
Oblomov lắc đầu.
“Cả câu chuyện của tôi cũng không à?” Oblomov ra dấu xác nhận.
“Đành chịu vậy. Bây giờ tôi phải đến tòa soạn đây.” Penkin nói tiếp. “Anh có biết vì sao hôm nay tôi đến đây tìm gặp anh không? Tôi định rủ anh đến Ekaterinhov đấy. Tôi có xe riêng và, bởi vì, ngày mai, tôi phải viết một bài báo về những sự kiện đang diễn ra, tôi nghĩ chúng ta có thể cùng nhau xem xét những ghi chép của tôi về chủ đề này, và anh có thể khuyên nhủ tôi về những điểm còn thiếu sót. Tôi nghĩ chúng ta sẽ rất vui với cuộc hành trình này đấy. Lên đường thôi nào.”
“Không, tôi không được khỏe.” Oblomov vừa nói vừa cau mày, cuộn tròn tấm mền xung quanh mình. “Nhưng hôm nay anh có thể quay lại đây để ăn trưa với tôi, rồi chúng ta sẽ trò chuyện. Tôi vừa mới gặp phải hai chuyện không may.”
“Chà! Tôi lo là cả bọn chúng tôi sẽ ăn trưa ở St. George1, sau đó sẽ đi đến buổi lễ hội. Thêm nữa, ban đêm tôi còn phải viết một bài báo, muộn nhất là vào lúc bình minh nhà in phải nhận được bản thảo rồi. Tạm biệt!”
1. Một nhà hàng sang trọng ở Petrograd.
“Ban đêm tôi còn phải viết một bài báo.” Oblomov trầm ngâm lúc bạn mình đã ra về. “Thế thì hắn ngủ vào lúc nào nhỉ? Ấy vậy mà hắn đang có những năm ngàn rúp mỗi năm, nên công việc đối với hắn chỉ như bánh mì và bơ mà thôi. Thế mà vẫn cứ cặm cụi viết, phí hoài kiến thức vào những việc vớ vẩn, vào việc thay đổi quan điểm của người khác, đem đầu óc và trí tưởng tượng của mình đi bán, thô bạo với bản chất của chính mình, để cho những sục sôi nhiệt thành xâm chiếm tâm trí - tất cả những thứ ấy, không một phút giây nào ngơi nghỉ, không thuận theo tiếng gọi hãy tạm dừng lại đã! Vâng, cứ nghĩ đến việc bị thúc ép phải không ngừng viết, viết và viết, như bánh xe của một cỗ máy - ngày mai cũng viết, ngày mốt cũng viết, mặc dù mùa hè đang đến gần và từng ngày nghỉ cứ thế trôi qua! Cái gã khốn khổ đáng thương ấy, hắn không bao giờ dừng lại nghỉ lấy hơi hay sao?” Oblomov liếc nhìn chiếc bàn, ở trên đó tất cả mọi thứ đều nằm im lìm, bình mực đã đến nước khô queo lại, và chẳng thấy có cây viết nào cả; vừa nhìn chàng vừa hoan hỷ nghĩ mình đang nằm đây, vô lo vô nghĩ như một đứa trẻ - chẳng phải lo lắng gì cả, cũng chẳng phải tìm kiếm thứ gì để mang đi rao bán.
“Thế còn lá thư của gã quản lý và lời yêu cầu bắt mình phải dọn đi thì sao nhỉ?” Vâng, bất thình lình chàng nhớ lại những chuyện trên; và một lần nữa chìm đắm trong suy nghĩ.
Chuông cửa lại reo vang.
“Sao hôm nay mọi người cứ đến tìm mình thế nhỉ?” Chàng tự hỏi lúc chờ xem vị khách mới đến là ai. Lần này, khách là một người đàn ông có tuổi tác không rõ ràng - anh ta đang ở vào cái độ tuổi rất khó đoán được một con số chính xác. Thêm nữa, anh ta không đẹp trai cũng chẳng xấu xí, không cao cũng chẳng thấp, không trắng trẻo cũng chẳng ngăm đen. Tóm lại, anh ta là một người đàn ông mà Tự nhiên không phú cho bất kỳ một đặc điểm nào rõ ràng, sắc nét, không biết là tốt hay xấu, thiên về tinh thần hay thiên về vật chất.
“Ha!” Oblomov nói lúc đón khách. “Ra là anh đấy à, Alexiev? Anh từ đâu đến thế?”
“Thực bụng mà nói, hôm nay tôi không định đến thăm anh đâu.” Vị khách đáp lời. “Nhưng tình cờ tôi đã gặp Ovchinin, thế là hắn lôi tôi về đơn vị của hắn, là nơi mà, đến lượt mình, bây giờ tôi tới đây để đưa anh đến.”
“Đưa tôi đến, đến...?”
“Đến chỗ Ovchinin. Alianov, Pchailo và Kolhniagin đã ở đó cả rồi.”
“Nhưng bọn họ tụ tập như thế để làm gì vậy? Và bọn họ muốn gì ở tôi?”
“Ovchinin muốn anh đến ăn trưa với hắn, rồi cùng hắn và cả bọn chúng tôi đến Ekaterinhov. Hắn còn chỉ thị cho tôi bảo anh thuê một cỗ xe nữa. Nào, dậy thôi! Đáng lẽ anh phải dậy thay quần áo từ lâu rồi chứ.”
“Tôi thay quần áo thế nào được? Tôi còn chưa rửa ráy kia mà.”
“Thế thì dậy rửa ráy ngay đi thôi.”
Vừa nói thế Alexiev vừa đi tới đi lui trong phòng. Sau đó anh ta dừng lại trước bức tranh mà anh ta đã xem cả ngàn lần rồi; rồi anh ta nhìn ra ngoài cửa sổ một hay hai lần, lấy ra từ trên tủ kệ một món đồ gì đó, ngắm nghía nó từ tất cả các hướng, rồi đặt trở lại chỗ cũ. Thế rồi anh ta tiếp tục đi tới đi lui và huýt sáo - tất cả những việc đó là để không cản trở Oblomov dậy khỏi giường và lau rửa. Mười phút trôi qua.
“Có chuyện gì với anh thế?” Alexiev bất thình lình hỏi. “Có chuyện gì với tôi nhỉ?”
“Ý tôi là, tại sao anh vẫn còn ở trên giường?”
“Tôi không biết. Tôi thực sự cần phải dậy sao?”
“Dĩ nhiên là cần rồi, bởi vì bọn họ đang chờ chúng ta. Vả chăng, anh đã nói là anh thích đi kia mà.”
“Thích đi đâu? Tôi chẳng hề thích như thế.”
“Anh vừa mới bảo rằng chúng ta sẽ đến ăn trưa ở chỗ Ovchinin, xong rồi đến Ekaterinhov kia mà!”
“Không, tôi không thể. Như vậy hóa ra tôi đi ra ngoài trời ẩm ướt hay sao. Vả lại, trời sắp mưa đến nơi rồi. Cái sân nhỏ trông tối mịt kia kìa.”
“Trên trời chẳng có một đám mây nào cả, cái sân nhỏ trông tối là do anh chẳng bao giờ chịu cọ rửa cửa sổ.”
“Thôi được, thôi được!” Oblomov đáp. “Mà này, tôi đã nói cho anh nghe về những chuyện rủi ro của tôi chưa ấy nhỉ - về lá thư từ gã quản lý của tôi, và lời yêu cầu bắt tôi phải dọn ra khỏi căn hộ này?”
“Chưa.” Alexiev trả lời. “Lá thư ấy là như thế nào vậy?”
Lá thư đó không được tìm thấy ngay lập tức, Zakhar được gọi vào để tìm kiếm nó; và Oblomov đọc cho bạn mình nghe sau khi tìm thấy nó ở dưới tấm phủ giường - bỏ qua những lời chào và lời hỏi thăm sức khỏe của người nhận thư. Ý chính của lá thư là phần lớn vụ mùa trên điền trang của Oblomov có khả năng sẽ thất bát vì thiếu mưa.
“Không sao.” Alexiev nói. “Người ta không bao giờ được phép tuyệt vọng.”
“Thế anh sẽ làm gì nếu như ở vào tình thế của tôi?”
“Trước hết tôi sẽ cân nhắc vấn đề. Người ta không bao giờ được phép quyết định vội vàng.”
Vò nhàu bức thư trong tay, Oblomov cúi người tới phía trước, chống hai khuỷu tay lên hai đầu gối, và ngồi ở tư thế đó một lúc khá lâu - đầu óc chàng tràn ngập những ý nghĩ bất an.
“Giá mà Schtoltz đến!” Cuối cùng chàng nói. “Anh ấy đã viết thư báo rằng sắp đến, nhưng chỉ có Chúa mới biết chuyện gì đã xảy ra với anh ấy! Anh ấy có thể giải quyết vấn đề này.”
Bất thình lình chuông cửa reo to đến mức cả hai đều giật nảy mình, và Zakhar chạy vội ra khỏi phòng để thức ăn của lão.
III
Ngay sau đó bước vào phòng là một người đàn ông cao lớn, dáng người thườn thượt, rõ ràng không tin vào sự tao nhã của phục trang mà cũng không hề lấy làm xấu hổ vì điều đó. Đó là Mikhei Andreievitch Tarantiev, một bạn đồng hương của Oblomov. Dẫu cho là một nhân vật có vẻ mặt thô ráp, sưng sỉa và có tác phong hơi hống hách, nhưng anh ta lại không thiếu sự thông minh sắc sảo. Không có vị quan tòa nào giỏi hơn anh ta trong những vấn đề về thế tục nói chung, cũng không có ai giỏi hơn anh ta trong việc giải quyết những rắc rối về pháp lý (mặc dù anh ta thường đối xử thô bạo với người đến xin lời khuyên của mình về những vấn đề này). Tuy nhiên, những khả năng của anh ta chỉ dừng lại ở cái tài năng trình bày bằng miệng mà thôi; và ngay khi được lịch sự yêu cầu biến lý thuyết thành hành động là toàn bộ thái độ của anh ta thay đổi ngay, và trong bất kỳ trường hợp nào anh ta cũng đều thấy những khó khăn thực tiễn ngáng đường điều mà anh ta cho là cách giải quyết hay nhất.
“Anh thế nào?” Anh ta cộc cằn nói lúc giơ ra một bàn tay lông lá. “Anh có ý gì khi nằm trên giường như một khúc gỗ thế này? Sắp mười hai giờ đến nơi rồi, ấy thế mà anh vẫn còn nằm ườn xác ra ở đây!” Vị chủ nhà chặn trước anh ta bằng cách vội vàng xỏ chân vào đôi dép lê của mình, nếu không có lẽ người mới đến sẽ lôi chàng ra khỏi giường mất.
“Tôi cũng đang định dậy đây.” Oblomov nói với một cái ngáp.
“Vâng; tôi biết anh dậy như thế nào - anh lăn trên giường cho đến tận giờ ăn trưa như thế nào! Zakhar, vào đây giúp ông chủ lão mặc quần áo đi chứ!”
Zakhar đi vào và tức giận nhìn Tarantiev. Oblomov chống khuỷu tay nhấc người mình lên, bước ra khỏi giường như một người đàn ông đã hoàn toàn kiệt sức, rồi, đổ phịch xuống một cái ghế bành, chàng ngồi yên bất động ở đó trong khi Zakhar bôi sáp, rẽ ngôi và chải tóc cho ông chủ của lão, sau đó hỏi chàng có muốn rửa ráy hay chăng.
“Đợi chút xíu đã.” Oblomov nói. “Lão hãy chờ một lát.”
“A! Thế ra anh cũng ở đây à?” Tarantiev nói lúc đột ngột quay sang phía Alexiev. “Tôi không trông thấy anh đấy.
Nhân tiện, người bà con của anh đúng là một con lợn!”
“Người bà con nào?” Alexiev hỏi với cái nhìn chòng chọc. “Tôi chẳng có ai là bà con thân thích cả.”
“Ý tôi là Athanasiev ấy. Chả phải hắn là bà con của anh hay sao? Tôi biết hắn là bà con của anh.”
“Tên tôi là Alexiev, không phải Athanasiev.” Người kia nói. “Tôi xin nhắc lại là tôi không có một người bà con thân thích nào cả.”
“Nhưng hắn cũng là một gã xấu xí giống như anh, cũng như (lại giống anh nữa) một người có tên là Vassili Nikolaitch?”
“Nhưng hắn không phải là bà con của tôi. Vả chăng, tên thánh của tôi là Ivan và Alexeitch.”
“Thôi được, nhưng hắn giống hệt anh, bên cạnh đó hắn lại còn là một con lợn nữa. Lần tới gặp hắn anh có thể nói với hắn như thế.”
“Tôi không quen biết cũng chẳng bao giờ để mắt đến hắn…” Alexiev vừa nói vừa mở hộp đựng thuốc lá của mình ra.
“Cho tôi một nhúm nào.” Tarantiev ngắt lời anh ta. “Anh hút loại thường, không phải loại của Pháp, đúng không? Sao không hút loại của Pháp nhỉ? Tôi chưa bao giờ trông thấy con lợn nào giống như người bà con đó của anh đấy. Có lần tôi đã mượn của hắn năm mươi rúp. Đã hai năm rồi. Và năm mươi rúp chả phải là một món tiền quá lớn, đúng không? Đó là một món tiền mà hắn rất có thể sẽ quên đi được lắm chứ, phải không? Vâng, hắn rất có thể sẽ quên đi được. Nhưng trên thực tế, hắn vẫn nhớ. Chưa đến một tháng sau cứ gặp tôi là hắn lại nói: “Món nợ ấy sao rồi ấy nhỉ?” Xin thề với anh rằng tôi thấy hắn là một mối phiền hà quá thể! Chỉ mới hôm qua đây thôi hắn còn đến công sở của chúng tôi, và nói với tôi: “Hình như anh vừa mới nhận lương và như vậy có thể trả nợ cho tôi được rồi đấy nhỉ?” Thế là tôi đã đưa cho hắn khoản tiền lương của mình, dẫu cho hắn đến đó với mục đích rõ ràng là để làm tôi xấu hổ trước mặt mọi người. Tôi phải khó khăn lắm mới kiềm chế được mình để không tống cổ hắn ra khỏi cửa. “Anh bạn tội nghiệp, tôi đoán là anh đang cần món tiền đó, phải không?” Cứ như thể tôi không cần món tiền đó vậy! Tôi có phải một người giàu có đến mức có thể lặng lẽ để cho hắn bỏ túi năm mươi rúp không? Oblomov, đưa cho tôi một điếu xì gà nào.”
“Xì gà ở trong cái hộp đằng kia kìa.” Oblomov nói, chỉ lên một cái kệ tủ. Chàng vẫn ở trong cái tư thế lười biếng nhưng trở nên có điệu bộ hơn - vẫn chẳng để ý gì đến những việc đang diễn ra hay những điều đang được nói đến ở xung quanh, chỉ trầm ngâm ngắm nghía hai bàn tay bé nhỏ trắng trẻo của mình.
“Thật là một thứ cỏ dại vô giá trị!” Tarantiev nhận xét, sau khi đã nhả ra một làn khói thuốc và hít vào một hơi khác. “Sáng nay anh đến sớm thế.” Oblomov vừa nói vừa ngáp.
“Thế ra tôi đang làm phiền anh đấy à?”
“Không; tôi chỉ nói thế thôi. Bình thường anh hay đến vào giờ ăn trưa, nhưng hôm nay lại đến sớm hơn một giờ.”
“Tôi đến sớm hơn một giờ bởi vì muốn biết bữa ăn sẽ có những món gì. Thường thì anh toàn ăn những món xoàng xĩnh thôi.”
“Tốt hơn anh nên vào trong bếp mà hỏi.” Tarantiev đi ra để làm việc đó.
“Chúng ta sẽ có bò và bê.” Anh ta nói lúc quay trở lại. “Ôi, anh bạn Oblomov, mặc dù là một địa chủ, nhưng anh lại chẳng biết cách sống chút nào cả. Việc nội trợ của anh là việc nội trợ của một lão lái buôn. Anh đã mua thứ rượu vang Madeira ấy chưa đấy?”
“Tôi không biết.” Oblomov đáp, hầu như chẳng nghe thấy người kia nói gì. “Tốt hơn anh đi mà hỏi Zakhar ấy. Dù sao thì vẫn sẽ có một thứ rượu vang nào đó.”
“Cái gì? Lại cái thứ rác rưởi cũ rích mà anh mua ở chỗ lão lái buôn người Đức ấy ư? Anh phải mua rượu vang ở Cửa hàng Anh quốc chứ.”
“Thôi được. Bảo người đến đó mua một ít đi.”
“Làm ơn đưa tiền cho tôi trước đã!”
Oblomov mò mẫm trong một cái hộp đựng tiền rồi lấy ra một tờ giấy bạc mười rúp.
“Madeira giá bảy rúp một chai.” Chàng nói. “Đây là mười rúp. Cửa hàng sẽ trả lại tiền thừa cho anh.”
Tarantiev vội vàng nhét ngay tờ giấy bạc vào túi.
“Mà này, hôm nay anh có định thuê xe để đến Ekaterinhov không đấy?” Anh ta hỏi. “Nếu có, tôi có thể đi cùng anh.”
Oblomov lắc đầu.
“Tôi vừa gặp phải hai chuyện không may.” Chàng nói. “Đầu tiên là tôi sắp bị đuổi cổ ra khỏi căn hộ này.”
“Vì anh không trả tiền thuê nhà phải không?”
“Không, lý do không phải là như thế. Bao giờ tôi cũng trả tiền thuê nhà trước hạn. Hãy nói cho tôi biết tôi phải làm gì đây.”
“Ai bảo anh đi xin lời khuyên của tôi đấy? Anh nghĩ tôi sẽ khuyên không công hay sao? Hỏi anh ta thì hơn.” Tarantiev chỉ Alexiev. “Hay gã bà con của anh ta cũng được.”
“Không, không. Hãy nói cho tôi biết tôi phải làm gì.”
“Tôi khuyên anh nên chuyển sang một căn hộ khác.”
“Nói thế tự tôi cũng nói được.”
“Đến căn hộ của cô bạn tôi ở khu Veaborg.” Tarantiev tiếp tục.
“Cái gì? Đến một căn hộ ở khu Veaborg ư? Vào mùa đông cả khu vực đó toàn sói là sói1!”
1. Veaborg là một trong những khu ngoại ô hẻo lánh nhất của Petrograd.
“Đúng thế, đôi khi chúng đến đó từ những hòn đảo trên sông Neva, nhưng ngôi nhà của cô bạn tôi có những bức tường cao, và thêm nữa, cô ấy, gia đình cô ấy và một người anh trai độc thân là những con người tử tế, không giống như cái gã kia.” Anh ta chỉ Alexiev.
“Nhưng tất cả những chuyện đó thì có can hệ gì đến tôi kia chứ?” Oblomov nói một cách khó chịu. “Xin nói cho anh biết rằng tôi sẽ không chuyển đến đó đâu.”
“Đồ ngốc!” Tarantiev kêu lên. “Ở đó anh sẽ được yên ổn và thoải mái hơn ở đây, lại còn phải trả ít tiền hơn nữa chứ, và rộng rãi hơn nữa. Vả chăng, ở đó sạch sẽ, sang trọng hơn ở đây. Ở đây người ta phải ngồi ở một cái bàn bẩn thỉu với lọ tiêu rỗng không, cả chai giấm cũng thế, dao thì không sạch, khăn trải bàn thì rách bươm, và bụi, bụi ở khắp mọi nơi. Cứ đưa tiền xe cho tôi, và tôi sẽ kiếm được ngay cho anh một căn hộ. Thế rồi ngày mai anh có thể chuyển vào đó.” Tarantiev định đi ra khỏi phòng.
“Dừng lại, dừng lại!” Oblomov kêu lên. “Xin nói cho anh biết rằng tôi sẽ không đến khu Veaborg đâu. Làm ơn hãy vận dụng trí khôn của anh để chỉ cho tôi biết làm thế nào để vẫn được ở lại đây. Thêm nữa, tôi vẫn còn một việc quan trọng khác. Nói cách khác thì tôi vừa mới nhận được từ viên quản lý của mình một bức thư mà tôi sẽ rất vui nếu được nghe lời khuyên của anh.”
Vừa nói thế chàng vừa tìm bức thư, và đọc to nó lên sau một lúc khá vất vả mới tìm thấy.
“Thế là anh đã biết điều gã quản lý nói về hạn hán và mùa màng thất bát rồi phải không? Tôi phải làm gì bây giờ?”
“Việc tối cần thiết…” Tarantiev đáp. “Là một bầu không khí yên tĩnh tuyệt đối dành cho anh. Điều anh sẽ có được trong ngôi nhà của cô bạn tôi mà tôi vừa mới nói đến đấy; tôi sẽ đến đó thăm anh hằng ngày.”
“Vâng, vâng.” Oblomov nói. “Nhưng còn việc với gã quản lý này thì sao?”
“Gã quản lý nói láo. Hắn là một thằng ăn cắp và là một thằng đểu cáng. Tôi biết một cái điền trang, chỉ ở cách điền trang của anh có năm mươi véc-xta1 thôi, thế mà việc thu hoạch vào năm ngoái tốt đến mức đã xóa hết được nợ nần cho chủ nhân của nó. Thế thì, làm sao mùa màng trên điền trang của anh lại có nguy cơ thất bát được? Rõ ràng gã quản lý là một tên kẻ cướp. Giá có mặt ở đó tôi đã cho hắn một bài học rồi! Thế anh cho đây là một lá thư thành thật, chân thành hay sao? Không, như thế chả khác gì cho rằng cái thằng ngốc kia…” Anh ta lại chỉ Alexiev. “Có thể viết được một lá thư chân thành, hay người bà con của hắn cũng thế.”
1. Versta: dặm Nga, bằng 1,0668km.
“Tôi phải bổ nhiệm ai thay thế cho gã quản lý ấy đây?” Oblomov hỏi. “Người khác có thể còn tệ hơn cả hắn.”
“Đích thân anh nên về điền trang và ở lại đó cho đến hết mùa hạ, sau đó chuyển sang ngôi nhà của cô bạn tôi. Tôi sẽ lo sửa soạn để những căn phòng của cô ấy được sẵn sàng cho anh chuyển đến - vâng, tôi sẽ lo việc đó ngay lập tức. Nếu là tôi, tôi sẽ bán quách cái điền trang ấy đi, và sẽ mua một cái mới. Giá vào tay tôi, tôi sẽ cho cái lũ ở đó biết thế nào là lễ độ ngay!”
Kết quả của việc này là Oblomov đã đồng ý có phần không được nhiệt tình cho lắm với lời rủ rê chuyển chỗ ở của Tarantiev, cả việc sẽ viết thư cho viên quan quản lý khu vực có điền trang của chàng nữa. Sau đó Tarantiev ra về, nói rằng sẽ quay lại dùng bữa vào lúc năm giờ.
Sau khi Tarantiev ra về, mười phút tĩnh lặng ngự trị trong căn hộ. Oblomov hoang mang kinh khủng, cả vì bức thư của viên quản lý lẫn việc thay đổi chỗ ở sắp tới. Thêm nữa, cái anh chàng Tarantiev ầm ĩ kia đã làm cho chàng hoàn toàn mệt lử.
“Tại sao anh không ngồi dậy mà viết bức thư ấy đi nhỉ?” Alexiev hỏi. “Nếu anh muốn, tôi sẽ lau chùi cái giá bút cho anh.”
“Lau chùi nó đi, Chúa phù hộ anh!” Oblomov thở dài. “Hãy để tôi viết bức thư một mình, rồi sau bữa chiều anh sẽ chép nó lại.”
“Được thôi.” Alexiev đáp. “Nhưng bây giờ tôi phải đi đây, nếu không sẽ muộn bữa tiệc ở Ekaterinhov mất. Tạm biệt!”
Oblomov không để ý đến anh ta mà lại trở về với cái tư thế nằm nghiêng trên ghế bành, chìm đắm vào trạng thái trầm ngâm mơ màng.
IV
Lão Zakhar, sau khi lần lượt đóng cửa lại sau lưng Tarantiev rồi đến Alexiev, đứng chờ ông chủ của mình gọi, bởi vì lão đã nghe lỏm được rằng ông chủ đã đồng ý sẽ viết một lá thư. Nhưng trong căn phòng viết của Oblomov, tất cả vẫn im lặng như nấm mồ. Lão Zakhar nhòm qua khe cửa và trông thấy ông chủ mình đang nằm sấp trên cái xô pha, đầu áp vào lòng bàn tay. Lão đầy tớ bước vào trong phòng.
“Sao ngài lại nằm như thế?” Lão hỏi.
“Đừng quấy rầy tôi: Lão không thấy rằng tôi đang đọc sách hay sao?” Oblomov trả lời cộc lốc.
“Không, nhưng ngài phải lau rửa, rồi còn viết lá thư kia nữa chứ.” Lão Zakhar giục, quyết tâm không để bị lung lay. “Đúng, tôi cũng cho rằng mình nên như thế. Chỉ một lát nữa tôi sẽ làm những việc đó. Còn bây giờ thì tôi phải suy nghĩ.”
Quả thực, chàng đã đọc một trang trong cuốn sách đang mở sẵn - một trang giấy đã ố vàng vì bị mở ra cả tháng rồi. Đọc xong chàng đặt nó xuống và ngáp.
“Tất cả những việc này làm mình mệt mỏi quá chừng!” Chàng thì thầm, co duỗi hai chân. Đang liếc nhìn lên trần nhà khi một lần nữa lại chìm vào trạng thái mơ màng đầy khoái lạc, chàng tự nhủ với sự nghiêm khắc thoảng qua: “Không - công việc trên hết.” Rồi chàng lăn mình và chắp hai bàn tay lại kê dưới đầu.
Vừa nằm như thế, chàng vừa nghĩ đến những kế hoạch cải thiện khu điền trang của mình. Suy nghĩ của chàng lướt nhanh qua những dự định nghiêm túc và quan trọng liên quan đến đất canh tác và hệ thống thuế của nó; sau đó chàng nghiền ngẫm một chương trình mới nghiêm ngặt hơn nhằm triệt bỏ lối sống lười biếng và du mục của nông dân, và rồi tản mạn nghĩ đến việc đích thân sống ở nông thôn.
Đầu tiên, chàng mê mải với bản thiết kế một ngôi nhà mới. Chàng hăng hái nghĩ đến cách bố trí khả dĩ các căn phòng, tâm trí đưa ra quyết định về kích thước phòng ăn và phòng chơi bi-a, rồi các cửa sổ trong phòng viết sẽ mở ra hướng nào. Thực vậy, chàng thậm chí nghĩ đến cả đồ đạc và những tấm thảm. Tiếp theo, chàng thiết kế một cái chái cho ngôi nhà, tính toán số lượng khách khứa mà nó có thể chứa đựng, tìm vị trí thích hợp cho tàu ngựa, nhà để xe và chỗ ở của gia nhân. Cuối cùng, chàng xoay sự chú ý của mình sang khu vườn. Tất cả các cây đoạn và sồi lâu năm nên được giữ nguyên, nhưng những cây táo và lê nên bị chặt đi để thay thế bằng những cây keo. Chàng cũng cân nhắc trong chốc lát ý nghĩ về một công viên, nhưng sau khi tính toán số tiền phải bỏ ra để duy trì bảo dưỡng nó, chàng đi đến cái kết luận rằng một sự xa xỉ như thế là quá tốn kém - do đó chàng nghĩ sang việc bố trí các vườn cam và những chuồng chim.
Viễn cảnh hấp dẫn về sự phát triển trong tương lai của khu điền trang bay lượn trước mắt chàng, sống động đến mức chàng tưởng tượng ra mình đã dọn đến sống ở đó rồi, chàng say sưa ngắm nhìn kết quả hoạt động sau nhiều năm những kế hoạch của mình.
Vào một đêm mùa hạ trời quang mây tạnh, chàng ngồi bên một cái bàn uống trà đặt ngoài hiên của trang viên Oblomovka - dưới một mái che dày lá mà mặt trời bất lực không thể chiếu xuyên qua được. Chàng đang lười biếng hút thuốc từ một cái tẩu dài, say sưa thả hồn vào phong cảnh tươi vui trải rộng phía bên kia những rặng cây, và bầu không khí mát mẻ tĩnh lặng ở xung quanh. Xa xa, những cánh đồng đang chuyển sắc vàng lúc mặt trời lặn xuống đằng sau một khóm bạch dương quen thuộc, nhuộm đỏ mặt hồ trong veo như một tấm gương soi. Một làn sương mù bốc lên phía trên những cánh đồng, bởi vì cái lạnh của ban đêm đang xuống, và hoàng hôn đang vội vàng tiến lại gần. Thỉnh thoảng vẳng đến tai chàng tiếng chuyện trò của nông dân lúc họ đi về nhà, và ở ngoài ngõ đám đầy tớ đang thảnh thơi ngồi chơi, trong khi ở gần đó vang lên những giọng nói và tiếng cười, tiếng đàn balalaika1, và tiếng cười đùa của những cô gái đang chơi trò goriclki2. Mấy đứa con chàng đang đùa giỡn ở xung quanh, đứa thì leo lên đầu gối, đứa lại đu lên cổ; trong khi ngồi đằng sau chiếc samovar3, là người cai quản thực sự của tất cả những thứ mà mắt chàng đang nhìn ngắm, nữ thần của chàng, một phụ nữ, người vợ của chàng!... Và trong phòng ăn - một căn phòng được trang hoàng đơn giản nhưng thanh lịch - ngọn lửa tươi vui đang cháy sáng bập bùng. Lão Zakhar, bây giờ đã được lên chức quản gia, hai chòm râu má đã bạc trắng hoàn toàn, đang bày biện một cái bàn tròn lớn, xếp đặt chỗ này một cái chai chỗ kia một cái nĩa, làm phát ra những tiếng leng keng vui tai của đồ pha lê và đồ bạc chạm vào nhau.
1. Nhạc cụ ba dây giống như đàn luýt.
2. Trò đuổi bắt.
3. Ấm đựng trà.
Ngay sau đấy, con người mộng mơ đó trông thấy vợ mình và mình ngồi xuống bên một bữa ăn tối ê hề. Vâng, và cùng với họ còn có cả Schtoltz nữa, một chiến hữu từ thời tuổi trẻ, người bạn trung thành của chàng, cùng với vài khuôn mặt nổi tiếng nữa. Cuối cùng, chàng trông thấy những người ở trong nhà rút lui về phòng mình để nghỉ...
Khuôn mặt Oblomov đỏ bừng lên vì sung sướng trước cái viễn cảnh trên. Tất cả những cảnh đó quá rõ ràng, quá sống động, và quá nên thơ đến mức chàng nằm vùi mặt vào lớp nệm của ghế xô pha trong một lúc. Bất thình lình chàng cảm thấy một ham muốn mơ hồ đối với tình yêu và hạnh phúc êm đềm; bất thình lình chàng cảm thấy khao khát những cánh đồng và những ngọn đồi nơi mình đã sinh ra, khao khát một mái ấm gia đình, một người vợ, những đứa con...
Sau khi nằm vùi mặt như thế một lát, chàng lại nằm ngửa người ra. Khuôn mặt đỏ bừng vì xúc động, và lúc đó chàng thật... hạnh phúc.
Trạng thái mơ màng đầy mê ly lại bao bọc chàng trong vòng ôm của nó. Chàng tự vẽ nên trong óc hình ảnh một nhóm nhỏ bạn bè đến sống trong những ngôi làng và những nông trại trong bán kính mười lăm, hai mươi véc-xta xung quanh ngôi nhà nông thôn của chàng. Hằng ngày, họ sẽ đến thăm nhau - cùng nhau ăn tối, ăn khuya và khiêu vũ; cho đến khi chàng chỉ có thể nhìn thấy khắp chung quanh mình những khuôn mặt rạng rỡ giữa ánh sáng ban ngày ngập tràn ấm áp - những khuôn mặt không bao giờ có vẻ lo lắng, hay là xuất hiện những nếp nhăn, tròn trặn, tươi vui, và hồng hào, với những cái cằm ngân ngấn đầy đặn, và ăn lúc nào cũng thấy ngon miệng. Ngôi làng nơi chàng ở sẽ có một mùa hè vĩnh cửu, niềm vui vĩnh cửu, đồ ăn ngon không ngớt và những khoái lạc của tình trạng lười biếng trường tồn... “Ôi trời ơi, trời ơi!” Chàng hét lên trong niềm vui sướng tràn đầy: và cùng với tiếng hét đó chàng thức giấc. Tai chàng lại nghe thấy tiếng rao của những người bán hàng rong ở dưới sân trong lúc họ bán than, cát và khoai tây; chàng lại nghe thấy tiếng một người nào đó đang đi xin tiền quyên góp để xây một cái nhà thờ; lại nghe thấy tiếng đám thợ la hét ầm ĩ vọng sang từ ngôi nhà đang xây bên cạnh, hòa trộn với tiếng lách cách của dụng cụ lao động.
“Ôi!” Chàng thở dài đau khổ. “Cuộc đời thực là như thế đấy! Những tiếng động ầm ĩ ở kinh đô thật khó chịu quá chừng! Biết đến bao giờ mình mới có được một cuộc sống thiên đường - cuộc sống mà mình mong mỏi? Biết đến bao giờ mình mới được nhìn thấy những cánh đồng, những khu rừng của chính mình? Giá mà bây giờ được nằm trên thảm cỏ dưới một tán cây, được ngắm nhìn vầng dương qua những cành cây, và cố gắng đếm những cánh chim bay đến rồi lại bay đi ở trên trời!”
Thế còn những kế hoạch cải thiện điền trang thì sao nhỉ? Cả chuyện gã quản lý cùng cái căn hộ này nữa? Một lần nữa những vấn đề trên lại quay trở về trong tâm trí chàng.
“Được, được.” Chàng trả lời chúng. “Bây giờ - ngay bây giờ đây.”
Chàng ngồi dậy trên ghế xô pha, thò hai chân xuống mò mẫm đôi dép lê, xỏ nó vào hai bàn chân; rồi chàng ngồi bất động trong chốc lát. Cuối cùng cũng đứng hẳn dậy, chàng đứng im đăm chiêu trong vài phút.
“Zakhar! Zakhar!” Chàng hét lên lúc nhìn cái bàn và cái giá bút. “Tôi muốn lão phải, phải...” Chàng không thể nói nhiều hơn, mà im lặng chỉ cái giá bút, rồi chìm đắm vào suy nghĩ.
Chuông cửa vang lên và một người đàn ông bé nhỏ có cái đầu hói bước vào.
“Xin chào bác sĩ!” Oblomov kêu lên lúc chìa một bàn tay ra cho ông khách, và dùng bàn tay còn lại đẩy một cái ghế về phía trước. “Sự tình cờ nào đưa ông đến đây thế?”
“Sự tình cờ đó là tất cả các anh chả chịu đau ốm gì cả, và chẳng bao giờ gọi đến tôi, nên tôi phải tự mình đến vậy.” Ông bác sĩ đáp với giọng đùa bỡn. “Nhưng không.” Ông ta nói thêm bằng giọng nghiêm túc hơn. “Sự thật là tôi phải thăm bệnh cho một người hàng xóm của anh ở tầng trên, và nghĩ rằng nhân tiện ghé thăm anh luôn. Anh thế nào?”
Oblomov lắc đầu tỏ vẻ chán nản. “Tệ lắm, thưa bác sĩ.” Chàng nói. “Tôi đang nghĩ đến việc đến xin ý kiến ông đây.
Dạ dày tôi hầu như chả tiêu hóa được gì cả, ở cái hõm của nó đau lắm, và tôi thở rất khó nhọc.”
“Đưa cổ tay anh đây cho tôi.” Ông bác sĩ nói. Ông ta nhắm mắt lại và bắt mạch bệnh nhân. “Anh có ho không?” Ông ta hỏi.
“Có - vào ban đêm, đặc biệt là vào lúc tôi ăn khuya.”
“Hừm! Thế tim anh có đập mạnh chút nào không, hay đầu có đau không?” Thế rồi ông ta đặt thêm những câu hỏi khác nữa, cúi cái đầu hói của mình xuống, chìm vào một cơn đăm chiêu sâu sắc. Cuối cùng, bất thình lình ông ta ngẩng phắt đầu lên, và nói với vẻ cả quyết:
“Hai hay ba năm nữa, vì căn phòng này, vì việc nằm ườn xác, vì ăn nhiều thức ăn khó tiêu, mà anh sẽ gặp một cơn đột quỵ đấy.”
Oblomov giật mình.
“Thế tôi phải làm gì bây giờ, thưa bác sĩ? Vì Chúa, xin hãy nói cho tôi biết với!”
“Chỉ làm cái điều mà những người khác cũng làm thôi - cụ thể là, đi ra nước ngoài!”
“Xin lỗi, thưa bác sĩ, nhưng làm sao tôi có thể làm việc đó được?”
“Tại sao lại không? Tiền bạc ngăn cản anh ư, hay điều gì?”
“Vâng, vâng; tiền chính là lý do.” Oblomov đáp, vui mừng tóm được cái cớ đó, nó là cái cớ tự nhiên nhất có thể nghĩ ra. “Nhìn đây - hãy xem gã quản lý của tôi viết cho tôi những gì này.”
“Quả vậy, nhưng đó không phải là việc của tôi.” Ông bác sĩ nói. “Việc của tôi là thông tin cho anh biết rằng anh phải thay đổi lối sống, thay đổi cả nơi ở của anh nữa. Anh phải có không khí trong lành - anh phải làm một việc gì đó. Hãy đến Kissingen1 hay Ems2, và ở lại đó uống nước khoáng trong tháng Sáu và tháng Bảy. Rồi đi tiếp đến Thụy Sĩ, hay đến Tyrol3, và tham gia công việc bảo quản nho ở địa phương. Việc đó anh có thể làm trong tháng Chín và tháng Mười.”
1. Một thị xã ở Đức.
2. Một thành phố tự trị ở Thụy Sĩ.
3. Một bang ở miền Tây nước Áo.
“Ôi, quỷ tha ma bắt cái bang Tyrol ấy đi!” Oblomov khẽ lầm bầm.
“Tiếp theo hãy đến một nơi khô ráo nào đó như Ai Cập chẳng hạn, gạt sang bên tất cả những bận tâm và lo lắng của anh.”
“Xuất sắc!” Oblomov nói. “Tôi chỉ mong ông cũng nhận được những lá thư như thế này từ những gã quản lý!”
“Anh cũng không được phép suy nghĩ đến bất kỳ điều gì cả.”
“Ông bảo không được phép suy nghĩ điều gì cả ư?”
“Đúng - anh không được phép bắt đầu óc phải gắng sức.”
“Thế còn những kế hoạch cho cái điền trang của tôi thì sao?
Nói ông bỏ quá cho, nhưng tôi không phải là một khúc gỗ.”
“Ồ, chẳng sao cả. Tôi chỉ là đang cảnh báo anh mà thôi. Tương tự như vậy, anh phải tránh tất cả cảm xúc mạnh, bởi vì điều đó chắc chắn sẽ ngăn trở việc điều trị thành công. Tốt hơn, hãy cố gắng tập trung vào cưỡi ngựa, khiêu vũ, những bài thể dục vừa phải ngoài trời, và những cuộc chuyện trò thú vị - đặc biệt là chuyện trò với nữ giới. Những việc đó chắc chắn sẽ làm cho tim anh đập nhẹ nhàng hơn, và chỉ có mang lại những niềm xúc động dễ chịu mà thôi. Lại nữa, anh phải gạt sang bên tất cả những việc đọc và viết. Thuê một căn biệt thự hướng mặt về phía nam và nằm giữa những vườn hoa, xếp đặt xung quanh mình một bầu không khí tràn đầy âm nhạc và phụ nữ.”
“Thế tôi có được ăn chút nào không?”
“Có chứ, chắc chắn rồi; nhưng phải tránh tất cả thịt động vật và thức ăn có tinh bột, cũng như tất cả các món lạnh. Chỉ ăn xúp loãng và rau. Và phải chú ý cẩn thận, bởi vì tôi có thể nói với anh rằng bệnh dịch tả rất có thể xảy ra. Đi bộ tám tiếng mỗi ngày và cả đi săn nữa.”
“Ôi Chúa nhân từ!” Oblomov rên rỉ.
“Cuối cùng…” Ông bác sĩ kết luận. “Đến Paris vào mùa đông. Đó là nơi được bao bọc trong vòng xoáy của những trò vui, tâm trí anh sẽ được dứt ra khỏi những lo nghĩ thường nhật một cách hoàn toàn. Trồng trọt và làm vườn, những nhà hát, vũ hội, dạ hội hóa trang, phố phường, giao thiệp bạn bè, tiếng ồn, và tiếng cười.”
“Còn gì nữa không?” Oblomov hỏi, với vẻ sốt ruột chẳng che giấu được mấy. Ông bác sĩ nghĩ ngợi trong chốc lát.
“Còn; cũng cần tận dụng cả không khí biển nữa.” Ông ta nói. “Vượt biển sang Anh, nếu không hãy du lịch sang Mỹ.” Vừa huyên thuyên, ông ta vừa đứng dậy để ra về. “Anh nên tuân theo những chỉ dẫn đó từng li từng tí...” Ông ta bắt đầu.
“Vâng, vâng. Dĩ nhiên tôi sẽ tuân theo những chỉ dẫn đó!” Oblomov nói với vẻ chua chát lúc tiễn ông bác sĩ ra cửa.
Sau khi ông bác sĩ đã ra về, Oblomov lại ngồi phịch xuống một cái ghế bành, chắp hai bàn tay lại kê dưới đầu, và cứ ngồi một đống như thế mà hầu như chả suy nghĩ gì cả. Bị khua dậy bởi lão Zakhar để bàn luận thêm một lần nữa về vấn đề thay đổi chỗ ở, chàng đã có cuộc nói chuyện dài và gay gắt với lão đầy tớ của mình. Rốt cuộc chàng cũng đuổi được lão về cái phòng nhỏ của lão, nhưng không thể đuổi ra khỏi tâm trí những so sánh mà lão Zakhar đã nêu ra giữa cuộc sống của ông chủ lão với cuộc sống của những con người bình thường khác. Lạ lùng làm sao, bất thình lình những ý nghĩ liên quan đến định mệnh và số phận con người lại bừng nở trong chàng! Bỗng dưng chàng thấy tâm trí mình đang vẽ một đường song song giữa số phận đó và sự tồn tại của chính mình; bỗng dưng những câu hỏi về cuộc sống trỗi dậy trước mắt chàng, giống như những con cú trong một phế tích cổ xưa sung sướng choàng tỉnh khỏi giấc ngủ vì một tia nắng mặt trời lạc lối. Không biết làm sao mà chàng cảm thấy khổ sở và đau lòng trước sự phát triển bị cầm tù của mình, trước sự cản trở xảy ra trong quá trình lớn lên về đạo đức của chàng, trước cái gánh nặng hình như đang chèn ép lên tất cả mọi năng lực của chàng. Đang gặm nhấm trong tim chàng còn có cả cảm giác ghen tị với việc những người khác có thể sống một cuộc đời trọn vẹn và tự do đến thế, trong khi con đường làng nhỏ hẹp và thảm hại của sự hiện tồn của chính chàng đây lúc nào cũng bị chặn lại bởi một tảng đá mòn khổng lồ. Và trong cái linh hồn do dự của chàng đã trỗi dậy một ý thức đau đớn rằng nhiều khía cạnh trong bản chất của chàng chưa bao giờ bị khuấy động, rằng những khía cạnh khác thậm chí còn chưa bao giờ bị chạm đến, và rằng không một khía cạnh nào trong số đó có được một hình dáng hoàn chỉnh. Tuy vậy, cùng với điều này còn có một mối hoài nghi đau đớn rằng hình như có mầm mống tốt bụng và sáng láng đang hấp hối, đang bị chôn vùi dưới bản chất chàng, như dưới một nấm mồ, và đó là cái mầm mống mà, dẫu bị che lấp đằng sau nhân cách của chàng, lại giống như một quặng vàng trong lòng đất, có thể lúc nào đó được đúc thành một đồng tiền thực sự có giá trị. Nhưng cái kho báu đó cho đến lúc này vẫn bị che lấp dưới rác rưởi - vẫn bị phủ một lớp bụi dày. Nó giống như có kẻ nào đó đã đánh cắp, và phá hoại cái kho tàng tài năng mà cuộc sống và thế giới đã phú cho chàng; nên chàng sẽ luôn luôn bị ngăn trở, không thể bước vào vùng đất của cuộc đời và lướt qua đó với sự trợ giúp của trí tuệ và khát vọng. Vâng, ngay từ đầu một kẻ thù bí mật nào đó đã đặt bàn tay nặng nề lên chàng và lái chàng ra khỏi con đường của số phận con người. Và bây giờ chàng dường như bất lực, không thể thoát khỏi những đầm lầy và vùng hoang vu để đi lên con đường đó. Khắp xung quanh chàng là rừng rú, và bất cứ khi nào ngừng nghỉ, tâm hồn chàng đều ảm đạm và tối tăm hơn, cái lối mòn càng lúc càng thêm rối rắm, trong khi ý thức về tình trạng của mình thức dậy bên trong chàng càng lúc càng hiếm hoi hơn - để khuấy động trong một khoảnh khắc mong manh những năng lực của chàng đang thiu thiu ngủ. Đầu óc cũng như ý chí đều tê liệt, và tê liệt một cách vô phương cứu chữa dù cho có khoác lên mình bất cứ diện mạo nào - những biến cố trong cuộc đời chàng đã bị gọt đẽo thành những phần nhỏ li ti. Ấy thế mà chàng vẫn bất lực, không thể giải quyết được chúng - bất lực không thể vượt qua được. Kết quả là chúng ném chàng qua lại như những làn sóng trên đại dương. Không bao giờ chàng có thể cưỡng lại bất kỳ sự co dãn khả dĩ nào của ý chí; kết quả là không bao giờ chàng có thể hình thành một động lực hợp lý. Tuy thế, việc phải thú nhận điều này, dù cho chỉ là thú nhận với bản thân mà thôi, bao giờ cũng gây ra nơi chàng một nỗi đau đớn cay đắng: sự nuối tiếc vô ích những cơ hội đã mất, sánh đôi với những lời trách mắng gay gắt của lương tâm, lúc nào cũng châm đốt chàng như những mũi kim nhọn hoắt, bắt chàng phải cố gắng cãi lại và tìm kiếm một cái cớ nào đó để đổ thừa...
Oblomov một lần nữa lại chìm vào giấc ngủ; và trong khi ngủ chàng mơ về một thời kỳ khác, về những con người khác, về một nơi chốn khác với hiện tại. Hãy cùng theo chân chàng đến đó nào.
V
Chúng tôi thấy mình được đưa đến một vùng đất nơi không tồn tại biển cả, núi non, những vách đá cheo leo, lởm chởm lẫn những khu rừng âm u, ảm đạm - nói tóm lại, đó là nơi không tồn tại bất cứ thứ gì hùng vĩ, hoang dã và mênh mông.
Mà thật, hùng vĩ hay mênh mông thì được ích lợi gì? Đại dương làm linh hồn con người ta buồn nản, và trước cảnh tượng những con sóng cồn trải dài ra vô tận - một bức tranh buồn tẻ mà trên đó con mắt mỏi mệt không tìm thấy bất kỳ sự giải khuây nào - trái tim người đàn ông trở nên bất an trong lồng ngực, anh ta không tìm thấy bất kỳ niềm an ủi nào trong tiếng gầm gào và trong những đợt sóng cuồn cuộn điên cuồng. Từ khi khởi thủy của thế giới, những làn sóng đó vẫn hát cùng một bài ca ai oán và bí ẩn nọ. Từ khi khởi thủy của thế giới, chúng vẫn chỉ than van toàn những lời cáu bẳn đó của một con quái vật bị kết tội phải vĩnh viễn chịu khổ đau, rít lên cái điệp khúc những tiếng gào thét chói tai và hiểm độc. Không có con chim nào líu lo trên những bãi bờ của biển; chỉ có những con mòng biển lặng im, như những linh hồn lạc lối, mỏi mệt men theo các mép nước, hay bay vòng vòng trên bề mặt của nó. Thậm chí, tiếng gầm của con thú hoang dã nhất cũng trở nên yếu ớt trước cơn xáo động của tự nhiên, và tiếng nói của con người thì bị át đi hoàn toàn. Vâng, ở bên cạnh nó, con người trông nhỏ bé và yếu đuối đến nỗi bị nuốt chửng giữa vô số chi tiết của bức tranh khổng lồ. Chỉ có điều đó mới có thể là lý do giải thích vì sao chiêm ngưỡng đại dương lại làm cho linh hồn con người ta buồn nản đến vậy. Cả trong lúc bình yên và tĩnh lặng, linh hồn anh ta cũng không tìm ra được niềm an ủi nào trước cảnh tượng kia; bởi vì trong sự dập dềnh hầu như không thể trông thấy được của khối nước, anh ta trông thấy một nguồn sức mạnh bí ẩn đang yên ngủ, mà cho đến lúc này, vẫn giễu cợt ý chí tự tôn và nhận chìm những kế hoạch táo bạo nhất, những lao lực và cố gắng được đầu tư kĩ lưỡng nhất của anh ta.
Núi non và hẻm đá dốc đứng cũng không được tạo ra để động viên con người, bởi vì, với dáng vẻ đáng sợ và đe dọa của mình, đối với anh ta, chúng giống như là răng nanh và móng vuốt của một con dã thú khổng lồ nào đó - một con thú đang cố gắng lao tới phía trước để nghiến ngấu ăn thịt anh ta. Chúng nhắc nhở cho anh ta biết về cái cơ thể yếu đuối của mình một cách quá sống động; chúng khiến anh ta phải hoảng sợ, lo lắng cho mạng sống của mình đến mức đau đớn và khổ sở. Và ở trên đỉnh những vách đá cheo leo, thiên đường có vẻ xa xôi, không thể với tới, đến mức dường như không nằm trong tầm hiểu biết của loài người.
Nhân vật chính của chúng ta, trong giấc ngủ của chàng, đã mở mắt ra không phải ở một nơi dữ dằn đến thế của trái đất. Ở đó, ngược lại, thiên đường dường như ôm ấp hành tinh của chúng ta - không phải là để có được một mục tiêu sáng giá hơn cho sấm sét, mà là để siết chặt nó hơn trong vòng tay đầy tình yêu thương của mình. Trên thực tế, thiên đường ở thấp là để bảo vệ cho cái vị trí được chọn lựa kia trên mặt đất khỏi mọi tai ương, giống như một nơi ẩn náu, một mái nhà của người cha. Trong khi đó, vầng dương tỏa chiếu ấm áp và rạng rỡ suốt nửa năm, và khi rút lui, thì rút lui một cách quá chậm chạp và miễn cưỡng đến mức dường như sẽ luôn quay trở lại để ngắm nhìn thêm một lần nữa cái nơi chốn đáng yêu này, như thể mong muốn ban tặng cho nó thêm một ngày rạng rỡ, ấm áp nữa trước khi mùa thu đến. Những ngọn đồi ở nơi đây cũng chỉ là những hình mẫu thu nhỏ của những ngọn núi đáng sợ mà, ở những vị trí khác, chúng sẽ nhô cao lên để làm kinh hãi trí tưởng tượng. Đúng hơn, chúng tương tự như những sườn dốc hiền hòa nơi người ta có thể lăn xuống để đùa vui, hay ngồi mơ màng ngắm cảnh mặt trời lặn. Ở bên dưới chúng có một dòng suối nô đùa reo vui. Có một chỗ, dòng suối này chảy vào một cái hồ rộng, ở chỗ khác lại chảy xiết dọc theo một đường rãnh hẹp, và ở chỗ thứ ba chợt trở nên mơ màng lặng lờ trôi, và ngay khi vừa chảy qua những hòn đá, nó tỏa ra thành những con lạch nhỏ về cả hai phía mà tiếng róc rách dịu êm như mời gọi một giấc ngủ. Khắp xung quanh là phong cảnh tươi vui, hớn hở. Bờ cát thoai thoải của dòng suối, một bãi nhỏ trồng cây lấy chất đốt chạy từ trên đỉnh cái bờ đó xuống tới mép nước, một khe núi quanh co mà đáy bị một dòng suối nhỏ và một khu rừng bạch dương xâm chiếm - tất cả những thứ đó dường như cố tình hòa hợp vào nhau, được vẽ bởi bàn tay của một họa sĩ bậc thầy. Cả những trái tim đang ưu tư, phiền muộn lẫn những trái tim chưa bao giờ biết đến âu lo cũng đều ao ước được náu mình ở cái nơi bị quên lãng này của thế giới, và sống ở đó một cuộc đời hạnh phúc không lời nào tả xiết. Tất cả đều hứa hẹn một cuộc sống bình lặng kéo dài cho đến khi đầu bạc răng long, và sau đó cái chết sẽ đến thật từ tốn, giống như là một giấc ngủ vùi.
Ở đó, từng năm trôi qua trong một trật tự đều đặn, rõ ràng. Theo lịch, mùa xuân sẽ đến vào tháng Ba, khi những con lạch đục ngầu bắt đầu chảy xuống từ trên những ngọn đồi, và mặt đất tan giá, sẽ bắt đầu bốc lên một làn hơi ấm áp. Thế rồi nông dân, cởi bỏ quần áo da cừu, sẽ đi ra ngoài mà trên mình chỉ mặc sơ mi, đưa bàn tay lên che mắt lúc sung sướng nhún vai và uống no nê ánh sáng mặt trời rạng rỡ. Rồi, với hai bàn tay nắm lấy hai bên càng xe, anh ta đẩy tới trước một chiếc xe bò đang nằm ngửa gầm lên trời, dưới cái chòi nghiêng, hay kiểm tra và xem xét bằng bàn chân cái bừa đang nằm nghỉ trên tầng mái. Tất cả những việc này là để chuẩn bị cho công việc nặng nhọc thường lệ, bởi vì ở vùng này mùa xuân không còn những cơn bão chất đống tuyết trên những cánh đồng và bẻ gãy những cành cây. Mặt khác, mùa đông, giống như một mỹ nhân lạnh lùng và khó gần, sẽ lưu lại cho đến khi mùa tan giá theo quy luật sẽ đến. Nàng không bao giờ chế nhạo ai bằng những làn không khí êm dịu bất ngờ; nàng cũng không bao giờ bao phủ mặt đất lớp băng giá dày tới mức độ chưa từng thấy. Vạn vật tiến lên theo những lối mòn quen thuộc - theo một trật tự tự nhiên được quy định cho tất cả mọi sự. Dẫu cho, vào tháng Mười một bắt đầu có tuyết và sương giá mà cho đến lễ Hiển linh, đã tăng lên đến mức làm đóng băng bộ râu của người nông dân đi ra khỏi căn lều của mình để hít thở không khí trong lành, thì vào tháng Hai, một cái mũi thính nhạy vẫn có thể phân biệt được mùi hương dễ chịu của mùa xuân đang đến gần.
Tiếp theo, mùa hè sẽ cực kỳ mê ly. Chỉ có trên vùng đất đặc biệt này con người mới có thể tìm thấy mùi hương tươi mát, khô ráo đó, nó không phải là mùi nguyệt quế hay chanh, mà là hương thơm tổng hợp của ngải đắng, thông và hoa anh đào. Cũng chỉ có ở nơi đây người ta mới có thể tìm thấy những ngày tươi sáng có ánh nắng mặt trời ấm áp nhưng không bao giờ nóng như thiêu như đốt, còn nền trời thì quang mây trong suốt cả ba tháng liền. Những ngày tươi sáng đó, hết tuần này sang tuần khác, càng lúc lại càng kéo dài ra hơn; những buổi chiều thì nóng bức và ban đêm thì ngột ngạt trong quãng thời gian này, trong khi những vì sao lấp lánh trên trời cao với vẻ mặt mời gọi của những người bạn. Và khi rốt cuộc những cơn mưa cũng đến thì chúng mới mát lành làm sao! Chúng làm cho nước ùn lên mãnh liệt, ngập tràn và tươi vui, giống những giọt nước mắt lớn và nóng hổi của một người đàn ông vừa mới bất ngờ được giải thoát khỏi bao gánh nặng lo âu; và ngay khi chúng vừa tạnh ngớt thì mặt trời đã hiện ra với nụ cười mới mẻ của tình yêu, để hong khô những cánh đồng và những ngọn đồi nhỏ, để làm cho tất cả miền đồng quê phải đáp lại bằng một nụ cười sướng vui. Cả người nông dân nữa, cũng hạnh phúc biết bao khi đón chào những cơn mưa! “Mưa tốt lành gột rửa chúng ta, và mặt trời sẽ lại lau khô chúng ta.” Đó là câu nói của anh ta lúc ngửa mặt lên trời hứng những cơn mưa ấm áp đổ xuống ào ạt như trút nước, để cho những hạt mưa đùa giỡn trên hai vai và trên lưng mình. Thêm nữa, trên vùng đất này, tiếng sấm không bao giờ đáng sợ, mà dịu hiền thì đúng hơn, và luôn nổi lên vào một mùa nhất định (thường là vào ngày lễ thánh Elias, để cho cái niềm tin truyền thống của người dân có thể được toại nguyện1). Vả chăng, những tiếng sấm đó có vẻ như hằng năm đều giữ nguyên số lượng và cường độ - như thể hằng năm cái kho báu trên trời xanh kia chỉ ban phát một số lượng điện tích nhất định. Nhưng vùng nông thôn này chưa bao giờ phải hứng chịu những cơn bão tố khủng khiếp mang tính chất hủy diệt mạnh mẽ.
1. Cụ thể là nếu như vào ngày hôm đó có tiếng sấm rền, thì suốt cả năm tiếp theo cuộc sống sẽ thịnh vượng, bởi vì tiếng sấm tượng trưng cho lời nhắn gửi của vị thánh đó lên thiên đường.
Cái vùng nông thôn mà tôi đang nói đến ở đây cũng chưa bao giờ bị bệnh dịch Ai Cập hay bất cứ bệnh dịch nào khác ghé thăm. Chưa bao giờ có một thành viên nào trong số cư dân ở đây từng trông thấy một biểu hiện tàn khốc nào của Tự nhiên, một tiếng sét, hay cảnh tối tăm không mong đợi; cũng không có loài sâu bọ độc hại nào sống ở đây. Châu chấu không đến đó và sư tử, hổ, gấu, chó sói cũng không được người dân ở đây biết đến (bởi vì vùng thôn quê này không có những thành lũy cho chúng cư ngụ). Nói tóm lại, vang lên trên những cánh đồng và xung quanh ngôi làng chỉ có tiếng rống của trâu bò, tiếng be be của cừu và tiếng cục tác của gia cầm mà thôi.
Tuy vậy, không có ai ngoài Chúa biết được một thi sĩ hay một người nhìn xa trông rộng có được thỏa mãn với những đặc điểm tự nhiên của vùng đất bình yên này hay không. Chúng ta đều biết những con người đó thích được ngắm trăng, thích được nghe tiếng hót của chim sơn ca; họ thích được thấy Hằng Nga khoác lên mình đám mây đỏm dáng đầy rực rỡ, rồi bí mật bay lượn giữa những cành cây, tỏa ra từng chùm tia sáng bạc làm sung sướng đôi mắt những người tôn thờ mình! Nhưng ở cái vùng thôn quê trong giấc mộng của Oblomov này chẳng có ai từng trông thấy một vầng trăng như thế cả; ở đó, khuôn mặt của Hằng Nga khi nhìn xuống những ngôi làng và những cánh đồng, giống như một cái thau đồng bóng láng và vui tươi hơn, và thi nhân nếu có đắm đuối hướng ánh mắt si mê lên nhìn nàng thì cũng chỉ vô ích, bởi vì nàng sẽ đáp lại bằng vẻ thờ ơ, lãnh đạm giống như của một mỹ nhân quê mùa thô kệch với khuôn mặt tròn trĩnh khi bắt gặp cái nhìn đắm say, đầy biểu cảm của một anh chàng hào hoa phong nhã nơi phố thị.
Trên vùng quê này cũng không bao giờ nghe thấy tiếng hót của một con chim sơn ca nào cả - có lẽ là vì vùng đất này không có bóng râm mát của những khu vườn hoa hồng. Nhưng chim cút thì mới nhiều làm sao! Vào mùa hè, khi việc thu hoạch đang được triển khai, lũ trẻ có thể dùng tay không mà vẫn bắt được chúng. Nhưng như thế không có nghĩa là sau đó những con chim cút này sẽ được chế biến thành những món ăn ngon. Một sự xúc phạm như vậy sẽ là đáng ghê tởm đối với ý thức đạo đức của người dân ở nơi đây, bởi vì cút là một loài chim, và do đó luật pháp cấm sử dụng chúng làm thức ăn. Chính vì thế mà chúng sống chỉ để làm vui tai mọi người bằng những bài ca của mình, và hầu như ở dưới mái hiên của tất cả mọi ngôi nhà đều có treo một cái lồng bằng cành liễu gai nhốt ở trong là một thành viên của cái giống lông vũ này.
Ngay cả diện mạo chung của cái nơi khiêm nhường nhất, bình lặng nhất này cũng không làm cho thi nhân hay người nhìn xa trông rộng được thỏa mãn. Không bao giờ họ được trông thấy một quang cảnh mà trong đó tất cả tự nhiên - rừng, hồ, lều nông dân và sườn đồi cát - bùng cháy trong ngọn lửa màu tím nhạt, trong khi in bóng rõ nét lên một hậu cảnh màu tím có thể trông thấy đang di chuyển trên con đường phủ cát ngoằn ngoèo, một đoàn nông dân cưỡi ngựa đang hộ tống một quý bà nào đó du ngoạn đến một tòa lâu đài đổ nát - tòa lâu đài đang chờ đợi họ với những truyền thuyết về chiến tranh Hoa hồng, bữa ăn tối có món thịt dê rừng và những bản ballad hát theo tiếng đàn luýt của một tiểu thư trẻ người Anh - một quang cảnh phảng phất hương vị Scotland hay Thụy Sĩ đã quen thuộc với trí tưởng tượng của chúng ta qua ngòi bút của Walter Scott.
Trên đất nước chúng ta không bao giờ trông thấy một cảnh tượng nào như thế cả.
Ba hay bốn ngôi làng cấu thành nên cái vùng đất thảnh thơi này mới yên lặng và mơ mộng làm sao! Chúng nằm cách nhau không xa, dường như được ném xuống cái vị trí tương xứng của mình bằng bàn tay của một người khổng lồ, và từ lúc đó vẫn cứ ở nguyên một chỗ như thế. Cá biệt có một căn lều nằm bên mép một khe núi, một nửa nhô ra trên sườn dốc, nhưng được chống đỡ bởi ba cây cột. Ở trong đó, ba hay bốn thế hệ đã sống một cuộc đời hạnh phúc, yên bình; bởi vì dẫu trông nơi đó chẳng đủ rộng rãi để nhốt một con gà, lại được một nông dân khá giả và vợ của anh ta thuê làm chỗ ở. Onisim Suslov là tên người nông dân, và anh ta không thể đứng thẳng người trong ngôi nhà của mình. Cái hiên thực sự nhô ra ngoài khe núi, và để đi ra đó, một tay người ta phải túm vào cỏ, còn tay kia phải bám vào cây cột chống trước khi đặt chân xuống cái hiên nọ. Có nhiều căn lều nữa, mà có thể nói là bám dính vào bên sườn một ngọn đồi như tổ chim nhạn, trong khi ba căn lều khác ở gần bên cạnh nó, và có hai căn tọa lạc ở dưới đáy khe núi.
Trong làng tất cả đều tĩnh lặng. Cửa ra vào của những nơi cư ngụ bé nhỏ đơn độc ấy đang để mở, nhưng không trông thấy có bóng người nào cả. Chỉ có những bầy ruồi bay thành vòng tròn và kêu vo ve. Bạn có gọi to khi bước chân vào một trong những căn lều đó cũng vô ích mà thôi, bởi vì đáp lại bạn sẽ chỉ có sự im lìm tĩnh lặng như tờ, ngoại trừ đây đó có thể nghe thấy tiếng thở khó nhọc của một người ốm yếu hay tiếng ho khàn đục của một bà lão già nua nào đó đang sống những ngày tàn của đời mình bên một cái bếp lò. Và đằng sau hàng rào có thể sẽ xuất hiện một thằng bé ba tuổi tóc dài, chân đất, chỉ mặc độc cái sơ mi. Nó câm lặng nhìn đăm đăm người mới đến, và rồi lại rụt rè trốn đi.
Cũng bầu không khí im lặng đầy bí ẩn đó, cũng sự bình yên đầy thâm trầm đó ngự trị trên những cánh đồng. Chỉ có thể trông thấy xa xa trên mảnh đất canh tác một người thợ cày rám nắng đang làm việc, giống như một con kiến. Thỉnh thoảng anh ta dừng tay, tựa vào cái cày và gạt đi những giọt mồ hôi trên trán. Ngay thái độ sống của cái vùng đất này cũng mang một vẻ bình yên tĩnh lặng không gì phá vỡ nổi. Ở đây không bao giờ có trộm cắp, giết người hay bất cứ một tội ác nào tương tự như thế; không bao giờ người dân đầu hàng những đam mê mãnh liệt hay trải qua những cuộc phiêu lưu mạo hiểm. Quả thực, có đam mê nào, có phiêu lưu nào đủ sức mạnh để làm cho họ phải xúc động kia chứ? Không một người nào từng đi lạc ra khỏi cộng đồng của họ, bởi vì người dân ở đây sống cách biệt với những người khác, cả ngôi làng lẫn thị trấn gần nhất đều cách xa nơi đây từ hai mươi lăm đến ba mươi véc-xta.
Đúng là vào những mùa nhất định, nông dân sẽ đẩy xe bò chở ngũ cốc đến bến sông gần nhất, và mỗi năm một lần họ cũng tổ chức chợ phiên; nhưng ngoài ra, họ không duy trì mối quan hệ nào khác. Trên thực tế họ chỉ quan tâm đến mình mà thôi. Đúng là họ biết cách đó tám mươi véc-xta có một cái thị trấn tỉnh lỵ; nhưng hiếm có người nào trong số họ từng đi đến đó. Họ cũng biết đi qua đấy sẽ bắt gặp Saratov1 và Nizhni Novgorod2 - họ cũng từng nghe nói đến sự tồn tại của những nơi như là Moscow và Petrograd, và ở xa hơn nữa có những con người gọi là người Đức và người Pháp; nhưng xa hơn nữa đối với họ, cũng như đối với những người cổ đại, là một thế giới bí ẩn với bao vùng đất xa lạ chưa từng được biết đến mà cư dân là những con quái vật và những gã khổng lồ hai đầu, được bao bọc bởi màn sương mù và bởi con cá khổng lồ gánh cả thế giới đó trên lưng. Hơn nữa, bởi vì gần như không thể tiếp cận được cái góc bình yên này của thế giới, nên chỉ có rất ít tin tức về cái vũ trụ trắng vĩ đại3 lọt được đến đó. Quả thực, ngay cả những thương nhân buôn bán các món hàng quê mùa sống cách đó hai mươi véc-xta cũng chẳng biết gì nhiều hơn họ. Cũng tương tự như thế, cái ý nghĩ so sánh số phận mình với số phận những người khác không bao giờ nảy ra trong óc họ - cái suy nghĩ tò mò muốn biết những người khác giàu hay nghèo, sung túc hay thiếu thốn, bởi vì những nông dân này sống trong cái niềm tin đầy ơn phước cho rằng không thể có những hoàn cảnh nào khác với hoàn cảnh của họ - họ cho rằng tất cả những người khác chắc chắn cũng đang sống giống như mình, và rằng nếu sống theo bất kỳ cách nào khác cũng đều là tội lỗi. Nếu bạn có cam đoan với họ rằng những người ở nơi khác cày bừa, gieo hạt, gặt hái hay bán sản phẩm của mình bằng một cách thức nào đó khác so với cái cách thức vẫn được sử dụng trên vùng đất đặc biệt này, những cư dân ở đây sẽ không tin bạn đâu. Vì lẽ đó, làm sao một điều khó chịu hay sự bất an nào đó có thể đến gần họ được? Sự thực là, họ giống với cái phần còn lại của nhân loại ở chỗ họ cũng có những mối lo âu, những nhược điểm, bổn phận phải đóng thuế cùng với những cơn lười biếng và uể oải; nhưng mấy điều này chỉ gây ra chút áp lực nhẹ nhàng mà thôi, và không bao giờ thực sự làm sôi bầu máu. Quả thực, trong vòng năm năm, không có bất cứ người nào trong số hàng trăm cư dân ở đây phải gánh chịu một cái chết đau đớn hay tất yếu. Thậm chí, nếu một người đàn ông hay đàn bà chết vì tuổi tác hay bệnh tật tuổi già, thì rất nhanh sau đó những người còn lại sẽ vượt qua được sự ngạc nhiên, sửng sốt của mình trước một sự kiện hiếm khi xảy ra. Cũng như thế, cái sự việc thương nhân Tarass suýt chết vì tự hấp mình trong căn lều của lão và chỉ được cứu sống nhờ nước lạnh cũng hầu như chẳng gây ra được bất kỳ xáo động nào ở trong làng.
1. Thành phố lớn ở miền Nam nước Nga.
2. Thành phố lớn thứ tư ở Nga.
3. Để phân biệt với vũ trụ đen, tượng trưng cho điều chưa được biết đến.
Về tội ác, chỉ có cái trò ăn trộm trong những vườn cây trồng để mang ra chợ bán là thịnh hành mà thôi. Cũng có lần, hai con lợn và một con gà đã biến mất một cách bí ẩn. Sự việc sau đúng là đã gây nên một chút rối loạn ở trong vùng, nhưng tất cả đã nhất trí đó là do một người bán hàng rong đêm hôm trước đi ngang qua đây để đến một phiên chợ. Nói chung, những vụ việc không may như thế rất hiếm khi xảy ra.
Tuy nhiên, có lần người ta đã trông thấy một người đàn ông nằm dưới một con mương trong một bãi quây ngựa gần cầu - đó hình như là thành viên một đảng phái nào đó đi ngang qua đâyen route1 đến thị trấn tỉnh lỵ. Đám trẻ con trai là những đứa đầu tiên trông thấy ông ta, và chúng lập tức chạy về nhà kể câu chuyện kinh sợ về một con rắn hay một con ma sói khổng lồ nào đó đang núp trong một cái hố. Chúng còn tuyên bố thêm rằng con vật đó đã đuổi theo chúng, và suýt chút nữa đã nghiến ngấu ăn thịt được Kuzka rồi. Gần xa nông dân đều vũ trang cho mình những cây rìu nhỏ và những cái chĩa, và en masse2 cùng nhau tiến đến chỗ cái mương kia.
1. Nguyên văn tiếng Pháp, nghĩa là “trên đường”.
2. Nguyên văn tiếng Pháp, nghĩa là “cả đám”.
“Đi đâu đấy?” Mấy ông già gắt gỏng hỏi. “Bọn mày điên rồi hay sao? Bọn mày muốn làm gì vậy? Chuyện thế nào thì cứ mặc kệ đấy, làm thế sẽ không gây hại gì đâu!”
Tuy vậy đám nông dân vẫn cứ đi, và khi còn cách cái mương kia khoảng một trăm bước, họ bắt đầu khẩn khoản cầu xin con quái vật bằng đủ mọi lời lẽ. Nhưng không có lời đáp lại nào cả. Tiếp theo, sau khi lưỡng lự giây lát, cả đoàn lại tiến lên thêm một chút nữa. Người đàn ông kia dường như vẫn đang nằm dưới mương, đầu tựa vào một bên hàng rào, bên cạnh lăn lóc một cái cặp và một cây gậy (trên cây gậy này có treo một đôi giày ống). Tuy vậy đám nông dân đã không thể huy động đủ can đảm cần thiết để đến gần ông ta hay sờ vào ông ta.
“Xin chào, ông bạn!” Họ hét lên - người này gãi đầu người kia gãi gáy. “Ông đang làm gì ở đó vậy? Ông là ai? Có chuyện gì thế?”
Người lữ khách kia có vẻ cũng muốn nhấc đầu lên một chút, nhưng ông ta không thể. Rõ ràng ông ta bị ốm hay đã kiệt sức. Thế rồi một nông dân đánh liều lấy cái chĩa chọc chọc vào người ông ta.
“Đừng động vào ông ta, đừng động vào ông ta!” Những người còn lại la lên. “Làm sao chúng ta biết được ông ta là như thế nào, mấy người không thấy ông ta chả nói gì hay sao? Để cho ông ta được yên đi, các bạn!”
“Đúng, chúng ta nên đi đi thì hơn.” Vài người khác nói. “Lỡ ông ta làm gì với chúng ta thì sao? Lỡ ông ta có thể làm hại người khác.”
Thế là tất cả quay về làng, nói với mấy ông già rằng có một người đàn ông lạ mặt chẳng nói gì cả, mà nhân thân chỉ có Chúa mới biết, đang nằm dưới một con mương.
“Nếu như ông ta không phải là người vùng này, hãy để cho ông ta được yên.” Những người già cả khuyên khi ngồi thảnh thơi trên một bờ sông, hai bàn tay đặt lên hai đầu gối.
“Đúng thế, cứ mặc kệ ông ta. Các người đến đấy chẳng được tích sự gì cả.”
Đây chính là nơi mà Oblomov đã đi qua trong giấc mơ của chàng. Trong số ba hay bốn ngôi làng nằm rải rác trong vùng thì một làng tên là Sosnovka, và một làng tên là Vavilovka - hai làng nằm cách nhau khoảng một véc-xta. Chúng chính là đất đai được thừa kế của Oblomov, và có tước hiệu chung là Oblomovka. Ở làng Sosnovka có trang viên và nông trại, trong khi cách đó năm véc-xta là ngôi làng nhỏ Verklevo - một thời đã từng là tài sản của nhà Oblomov, nhưng từ lâu đã rơi vào tay người khác. Ngôi làng nhỏ đó có những căn lều nằm ở phía xa xa. Toàn bộ Verklevo thuộc về một ông địa chủ giàu có, người chẳng bao giờ có mặt ở địa phương, và cái điền trang này được điều hành bởi một viên quản lý người Đức. Thế là bạn biết thêm về địa lý của vùng đất xa xôi này rồi đấy.
Oblomov mơ thấy cậu lúc bảy tuổi, thức giấc trong cái cũi bé nhỏ của mình ở nhà. Cậu cảm thấy sướng vui và tràn đầy sức sống. Cậu thật là một chú bé đáng yêu, xinh xắn và bụ bẫm làm sao, với đôi má tròn trĩnh đến mức, bất cứ thằng bé nghịch ngợm nào dù cố gắng hết sức để phùng đôi má của chúng lên, thì cũng chẳng thể đọ lại được. Bà vú nuôi của Oblomov đã chờ cậu thức dậy từ lâu, và bây giờ bà ta đang xỏ đôi bít tất dài vào chân cậu. Cậu vùng vằng không để cho bà ta làm việc đó; cậu cứ nhảy cỡn và đá lung tung, trong khi bà ta cố gắng tóm lấy chân cậu, và cả hai người cười vang vui vẻ. Cuối cùng, bà ta nhấc bổng cậu lên đặt vào lòng mình, rửa ráy cho cậu và chải tóc cho cậu; sau đó bà ta đưa cậu đến gặp mẹ. Lúc gặp lại những bậc sinh thành đã mất từ lâu, anh chàng Oblomov đang ngủ run rẩy vì sướng vui và xúc động, từ dưới hai hàng mí mắt nhắm nghiền chảy ra và đọng lại hai giọt nước mắt nóng hổi...
Mẹ cậu đã trút lên cậu cả một cơn mưa những nụ hôn trìu mến, chăm chú nhìn cậu với vẻ lo âu dịu dàng để xem đôi mắt cậu có được trong trẻo và khỏe mạnh hay không. Con có đau ốm gì không? Bà hỏi. Con ngủ có ngon không (tỏ ý không bằng lòng với bà vú nuôi), hay đã nằm thức suốt đêm? Con có gặp giấc mơ nào không? Con có sốt chút nào không? Cuối cùng, bà nắm lấy bàn tay cậu, dẫn cậu đến trước bức tượng thánh thiêng liêng. Khi quỳ trên hai đầu gối với một cánh tay ôm choàng qua người cậu, bà đã đọc những lời cầu nguyện cho cậu nói theo và cậu nhắc lại một cách lơ là, bởi vì cậu thích nhìn ra ngoài những ô cửa sổ từ đó không khí mát mẻ và mùi tử đinh hương tràn vào trong phòng hơn.
“Hôm nay chúng ta sẽ đi dạo phải không mẹ?” Thình lình cậu hỏi.
“Có chứ, con yêu.” Bà vội vàng đáp, nhưng hai mắt vẫn cứ dán chặt vào bức tượng thánh và bà nhanh chóng kết thúc buổi lễ. Nhưng trong khi bà dành cả tâm hồn mình vào những lời cầu nguyện trong buổi lễ đó, thì cậu bé chỉ nhắc lại chúng một cách thờ ơ mà thôi.
Buổi cầu nguyện kết thúc, họ đến gặp cha cậu rồi cùng nhau dùng bữa trà sáng. Oblomov có thể trông thấy đang ngồi bên bàn là bà cô tám mươi tuổi vẫn luôn sống cùng với họ. Bà cứ luôn mồm cằn nhằn bà hầu gái lụ khụ với cái đầu run rẩy vì già yếu, đang đứng đằng sau chiếc ghế bà ngồi để hầu hạ cho bà. Có cả sự hiện diện của ba người phụ nữ lớn tuổi không chồng là bà con xa của cha cậu nữa. Người anh rể ngốc nghếch Chekmenev của mẹ Oblomov, chủ nhân của bảy nông nô, cũng sống chung với gia đình cậu; và còn có những ông già bà lão khác nữa. Những người này là giúp việc trong gia đình Oblomov, họ vừa trông thấy cậu bé Ilya Ilyitch, đã thi nhau vuốt ve và cưng nựng cậu - quá đáng đến mức cậu phải khó khăn lắm mới xóa được dấu vết của những nụ hôn không mong đợi kia. Thế rồi người ta bắt đầu nhồi nhét cho cậu bé nào là bánh mì nhỏ, bánh quy và kem; sau đó mẹ cậu lại ban tặng cho cậu một cái ôm khác nữa rồi bảo đưa cậu ra ngoài đi dạo quanh trong vườn, trong sân và quanh cái hồ - cùng với lời chào tạm biệt, mẹ cậu còn dặn dò thêm bà vú em không được để cậu một mình dù chỉ trong một khoảnh khắc, không được để cậu lại gần những con ngựa, những con chó hay những con dê, cũng không được đưa cậu đi đâu quá xa nhà. Quan trọng hơn hết, bà vú không được để cho cậu đến gần cái khe núi, chỗ nguy hiểm nhất và có tiếng tăm xấu xa ở trong vùng. Có lần ở đó người ta đã trông thấy một con chó có những triệu chứng của bệnh dại, bởi vì nó đã chúi đầu chạy trốn khỏi đám người cầm những cái rìu nhỏ và những cái chĩa đuổi theo mình, và biến mất đằng sau ngọn đồi kế bên. Xác thối cũng được chở đến để đổ xuống cái khe núi này, và người ta cho rằng đây còn là nơi cư ngụ của những tên kẻ cướp, những con chó sói và những sinh vật khác nhau chưa bao giờ tồn tại trên thế giới này.
Nhưng cậu bé chả để ý mấy đến những lời cảnh báo của bà mẹ. Cậu đã ra khỏi nhà và đã ở trong sân rồi. Với nỗi ngạc nhiên đầy hân hoan (như thể đây là lần đầu tiên trong đời) cậu đi một vòng quanh cơ ngơi của cha mẹ mình, với những cánh cổng nghiêng ra phía ngoài, nóc nhà thì mọc đầy địa y, cái mái hiên lung lay, những cái chái cùng mấy căn nhà phụ và khu vườn um tùm của nó. Cậu cũng thích leo lên cái hành lang treo bao quanh ngôi nhà, từ trên đó cậu có thể nhìn thấy dòng sông; nhưng cái hành lang đó giờ đã mục nát và hầu như không còn gắn kết với nhau nữa rồi, thế nên không có ai ngoài gia nhân bước lên đó, và những chủ nhân thì không bao giờ đi lên đó cả. Tuy vậy, không để ý đến những lời cảnh báo của bà mẹ, Oblomov bé bỏng đang định tiến về phía những bậc thang đầy sức cám dỗ kia đúng lúc bà vú em xuất hiện trên hiên nhà và giữ cậu lại. Sau đó, cậu vụt chạy khỏi bà để đến kho chứa cỏ khô, với ý định sẽ leo lên cái thang dốc đứng của nó; và bà ta cũng xuất hiện vừa kịp lúc để ngăn chặn những trò nghịch ngợm tiếp theo của cậu như leo lên chuồng chim bồ câu, đột nhập vào sân gia súc, và - cầu Trời che chở cho tất cả chúng ta! - chạy ra ngoài cái khe núi kia.
“Chúa phù hộ đứa trẻ này!” Bà vú nuôi kêu lên. “Thế cậu có định ngồi yên một chỗ hay không đây, thưa công tử nhỏ? Cậu phải tự biết xấu hổ chứ!” Quả thực, bà đã trải qua suốt cả ngày hôm đó, cũng như mọi ngày và mọi đêm khác, trong tình trạng báo động và phải đối phó với những trò nghịch ngợm tinh quái như thế, trong tâm trạng vừa khổ sở vừa nhẹ nhõm vì cái thằng bé kia, trong nỗi hốt hoảng vì cậu té ngã dập cả mũi, trong niềm sung sướng trước những cử chỉ trìu mến ấm áp và ngây thơ của cậu, và trong sự lo lắng mơ hồ cho tương lai xa xôi của cậu. Chỉ có những điều này và những tình cảm tương tự là còn làm cho trái tim già nua của bà đập và giữ cho dòng máu già nua của bà ấm áp; chỉ có những điều này là còn giữ lại nơi bà cái cuộc sống từ lâu đã uể oải và lay lắt.
Tuy vậy không phải lúc nào cậu bé cũng nghịch ngợm. Thỉnh thoảng cậu trở nên im lặng một cách bất ngờ khi ngồi ở bên cạnh bà, cậu đăm đăm dán mắt nhìn phía trước với vẻ hiểu biết trẻ thơ để tiếp thu những hiện tượng đang diễn ra trong tầm mắt mình. Những hiện tượng đó nhanh chóng chìm sâu vào tâm trí cậu, để phát triển và chín muồi ở đó như nó đã phát triển và chín muồi.
Đó là một buổi sáng rất đẹp, và không khí vẫn còn mát mẻ vì mặt trời chưa lên quá cao. Từ ngôi nhà, từ những thân cây, từ chuồng chim bồ câu và từ hành lang đổ xuống những mảng bóng râm dài tạo nên trong vườn và trong mảnh đất trồng cây ăn quả những góc mát rượi, mời gọi sự trầm tư và giấc ngủ. Xa xa chỉ có cánh đồng lúa mạch đen là đang rực cháy, và dòng sông lung linh lấp lánh dưới những tia nắng mặt trời đến nỗi thực sự làm đau cả mắt người nhìn.
“Vì sao ở đây thì tối mà đằng kia lại sáng ạ?” Cậu bé hỏi. “Chẳng bao lâu nữa khắp nơi nơi đều sẽ sáng chứ ạ?”
“Đúng. Đó là do anh mặt trời mọc lên để gặp gỡ chị mặt trăng đấy, và thỉnh thoảng anh ta cau mày vì không thể trông thấy chị ấy. Từ từ rồi anh ta sẽ trông thấy chị ấy mà thôi. Lúc đó, anh ta sẽ lại tỏa chiếu ánh sáng của mình.” Cậu bé trầm ngâm nghĩ ngợi, tròn mắt nhìn quang cảnh xung quanh. Cậu có thể trông thấy trước mặt mình anh chàng Antip đang đánh cỗ xe ngựa chở nước, cùng với một anh chàng Antip khác, mười lần to lớn hơn Antip thật, đang đi theo sau anh ta, và cái thùng trên cỗ xe đó trông to bằng cả ngôi nhà, còn bóng của con ngựa thì che lấp hết cả cái ao. Cái bóng dường như vừa sải hai bước chân đi ngang qua cái ao, và rồi lại thấy đang di chuyển đằng sau ngọn đồi, dẫu cho bóng của anh chàng Antip vẫn còn nhìn thấy ở trong sân. Đến lượt mình, chú bé cũng sải hai bước chân như thế, rồi lại thêm một bước thứ ba nữa, để xem mình có biến mất đằng sau ngọn đồi như thế hay không. Cậu rất thèm muốn được leo lên ngọn đồi đó, để biết chắc chắn chuyện gì đã xảy ra với con ngựa. Thế nên cậu lao bổ ra cổng, nhưng chỉ nghe thấy tiếng mẹ gọi từ một khung cửa sổ như thế này mà thôi:
“Bà vú, bà vú, bà không thấy thằng bé chạy ra ngoài nắng rồi đấy à? Làm ơn hãy mang nó trở lại chỗ bóng râm, bằng không nó sẽ say nắng, rồi lại ốm và chẳng ăn uống được gì cả bây giờ! Chưa kể, nó có thể chạy xuống khe núi đấy!”
“Ôi, bé yêu tinh nghịch!” Bà vú khẽ lẩm bẩm lúc lôi cậu bé trở về sân hiên. Cậu bé nhìn quanh bằng ánh mắt sắc sảo, tinh tường của một “người lớn” đang tranh luận xem có thể sử dụng thời gian của buổi sáng như thế nào là hay nhất. Không một điều nhỏ nhặt nào, không một việc tủn mủn nào thoát khỏi sự chú ý tò mò của cậu, thế nên vô tình bức tranh về đời sống gia đình đó đã khắc sâu vào tâm trí cậu, và cái trí tuệ nhạy cảm của cậu đã tự nuôi dưỡng mình bằng những ví dụ sống động, vô tình áp đặt cái hình mẫu cuộc sống đó ra xung quanh.
Không bao giờ có thể nói buổi sáng đã bị phí hoài trong cơ ngơi nhà Oblomov. Tiếng dao trong bếp, lúc họ băm cốt-lết và rau, vang ra tận ngôi làng; trong khi đó, từ khu gia nhân phát ra tiếng rền của một cái trục quay, kèm theo là giọng khe khẽ của một bà già - nhưng cái giọng đó quá nhỏ, đến mức người ta hầu như không thể biết bà ta đang khóc hay chỉ là đang tự sáng tác một “bài ca không lời” buồn thảm nào đó. Thêm nữa, khi Antip trở về trên cỗ xe ngựa chở nước, sẽ có một đám hầu gái và giữ ngựa cùng với nào xô, bình và vò ra đón tiếp, trong khi một bà già chuyển một chậu thịt và một chồng trứng từ nhà kho sang nhà bếp. Lúc nấu nướng bỗng dưng có nước hắt ra ngoài cửa sổ, thế là con mèo Arapka - hai mắt tròn xoe nhìn cái cảnh tượng kia, suốt buổi sáng cứ ngoe nguẩy cái đuôi và tự liếm láp mình - bị ướt sũng nước.
Cả ông chủ gia đình cũng không được rỗi rãi, bởi vì ông ta ngồi suốt buổi sáng bên cửa sổ, tận mắt theo dõi tất cả mọi chuyện diễn ra ở trong sân.
“Này, Ignashka, anh mang thứ gì đấy, đồ bất lương?” Ông ta hét lên với một người đàn ông đang đi ngang qua sân. “Mấy con dao để mài sắc ở gian rửa bát ạ.” Người kia đáp mà không nhìn lên ông chủ mình.
“Thế thì được. Nhớ mài cho kĩ đấy nhé.”
Tiếp theo, ông chủ gọi về phía một trong những cô hầu gái.
“Cô đi đâu đấy?” Ông ta hỏi.
“Xuống hầm lấy sữa để bày bàn ăn ạ.” Cô ta đáp, giơ bàn tay lên che mắt.
“Tốt!” Ông ta tuyên bố. “Cẩn thận khéo đổ đấy nhé. Này, Zakharka - cô lại lỉnh đi đâu hả? Đây là lần thứ ba tôi trông thấy cô đi lang thang quanh quẩn rồi đấy. Quay lại chỗ của mình trong tiền sảnh ngay.” Thế là Zakharka quay trở lại với cơn mơ màng của mình ở cái vị trí vừa được nhắc đến ở trên. Lại nữa, ngay khi những con bò cái vừa trở về từ đồng cỏ, Oblomov cha luôn luôn ở đó để xem chúng có được cho uống nước tử tế hay không. Thêm nữa, nếu từ vị trí của mình bên cửa sổ, tình cờ mà ông ta trông thấy có một gã bẩn thỉu nào đó đang đuổi theo một trong những con gà mái, là ông ta liền nhanh chóng áp dụng ngay những biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn một trò như thế có thể tái diễn. Cả vợ ông ta cũng vô cùng bận rộn. Suốt ba giờ đồng hồ bà tranh cãi với gã thợ may Averka về những cách thức và phương tiện tốt nhất để sửa một cái áo gi lê của ông chồng thành một cái jacket cho con trai - tự tay bà đã lấy phấn vẽ những đường cần thiết, và để mắt theo dõi không cho gã Averka thó bất kỳ một mảnh vải nào. Sau đó bà sang phòng hầu gái, nơi bà giao phần việc thêu ren hằng ngày cho mỗi cô; nơi bà gọi một trong những cô hầu riêng của mình ra gặp bà ở ngoài vườn, để xem những quả táo đã lớn đến đâu, quả nào đã rụng và quả nào đang chín, cây nào cần ghép cành hay tỉa xén, vân vân và vân vân. Nhưng mối quan tâm chủ yếu của bà là nhà bếp và bữa ăn chiều. Về bữa chiều, bà hỏi ý kiến tất cả mọi người trong nhà, kể cả bà cô già. Mỗi thành viên trong gia đình đều đề nghị một món đặc biệt, và tất cả sẽ được cân nhắc, đánh giá một cách tỉ mỉ, rồi được thông qua hay từ chối tùy theo phán quyết cuối cùng của bà chủ nhà. Chốc chốc một cô hầu gái lại được cử sang khu vực nấu nướng để nhắc nhở chị đầu bếp về món ăn này, hay bảo chị thêm món ăn kia, hay chỉ thị cho chị phải thay đổi một món ăn khác, vừa bảo chị lấy đường, mật và rượu vang làm hương liệu, vừa kiểm tra xem chị đầu bếp ấy có đang sử dụng mọi thứ một cách lãng phí hay không. Trên thực tế, lo lắng về thức ăn là mối bận tâm chủ yếu và đầu tiên của trang viên Oblomovka.
Còn con bê nào không được vỗ béo cho những lễ hội trong năm! Còn thứ gia cầm nào không được nuôi! Còn sự lo xa, quan tâm và khéo léo nào không được cống hiến cho việc tiêu thụ thức ăn! Gà chọi và gà mái tơ chỉ để dành riêng cho những ngày sinh nhật và những dịp trọng thể khác; thế nên chúng được tọng đẫy quả hạch. Cũng vì lý do đó mà những con ngỗng bị bắt trước vài ngày, và bị treo trong những cái bao cho đến khi cần đến, chúng bị hạn chế vận động là để có thể vỗ cho béo hơn. Thỉnh thoảng lại có quay thịt, muối dưa và nướng bánh. Còn thứ rượu mật ong hay nước kvass1 nào không được ủ ở đó, và còn thứ bánh nào không được làm ở đó!
1. Rượu làm từ vỏ bánh mì hay hoa quả lên men.
Vì thế trong buổi sáng, tất cả trang viên Oblomovka luôn ở trong tình trạng hối hả, om sòm. Cuộc sống ở đó quả thực tràn đầy, dễ nhận thấy và giống như là cuộc sống của loài kiến vậy! Thậm chí vào những ngày Chủ nhật và những ngày nghỉ, những con kiến yêu lao động kia vẫn không ngơi tay làm việc, bởi vì vào những ngày đó, tiếng lách cách của dao trong bếp vang ra càng to và nhanh hơn bao giờ hết, một cô hầu gái chạy đôn chạy đáo nhiều lần từ nhà kho sang nhà bếp với số thịt và trứng gấp đôi; ở trong sân nuôi gia súc, tiếng gà kêu và việc giết thịt xảy ra nhiều hơn cả ngày thường nữa. Vào những ngày đó, người ta cũng sẽ nướng một cái bánh khổng lồ, nó sẽ được các chủ nhân ăn vào ngày hôm đó và những ngày tiếp theo, vào ngày thứ ba và thứ tư, nó sẽ được chuyển xuống cho những cô hầu gái; sau đó, nếu đến ngày thứ năm mà nó vẫn chưa được ăn hết, những mẩu ôi thiu cuối cùng còn lại sẽ được mang ra cho Antip như là một sự chiếu cố đặc biệt, gã này, sau khi làm dấu thánh giá, sẽ tấn công những miếng bánh cứng như đá một cách ngoan cường - dẫu cho chính cái ý nghĩ rằng mới đây nó là cái bánh của những chủ nhân (chứ không phải là bản thân cái bánh) đã khiến cho hắn cảm thấy sung sướng hơn cả; cũng như một nhà khảo cổ sẵn sàng sung sướng uống thứ rượu vang rẻ tiền nhất miễn là nó được rót ra từ một cái vò ngàn năm tuổi.
Cậu bé đã ghi nhớ tất cả những điều này vào cái tâm trí trẻ thơ, luôn luôn quan sát và chú ý của mình. Cậu hiểu rằng, sau những buổi sáng trôi qua một cách đầy ích lợi và bận rộn như thế, buổi trưa và bữa ăn chiều sẽ đến. Vào quãng thời gian đang nói đến ở đây, buổi trưa thật là oi bức, bầu trời không một gợn mây. Quả thực, mặt trời dường như đứng im để thiêu đốt những ngọn cỏ, và bầu không khí như ngừng tuần hoàn, luân chuyển - chỉ đứng im lơ lửng mà chẳng nhúc nhích một chút nào. Từ trên cây hay từ hồ đều không nghe thấy có bất kỳ tiếng xạc xào nào dù là yếu ớt nhất, chỗ ngôi làng và ruộng đồng là một bầu không khí im lìm không thể phá vỡ nổi, như thể vạn vật đều đã chết. Chỉ có từ đâu đó xa xa vẳng tới một giọng nói con người, trong khi cách đấy chừng năm mươi mét, có tiếng vo ve của con bọ cánh cứng đang bay, cùng với tiếng ngáy của người nào đó đã lỉnh vào một đống cỏ dày để tận hưởng giấc ngủ mát lành, tất cả nhẹ nhàng vọng đến bên tai. Thậm chí cả ngôi nhà cũng bị bao phủ trong sự im lặng giống như thế, bởi vì đã đến giờ ngủ sau bữa ăn. Cha, mẹ và bà cô già của cậu bé, cùng với đám người hầu hạ của họ, có thể được trông thấy rút lui về những góc khác nhau; và nếu như người nào không có một góc nào đó cho riêng mình, anh ta hay chị ta sẽ lên cái gác xép dùng để chứa rơm rạ, hay ra vườn, hoặc đến một nơi nghỉ ngơi mát mẻ giữa đống cỏ khô, với cái khăn tay phủ lên mặt để tránh ruồi, hay đến một chỗ nào đó mà cái nóng như thiêu như đốt sẽ giúp sức cho sự tiêu hóa sau bữa ăn chiều ê hề thừa mứa. Ngay cả người làm vườn cũng nằm thẳng cẳng dưới một bụi cây bên cạnh mảnh vườn của mình, còn người xà ích thì ở trong chuồng ngựa của anh ta.
Cậu bé Oblomov đến nhìn trộm vào sảnh đầy tớ, nơi đám này đang ngủ như thể bị nhiễm một thứ dịch bệnh. Họ ngủ trên những cái ghế dài, trên sàn và trên ngưỡng cửa, trong khi đám con cái họ bò quanh quẩn ở trong sân, nặn những cái bánh bùn. Quả thực, mấy con chó đã bò vào trong những cái cũi của chúng, bởi vì chẳng còn ai để mà sủa nữa. Nói tóm lại, người ta có thể đi xuyên qua toàn bộ cái cơ ngơi này mà không gặp bất kỳ một con người nào cả; tất cả đồ đạc ở trong đó đều có thể bị đánh cắp rồi chất lên những cỗ xe và chở ra khỏi sân một cách dễ dàng, bởi vì ở đó sẽ chẳng có ai ngăn chặn cả. Giấc ngủ tràn lan chế ngự tất cả, chinh phục tất cả - một hình ảnh đích thực của cái chết; có cảm tưởng như tất cả mọi người đã rời bỏ cuộc sống này, nếu không có những tiếng ngáy với nhiều âm điệu khác nhau vang lên từ chỗ này chỗ khác. Thỉnh thoảng lắm mới có một người nào đó giật mình ngẩng đầu lên, chăm chú nhìn xung quanh bằng đôi mắt trống rỗng, rồi lại nằm trở mình sang hướng khác.
Sau bữa chiều, cậu bé lại đi theo bà vú nuôi ra hít thở không khí trong lành lần thứ hai. Tuy nhiên, bất chấp những lời huấn thị của bà chủ và quyết tâm của chính mình, người phụ nữ già nua này vẫn không thể cưỡng lại được tiếng gọi chung của cơn buồn ngủ, và đã bắt đầu trở thành nạn nhân của căn bệnh dịch đang lan tràn mọi ngóc ngách của trang viên Oblomovka này. Ban đầu bà không ngừng thận trọng đưa mắt dõi theo cái của nợ bé bỏng của mình, và trong khi rầy la cậu vì bướng bỉnh, bà không bao giờ để cậu đi xa khỏi mình; nhưng cũng chẳng được bao lâu, sau khi đã đưa ra cho cậu những mệnh lệnh nghiêm khắc rằng không được đi quá những cánh cổng, không được quấy phá những con dê, không được leo lên chuồng bồ câu và cái hành lang, bà đến ngồi ở một chỗ râm mát, giả vờ vừa đan một chiếc tất dài vừa trông chừng Oblomov bé bỏng. Tiếp theo bà sẽ để mắt đến cậu một cách lười nhác, và vừa gục gặc cái đầu bà vừa tự nhủ: “Xem kìa, cậu ấy chắc chắn sẽ leo lên mấy cái cầu thang dẫn lên hành lang cho mà xem, nếu không...” Mắt bà hầu như đã nhắm tịt. “Nếu không thì cũng chạy xuống chỗ cái khe núi.” Thế rồi đầu bà gục xuống, chiếc tất dài tụt khỏi hai bàn tay. Trong một giây, từ cái miệng há ra của bà vang lên tiếng ngáy nhẹ nhàng, và cậu bé biến mất khỏi tầm mắt.
Không cần phải nói đó là cái giây phút mà cậu bé đã nôn nóng chờ đợi như thế nào, bởi vì nó đánh dấu sự khởi đầu của cuộc sống độc lập, và bây giờ chỉ có một mình cậu trên thế giới rộng lớn mênh mông này mà thôi. Cậu rón rén trên đầu ngón chân đi xa khỏi bà vú, và thập thò cẩn trọng nhìn những người đang ngủ khác, chốc chốc phải dừng chân để liếc mắt nhìn lại một người nào đó tình cờ cựa quậy, hay khạc nhổ, hay khụt khịt trong giấc ngủ của mình. Cuối cùng, với trái tim run rẩy vì sung sướng, cậu đi đến chỗ hành lang, chạy lên cái cầu thang cọt kẹt, leo lên cả chuồng chim bồ câu, khám phá những nơi hẻo lánh trong khu vườn, lắng nghe tiếng vo ve của những con côn trùng cánh cứng và đưa mắt dõi theo đường bay của chúng trong không trung. Tiếp theo, khi nghe thấy tiếng vù vù trong bụi cỏ, cậu lùng tìm và bắt giữ kẻ quấy phá nền hòa bình chung, trong hình dạng một con chuồn chuồn. Cậu đã vặt những cái cánh, đã lấy cọng rơm xiên qua thân nó, để xem sau khi đã bị ngăn trở như thế, con côn trùng này sẽ cố gắng bay như thế nào. Sau đó, hết hồn hết vía, cậu nhìn cảnh tượng một con nhện đang hút máu một con ruồi, trong khi nạn nhân đáng thương vật lộn và kêu vo vo trong những móng vuốt của nó. Cuối cùng, tấn thảm kịch kết thúc bằng việc cậu giết chết cả kẻ tra tấn lẫn kẻ bị tra tấn. Tiếp theo, cậu đến hào nước để tìm những rễ cây bé nhỏ tạp nham mà mình biết; lúc tìm thấy rồi, cậu bóc vỏ chúng, bỏ vào mồm ăn nghiến ngấu một cách khoái trá, giả vờ như chúng là những quả táo hay loại mứt mà bà mẹ vẫn thường cho cậu ăn. Khi đã chán trò này rồi, cậu vội vàng đi qua cánh cổng - cậu làm thế để đến một khoảng rừng bạch dương mà cậu thấy là quá gần, đến mức nếu đi đường thẳng chứ không theo đường cái quanh co (hay nói cách khác là nếu cậu đi băng ngang qua con hào và xuyên qua bãi trồng cây liễu gai), thì cậu có thể đến được đó trong vòng năm phút. Nhưng, than ôi! Cậu thấy sợ, bởi vì cậu đã được nghe kể nhiều câu chuyện về những con yêu quái ở trong rừng, về những tên kẻ cướp và về những con thú hoang dã đáng sợ. Tiếp theo, đà hăng say làm cậu tìm đến cái khe núi, nó nằm cách khu vườn nhà cậu một trăm bước chân; thế là, sau khi đã chạy đến rìa cái khe núi và nhíu mắt lại, cậu chăm chú nhìn xuống đáy của nó như nhìn xuống cái miệng núi lửa của thần Vulcan1. Bỗng dưng tất cả những câu chuyện và niềm tin về nơi này quay trở lại trong tâm trí cậu; nỗi khiếp sợ tóm chặt lấy cậu, và cậu bán sống bán chết lao vội trở về nép mình vào vòng tay bà vú nuôi. Bừng tỉnh khỏi giấc ngủ, bà nhảy bật dậy, vuốt thẳng lại cái mũ ở trên đầu, lấy một ngón tay sửa sang lại những lọn tóc quăn đã ngả bạc, giả vờ như chưa hề ngủ một chút nào. Sau khi liếc mắt nghi ngờ nhìn Ilya bé bỏng, rồi nhìn lên những khung cửa sổ của chủ nhân, bà lại đưa hai bàn tay run rẩy cầm lấy que đan và chiếc tất dài đã rơi xuống lòng mình lên đan tiếp.
1. Vị thần lửa (gồm cả lửa trong núi lửa), thần thợ rèn trong thần thoại La Mã.
Trong khi đó, cái nóng đã giảm bớt, vạn vật trong tự nhiên đã hồi sinh được một chút bởi vì mặt trời đang lặn xuống nhanh chóng đằng sau khu rừng. Dần dần, sự tĩnh lặng ở trong nhà cũng bắt đầu bị phá vỡ. Đây đó có thể nghe thấy tiếng một cánh cửa cọt kẹt, tiếng những bước chân đi ngang qua sân và tiếng ai đó hắt hơi trên gian chứa cỏ khô. Chẳng bao lâu sau, một người đàn ông vội vàng đi ra từ bếp dưới sức nặng của một cái ấm samovar khổng lồ, và rồi cả nhà tập trung nhau lại để uống trà - người này khuôn mặt ửng đỏ và đôi mắt vẫn còn lờ đờ, người kia với những vết đỏ trên má và trên thái dương, thêm một người nữa giọng nói lạc đi vì ngái ngủ, và tất cả bọn họ đều khụt khịt, khò khè, ngáp, gãi đầu và duỗi mình trong tình trạng còn ngái ngủ. Dường như bữa chiều và giấc ngủ đã hợp lại với nhau để đánh thức một cơn khát không thể dập tắt làm khô bỏng cả cổ họng, bởi vì cả một tá những tách trà đầy cũng không thể làm dịu nó đi được, và rồi, giữa điệp khúc những tiếng thở dài, tiếng càu nhàu, người ta phải vận đến cái phương kế là rượu việt quất, rượu lê, nước kvass và thậm chí cả những biện pháp làm ẩm có tính đặc trị hơn để giải tỏa cơn khát này của cái cổ họng. Cả nhà tìm cách làm dịu cơn khát như thể đó là một căn bệnh dịch do Chúa Trời gửi xuống, và tất cả đều cảm thấy kiệt sức như đang đi giữa một sa mạc Ả Rập và không thể tìm thấy đâu được một dòng suối.
Ngồi bên cạnh mẹ, cậu bé giương mắt nhìn những khuôn mặt xa lạ ở xung quanh và lắng tai nghe tiếng trò chuyện lè nhè, buồn ngủ. Tuy vậy, cảnh tượng đó vẫn làm cho cậu thấy vui, và cậu thấy mỗi lời buột miệng thốt ra đều vô cùng lý thú.
Uống trà xong tất cả mọi người đều tìm cho mình một công việc vặt vãnh nào đó để làm. Người thì ra đi dạo trên bờ sông - vừa đi vừa đá những hòn cuội xuống nước. Người khác lại đến ngồi bên một khung cửa sổ, đưa mắt trông theo từng sự việc xảy ra. Một con mèo trên sân hay một con quạ gáy xám bay ngang qua, kẻ quan sát đưa mắt nhìn theo cả con này lẫn con kia, hết quay đầu sang trái lại quay đầu sang phải. Những con chó cũng nằm suốt ngày bên một khung cửa sổ như thế - đầu chúng phơi ra ngoài nắng, đưa mắt nhìn theo tất cả những ai đi ngang qua.
Bà mẹ đưa hai bàn tay lên ôm lấy mái đầu Ilya bé bỏng và kéo vào lòng mình, vừa dịu dàng chải tóc cho cậu vừa khoe cậu với mấy cô hầu gái. Bà nói chuyện về tương lai của cậu, định đoạt trước cho cậu vai trò người anh hùng trong một vở sử thi huy hoàng nào đó. Về phần mình, mấy cô hầu gái dự đoán cậu sẽ có những ngọn núi bằng vàng.
Cuối cùng thì hoàng hôn cũng đến. Một lần nữa ngọn lửa lại lách tách trong bếp, và tiếng dao lách cách lại vang lên. Bữa tối đang được chuẩn bị. Trong khi đó, những người hầu còn lại tập trung ở ngoài cổng, từ nơi ấy vang lên những tiếng cười, tiếng nhạc và tiếng những người đang chơi goriclki. Mặt trời đã lặn đằng sau cánh rừng, nhưng vẫn phóng ra những vệt lửa yếu ớt mà lúc chiếu qua những ngọn cây, chúng nhuộm vàng cả những chóp thông. Cuối cùng, những tia sáng này cũng lần lượt biến mất, cho đến khi chỉ còn trông thấy được một tia duy nhất, giống như một cây kim, chiếu xuyên qua một đám các cành cây trước khi cũng biến mất theo những bạn đồng chí của nó. Sự vật bấy giờ bắt đầu mất đi các đường nét và hình dáng, quang cảnh trở nên lờ mờ, đầu tiên là màu xám, sau đó là một màn đêm gần như tối tăm, mờ mịt hoàn toàn. Tiếng chim hót thưa thớt dần rồi ngừng bặt, ngoại trừ một con chim vẫn còn cố chấp, như thể không đồng ý với chúng bạn, tiếp tục phá vỡ bầu im lặng bằng những tiếng hót líu lo ngắt quãng. Nhưng ngay sau đó, cả nó nữa cũng bắt đầu ca bài ca của mình càng lúc càng thưa thớt hơn, với sự ương bướng đã yếu dần đi; cho đến khi nó nhả ra một nốt nhạc êm ái cuối cùng, vẫy cánh một hai lần làm những tán lá ở xung quanh khẽ khàng lay động, rồi chìm vào giấc ngủ.
Sau đó chỉ còn lại sự tĩnh lặng mà thôi, ngoại trừ tiếng kêu đồng ca hay đối chọi nhau của những con dế. Từ dưới mặt đất bốc lên một màn sương mù, lan ra trên hồ nước và dòng sông. Cũng giống như tất cả những thứ khác, dòng sông này đang chìm vào một giấc nghỉ ngơi; và dẫu cho có thứ gì đó làm nó bắn tóe lên một lần cuối cùng, nhưng con nước đã tức khắc khoác lên mình vẻ im lìm tuyệt đối. Có thể cảm thấy hơi ẩm trong không trung, và cũng có thể cảm thấy không khí đang ấm dần lên. Còn cây cối thì trông như những bầy quái vật; và khi bất thình lình có thứ gì đó phát ra tiếng răng rắc từ nơi sâu thẳm đầy bí hiểm của khu rừng, người ta có thể nghĩ một trong những con quái vật ấy đang thay đổi vị trí, và khi làm vậy, bàn chân đã đạp gãy một cành cây khô. Trên trời có thể trông thấy ngôi sao đầu tiên tỏa sáng như một con mắt sống, trong khi từ một vài ô cửa sổ của ngôi nhà đã thấy lấp lánh ánh đèn. Cái giờ khắc trang trọng, uy nghiêm nhất của tự nhiên đã đến - cái giờ khắc mà óc sáng tạo có thể làm việc hiệu quả nhất, khi mà cảm hứng thi ca sục sôi nồng nhiệt nhất, khi mà trái tim bùng cháy thành một ngọn lửa đam mê nóng bỏng nhất hay nỗi đau đớn sâu sắc nhất - cái giờ khắc mà linh hồn nhẫn tâm đạt được sức mạnh và sự điềm tĩnh cao nhất lúc nó nghiền ngẫm những việc xấu xa - cái giờ khắc mà tất cả mọi người trong trang viên Oblomovka đều đang hưởng thụ khoảng thời gian ban đêm thảnh thơi thâm trầm.
“Chúng ta cùng đi dạo nào mẹ.” Cậu bé Ilya bé bỏng nói với mẹ.
“Chúa phù hộ thằng bé này!” Bà kêu lên. “Làm sao chúng ta có thể đi dạo được? Trời đang rất ẩm, và hai bàn chân bé bỏng của con sẽ ướt đấy. Vả chăng, chúng ta sẽ thấy ở ngoài trời rất kinh khủng, bởi vì đây là giờ con yêu quái sống trong rừng đi ra ngoài và nó bắt cóc những bé trai đấy.”
“Nó bắt cóc họ đến đâu ạ, và trông nó như thế nào, nó sống ở đâu ạ?” Cậu bé hỏi; thế là bà mẹ buông cho trí tưởng tượng của mình phi nước đại. Lúc bà làm thế, cậu bé chớp chớp mắt lắng tai nghe; cho đến khi cuối cùng giấc ngủ cũng đã đến và chế ngự cậu hoàn toàn, rồi bà vú nuôi đến, nhấc cậu ra khỏi lòng mẹ để bế cậu về giường, đầu tựa lên vai bà.
“Một ngày nữa lại trôi qua, cảm ơn Chúa!” Những người trong trang viên Oblomovka nói khi vừa ngáp vừa làm dấu thánh rồi rút về nghỉ ngơi. “Thật là một ngày tốt lành, cầu Chúa cho ngày mai cũng giống như thế. Ôi Chúa quang vinh, đêm nay là của Ngài! Ôi Chúa quang vinh, của Ngài!”
Oblomov lại mơ một giấc mơ thứ hai. Vào một đêm mùa đông dài, cậu đang nép sát mình bên bà vú nuôi, và bà đang thì thầm kể về một vùng thôn quê xa lạ nào đó nơi không có cả rét mướt lẫn bóng đêm, và là nơi xảy ra những phép nhiệm màu, những dòng sông chảy toàn những mật cùng sữa, nơi cả năm dài người ta chẳng phải làm gì cả, nơi mà suốt ngày này sang ngày khác chỉ những cậu bé ngoan như Ilya Ilyitch mới được đi dạo chơi cùng với những cô thiếu nữ mà không lời lẽ hay ngòi bút nào có thể hy vọng tả nổi. Cư ngụ ở đó (bà vú nuôi nói) còn có một bà phù thủy tốt bụng thỉnh thoảng xuất hiện dưới dáng vẻ một con cá chó; và bà phù thủy này chọn lấy cho mình một sủng thần đặc biệt, một người cục mịch, trầm lặng và vô hại mà trước đó luôn là cái đích làm trò cười cho người khác và, vì một lý do nào đó không rõ, đã rất hào phóng và rộng rãi với anh ta, thế nên anh ta lúc nào cũng có rất nhiều thức ăn, quần áo thì lúc nào cũng sẵn mặc, và cuối cùng là cưới một mỹ nhân nhan sắc diệu kỳ tên là Militrissa Kirbitievna.
Bà vú nuôi kể câu chuyện kia, còn cậu bé, dỏng tai và mắt lên, nuốt lấy từng lời của bà. Bà vú nuôi hay truyền thống đã rút ra từ câu chuyện tất cả sự tương đồng với cuộc sống hằng ngày một cách khéo léo đến mức trí tuệ và trí tưởng tượng sắc sảo của cậu bé, bị kích thích bởi trò hư cấu đó, vẫn còn bị mê hoặc cho đến tận khi cậu đã trở thành một người đàn ông nhiều năm sau này. Trên thực tế, câu chuyện mà bà vú nuôi kể lại một cách trìu mến đến thế là huyền thoại về gã ngốc Emel - cái câu chuyện trào phúng thông minh, mỉa mai đó mà cha ông chúng ta, và có lẽ cả chính chúng ta nữa, cũng đều đã từng được nghe. Quả thực, khi lớn lên, cậu bé Oblomov hiểu rằng những chuyện như dòng sông mật và sữa, hay những con người như bà phù thủy tốt bụng, không thể thực sự tồn tại được. Tuy vậy, dẫu vẫn mỉm cười trước câu chuyện của bà vú nuôi, nhưng nụ cười đó không bao giờ là thực sự chân thành, bởi vì bao giờ kèm theo nó cũng là một tiếng thở dài. Cái huyền thoại kia đã làm xáo trộn cuộc sống của cậu, và một cách vô ý thức, cậu thấy nuối tiếc vì huyền thoại lại không giống như thực tế, và thực tế lại không giống như huyền thoại. Vô tình cậu đã mơ thấy nàng Militrissa Kirbitievna, và cảm thấy bị cuốn hút về phía cái vùng thôn quê kia, nơi người dân chỉ suốt ngày rong chơi, không đau buồn cũng chẳng lo âu. Cậu không thể dập tắt được lòng khao khát muốn được nằm suốt ngày bên lò sưởi (giống như kẻ được sủng ái trong câu chuyện huyền thoại kia vẫn làm), được mặc quần áo may sẵn, không mất tiền mua, và ăn bằng tiền của một bà phù thủy nhân từ. Cha và ông nội cậu cũng đã từng nghe câu chuyện đó, vẫn y hệt như thế từ đời này sang đời khác, nó được kể từ miệng những vú nuôi cả đàn ông lẫn đàn bà qua bao năm tháng và bao thế hệ.
Thế rồi bà vú nuôi của Oblomov lại bày ra một bức tranh khác cho trí tưởng tượng của cậu bé. Hay nói cách khác, bà đã kể cho cậu nghe về những chiến công của Achilles1 và Ulysses2của nước Nga, về cái cách mà những vị anh hùng này đã sử dụng để đi lang thang khắp nước Nga, để giết chóc và để tiêu diệt; và làm thế nào mà có lần họ đã tranh cãi về việc ai trong số hai người có thể uống cạn số rượu vang trong một cái cốc lớn. Bà cũng kể cho cậu bé nghe về những tên kẻ cướp tàn bạo, về những nàng công chúa đang say ngủ, về những thành phố và những cộng đồng người đã bị biến thành đá. Cuối cùng, bà chuyển sang những chuyện ma quỷ Nga, sang người chết, sang những con quái vật và sang những con ma sói. Với sự đơn giản, mộc mạc nhưng thành thật, xứng đáng sánh ngang Homer3, với sự tương đồng, gần gũi với cuộc sống ở từng chi tiết tỉ mỉ, và sức mạnh giải khuây rõ ràng có thể sánh ngang với thi hào Hy Lạp vĩ đại kia, bà đã kích thích trí tuệ và trí tưởng tượng của cậu bé, khơi gợi một tình yêu dành cho Iliad4, ở đó những vị anh hùng của chúng ta đã ra đời và xuất hiện từ thuở hồng hoang khi con người chưa thích nghi được với những mối hiểm nguy và bí ẩn đủ loại của tự nhiên và cuộc sống - khi anh ta vẫn còn run rẩy trước những con ma sói và quỷ rừng, tìm kiếm sự che chở từ những người bảo vệ như Alesha Popovich5 để tránh khỏi tai họa bao vây anh ta - khi không khí, nước, rừng và những thứ tương tự nằm dưới sự thống trị liên tục của sức mạnh siêu nhiên.
1. Tên vị anh hùng trong thần thoại Hy Lạp, nhân vật trung tâm của cuộc chiến thành Troy.
2. Hay còn có tên gọi là Odysseus, nhân vật anh hùng trong thần thoại Hy Lạp, là vua xứ Ithaca, nổi tiếng thông thái, khôn ngoan, giỏi ứng biến.
3. Một trong những nhà văn Hy Lạp cổ đại xuất sắc, sống vào khoảng thế kỷ VIII trước công nguyên.
4. Sử thi Iliad là tác phẩm đặc sắc của Homer, với chủ đề là Cuộc chiến thành Troy, nhưng tập trung chủ yếu vào chiến binh người Hy Lạp Achilles.
5. Alesha Popovich là một người anh hùng trong truyện kể dân gian Nga.
Quả thực, cuộc sống của một con người vào những ngày đó hẳn phải đầy sợ hãi và run rẩy, có thể thấy rằng, nếu như anh ta bước chân qua ngưỡng cửa nhà mình, anh ta có thể bị một con thú hoang ăn thịt, hay bị một tên kẻ cướp cắt cổ, hay bị một tên Tartar lột sạch tất cả, hay biến mất một cách bí ẩn không để lại dấu vết nào. Thêm nữa, những điềm gở trên trời có thể được trông thấy trong hình hài những cây cột hay quả cầu lửa, khi ở phía trên một nấm mồ mới đắp có ánh sáng, thì dường như có ai đó đang xách đèn lồng đi dạo trong rừng, bật cười đầy ghê rợn và đôi mắt sáng rực lóe lên trong đêm tối. Và trong tính cách của con người, lúc được chứng kiến những hiện tượng như thế, cũng là lúc khả năng lĩnh hội của anh ta định hình và vật chất hóa chúng. Bất kể một con người có thể sống lâu hay sống ngay thẳng như thế nào, bất thình lình anh ta sẽ bắt đầu lảm nhảm, hay la lớn bằng giọng không phải của mình, hay đi lang thang suốt đêm trong một cơn mộng du, hay vô tình đánh đập và tấn công bạn hữu của mình. Và ngay vào cái khoảnh khắc khi những điều đó xảy ra, một con gà mái sẽ gáy như một con gà trống, và một con quạ sẽ kêu lên từ trên một cây cột nhà. Vì vậy loài người yếu ớt, run rẩy nhìn trộm cuộc sống, đã tìm kiếm trong trí tưởng tượng của chính mình, bản chất của chính mình, cái chìa khóa giải mã những bí ẩn bao quanh họ, và có thể sự bất động, tính trì trệ, sự thiếu vắng tất cả những đam mê, sự rắc rối, hay hiểm nguy mang tính tích cực mà một đời sống ẩn dật áp đặt lên con người đã đưa đường dẫn lối cho anh ta sáng tạo ra, giữa thế giới tự nhiên này, một thế giới phi thực tế khác, ở đó anh ta tìm thấy sự thoải mái và thanh thản cho cái trí tuệ lười nhác của mình, lời giải thích cho những chuỗi sự kiện thông thường hơn, và những giải pháp xa lạ cho các hiện tượng khác thường.
Trên thực tế, những bậc tổ tiên đáng thương của chúng ta đã sống bằng bản năng. Không hoàn toàn buông lỏng cũng không hoàn toàn kìm hãm ý chí, họ vừa ngạc nhiên một cách thơ ngây vừa hoảng sợ trước những điều xấu xa và vận rủi xảy đến với mình, và đành gán nguyên nhân của những sự việc đó cho các ký hiệu mờ ảo, câm lặng của tự nhiên. Theo quan niệm của họ, thần chết có thể đến mang một cái xác ra khỏi một ngôi nhà với đầu ra trước thay vì chân ra trước, và có hỏa hoạn xảy ra là vì một con chó đã hú lên, suốt ba đêm liên tiếp, bên dưới một khung cửa sổ. Từ đó, họ luôn đau đớn nếu đưa một người chết đi với chân ra đầu tiên - dẫu cho vẫn ăn một lượng thức ăn giống như trước, và vẫn ngủ trên mặt đất trần trụi; trong khi đó, về con chó hú lên, bao giờ họ cũng đánh đuổi nó đi - dẫu cho vẫn tiếp tục rải rắc những tia lửa lên sàn nhà đầy chất liệu dễ cháy.
Ngày nay, dẫu cho bị bao quanh bởi một thế giới thực tế lạnh lùng và hiện hữu, người Nga vẫn thích tin những câu chuyện cổ xưa hấp dẫn. Và còn lâu anh ta mới rời bỏ được cái niềm tin ấy. Cũng như vậy, khi Oblomov bé bỏng lắng nghe bà vú nuôi kể những huyền thoại về bộ lông cừu vàng, con chim đà điểu khổng lồ, những xà lim và vọng lâu bí mật trong lâu đài mê hoặc, cậu càng lúc càng bị kích thích bởi cái ý nghĩ rằng cả cậu nữa cũng được số phận định đoạt để trở thành vị anh hùng với những hành động can đảm. Câu chuyện này tiếp nối câu chuyện khác, bà vú nuôi đã kể những câu chuyện của mình một cách sôi nổi, sinh động và cuốn hút đến mức thỉnh thoảng chính bà cũng phải nghẹn ngào. Bởi vì cả bà nữa cũng nửa phần tin tưởng vào những huyền thoại mà mình kể; đến nỗi, trong lúc kể chúng, đôi mắt bà sáng rực lên như phóng ra tia lửa, đầu bà lúc lắc vì khích động, và giọng nói của bà đạt đến một âm độ bất thường, trong khi cậu bé, bị chế ngự bởi nỗi hãi hùng bí ẩn, sẽ nép mình càng lúc càng sát hơn vào bà, và trong mắt cậu ngân ngấn những giọt lệ.
Dù cho câu chuyện kể về những người chết nửa đêm trỗi dậy từ những nấm mồ, hay về những nạn nhân hao mòn kiệt quệ vì làm nô lệ cho một con quái vật, hay về một con gấu có một cái chân gỗ đi lang thang trong những ngôi làng và nông trại để tìm kiếm cái chân thật bị chặt mất của mình, bao giờ tóc cậu bé cũng dựng ngược lên vì sợ hãi, trí tưởng tượng thơ trẻ của cậu hết sục sôi lại tê cóng, và cậu được trải nghiệm sự xáo động, cái cảm giác ngọt ngào đầy bất an khi những sợi dây thần kinh bị chơi đùa như những dây đàn của một nhạc cụ. Khi bà vú của cậu nhắc lại lời của con gấu: “Cọt kẹt, cọt kẹt, chân gỗ! Ta đã đến tất cả các ngôi làng và nông trại, ta đã trông thấy tất cả các phụ nữ đang ngủ ngoại trừ một người, người giờ đây đang ngồi trên lưng ta, đang thiêu đốt da thịt ta và đang dệt bộ lông của ta thành vải”, rồi khi con gấu vào đúng căn lều, sẵn sàng vồ ngay lấy kẻ cưỡng đoạt đích thực cái chân tự nhiên của nó - thì ôi thôi, cậu bé không thể chịu đựng thêm được nữa, run lẩy bẩy và khóc thút thít, cậu lao vào vòng tay bà vú nuôi của mình cùng với những giọt nước mắt hãi hùng - tuy vậy cũng có cả tiếng cười sung sướng nữa khi nghĩ rằng mình không bị móng vuốt của con gấu kia vồ lấy, mà là đang ngồi trên một cái trường kỷ cạnh lò sưởi bên người bảo hộ già của mình.
Tâm trí cậu tràn ngập những bóng ma kỳ quái, và sợ hãi cùng đau khổ đã thấm sâu (có thể là mãi mãi) vào trong tâm hồn cậu. Cậu đau buồn nhìn chằm chằm ra xung quanh mình, thấy rằng cuộc đời chỉ toàn là xấu xa và vận rủi. Vừa làm thế cậu vừa nghĩ đến cái vùng đất kỳ diệu kia, nơi sự bạo tàn, tiếng ồn và đau khổ đều không tồn tại, và là nơi sinh sống của nàng Militrissa Kirbitievna, là nơi cư dân được cho ăn và cho mặc mà chẳng bị đòi hỏi gì cả...
Cái huyền thoại này không chỉ đi theo suốt cuộc đời những đứa trẻ nhà Oblomov mà cả những người lớn nhà Oblomov nữa. Tất cả mọi người trong ngôi nhà đó cũng như trong làng - từ ông chủ cùng bà vợ của ông ta cho đến gã thợ rèn Tarass - đều hơi hồi hộp, căng thẳng một chút khi màn đêm buông xuống, họ thấy rằng vào thời điểm đó, từng cái cây đều biến thành một gã khổng lồ, và từng bụi rậm đều biến thành hang ổ của những tên kẻ cướp. Tiếng lạch xạch của một cái cửa chớp, tiếng gió rít trong ống khói, khiến cho những con người này tái mặt. Vào ngày Chúa Hiển linh, không một người đàn ông hay một người đàn bà nào trong bọn họ ra khỏi cửa sau mười giờ đêm; và trong mùa Phục sinh, không bao giờ có ai dám ra chuồng ngựa vào ban đêm, vì sợ sẽ chạm trán domovoi1, chạm trán con ma ngựa ở đó.
1. Trong thần thoại Slav, domovoi là một loại thần giữ nhà, trú ngụ trong bếp hay nhà kho, một dạng "ma xó".
Ở trang viên Oblomovka, người ta tin tất cả mọi chuyện - thậm chí tin cả những chuyện ma quỷ và ma sói. Nếu như bạn nói với một người sống ở đó rằng có một đống cỏ khô đang đi dạo trên những cánh đồng, hẳn anh ta sẽ tin ngay. Nếu như bạn lan truyền một tin đồn (nói) rằng một con cừu nào đó chẳng phải là một con cừu chút nào, mà là một thứ gì đó khác, hay Martha hay Stepanida đã bị biến thành một mụ phù thủy, từ lúc đó cả nhà sẽ sợ hãi cả con cừu lẫn cô hầu gái kia. Trong óc họ không bao giờ nảy ra cái ý nghĩ cần phải hỏi vì sao con cừu lại không còn là một con cừu nữa, hay tại sao Martha hay Stepanida lại bị biến thành một mụ phù thủy. Đúng hơn những con người nhẹ dạ này sẽ tin vào bất kỳ điều hoài nghi nào - niềm tin vào những hiện tượng siêu nhiên của trang viên Oblomovka là rất mạnh mẽ.
Sau này, cậu bé Oblomov bé bỏng biết rằng thế giới được sắp xếp theo một trật tự đơn giản, và rằng những người đã chết không bao giờ trỗi dậy từ những nấm mồ, và rằng ngay khi những gã khổng lồ vừa mới xuất hiện, họ liền bị tống ngay vào các rạp xiếc, cũng như những tên kẻ cướp sẽ bị ném ngay vào nhà tù. Nhưng dẫu cho niềm tin vào những điều kỳ lạ như thế đã không còn nữa, ở bên dưới vẫn đọng lại một lớp cặn của nỗi sợ hãi và buồn rầu không thể nào giải thích nổi. Chẳng còn gì nữa để tìm hiểu về những con quái vật mà cậu đã biết rất rõ; nhưng bao giờ cậu cũng có cảm giác tôn kính đối với một thứ gì đó dường như đang chờ đợi cậu tại mỗi bước chân; và nếu như bị bỏ lại một mình trong một căn phòng tối, hay nếu bắt buộc phải nhìn thấy một cái xác chết, cậu sẽ run rẩy với ý thức về một điềm báo nặng nề mà tuổi ấu thơ đã tiêm nhiễm sâu vào trong con người cậu. Cậu có khuynh hướng buổi sáng thì cười nhạo những nỗi sợ hãi của mình, nhưng đến đêm thì mặt mày lại tái mét.
Trong giấc mơ tiếp theo, Oblomov thấy mình là một cậu bé mười ba hoặc mười bốn tuổi. Lúc này cậu đang đến trường học tại làng Verklevo, cách trang viên Oblomovka năm véc-xta, nơi một ông già người Đức tên là Schtoltz đã mở một ngôi trường nhỏ dành cho con trai các nhà quý tộc ở trong vùng. Bản thân Schtoltz cũng có một đứa con trai tên là Andrei, trạc tuổi Oblomov. Bên cạnh đó, ông ta còn nhận thêm một cậu bé chỉ phải làm rất ít bài tập, bởi vì cậu bé bị bệnh tràng nhạc và đã quen với việc hầu như lúc nào mắt và tai cũng bị băng bó, âm thầm khóc vì không được sống cùng bà mình, mà phải sống trong một căn nhà xa lạ giữa những kẻ lòng dạ sắt đá không bao giờ âu yếm cậu hay làm cho cậu những cái bánh mà cậu ưa thích. Tất cả học sinh chỉ có ba cậu bé này. Về ông thầy giáo, ông ta đã giỏi lại còn nghiêm khắc như phần lớn những người Đức; thế nên Oblomov hẳn đã nhận được một nền giáo dục tốt nếu như trang viên Oblomovka nằm cách Verklevo năm trăm véc-xta. Có thể nói không khí, lối sống và những tập quán của trang viên Oblomovka đã lan đến cả Verklevo, nơi này là bản sao của nơi kia, chỉ có điều cơ ngơi của ông già Schtoltz không nằm giữa đám sương mù nguyên thủy của biếng nhác, của giản đơn về đạo đức, của tính trì trệ và của sự không vận động mà trang viên Oblomovka là tiêu biểu. Với những cảnh tượng, những sự việc và những tiêu chuẩn đạo đức của cái lối sống đó, tâm trí và trái tim cậu bé Oblomov đã trở nên bão hòa thậm chí trước cả khi cậu trông thấy cuốn sách đầu tiên. Ai biết sự phát triển của mầm mống trí tuệ trong một bộ óc non trẻ bắt đầu sớm như thế nào? Trong ý thức non trẻ đó, chúng ta có thể theo được sự phát triển của những cảm tưởng và những ý nghĩ đầu tiên hay không? Có lẽ trước cả khi một đứa trẻ biết nói, hay biết đi, hay biết làm việc gì đó, chứ không chỉ nhìn mọi sự bằng ánh mắt chăm chú câm lặng và bất động mà những người lớn hơn nó gọi là “đần,” thì nó đã nhận thức được và đã xem xét ý nghĩa cùng mối quan hệ qua lại của hiện tượng đang diễn ra trước mắt mình - dẫu đứa trẻ đó vẫn còn bất lực, chưa thể diễn đạt sự việc, cả với chính nó lẫn với những người khác.
Thế nên trong một khoảng thời gian dài trước đó cậu bé Oblomov có thể đã hiểu và nhận xét về những việc được nói và được làm trước sự hiện diện của mình; trong một khoảng thời gian dài trước đó cậu có thể đã hiểu vì sao cha mình, trong cái quần ống túm bằng vải lông và cái áo choàng có lớp lót màu quế, lại chắp tay sau lưng đi tới đi lui, hít thuốc lá và hắt hơi, trong khi mẹ cậu hết cà phê lại trà, hết bữa trà lại bữa chiều, ngày nào cũng thế, và cha cậu không bao giờ chịu tin có bao nhiêu bó lúa đã được cắt và gặt, mà luôn luôn để mắt trông chừng những sự chểnh mảng phận sự, và với cái mùi soa trong tay, hò hét diễn thuyết về chủ đề những sai phạm và làm rối tung cả ngôi nhà lên.
Tóm lại, trong một khoảng thời gian dài trước đó có lẽ cậu bé đã tin chắc trong tâm trí rằng cái trật tự cuộc sống này, chứ không phải trật tự nào khác, là đúng đắn. Bởi vì làm sao cậu có thể tin khác đi được kia chứ? “Những người lớn” ở trang viên Oblomovka đã sống bằng thái độ như thế nào? Chỉ có Chúa mới biết liệu có bao giờ họ tự hỏi mình sống để làm gì hay không. Và nếu có hỏi thì họ có tự trả lời cho mình hay không? Không, không có một câu trả lời nào cả, bởi vì tất cả đối với họ dường như vừa đơn giản lại vừa rõ ràng.
Thế thì họ chưa bao giờ nghe nói đến một cuộc đời khổ cực, trong đó người ta sống với trái tim thấp thỏm, đi lang thang trên bề mặt trái đất, suốt đời làm lụng đầu tắt mặt tối hay sao? Không, những con người tốt đẹp ở trang viên Oblomovka không tin có chuyện tâm trí rối bời; họ không bao giờ lựa chọn cái vòng tuần hoàn của những tham vọng mạnh mẽ ở một nơi nào đó, và hướng đến một cái kết cục không rõ ràng, làm lối sống hình mẫu cho mình. Trên thực tế, họ sợ sự điên cuồng của đam mê như sợ lửa; và khi mà ở những nơi khác, thân xác đàn ông và đàn bà bốc cháy rừng rực ngọn lửa nội tâm và tâm hồn dữ dội như núi lửa, thì tâm hồn những cư dân ở trang viên Oblomovka đắm mình trong một trạng thái trì trệ tĩnh lặng, nó chiếm hữu cái cơ thể yêu thích sự thanh nhàn, thoải mái của họ đến tận lõi.
Do đó, cuộc sống không đóng dấu những nếp nhăn già trước tuổi lên họ, như nó vẫn làm với những người khác; nó cũng không giáng cho họ những cú đánh hủy diệt đạo đức hay những rủi ro nào. Đúng hơn, những con người vui vẻ này thấy cuộc đời là một cảnh điền viên yên bình và trì trệ - dẫu cho cảnh điền viên đó thỉnh thoảng vẫn bị quấy rối bởi những thứ phiền toái như bệnh cảm cúm, mất cắp vặt, cãi vã và những lần hiếm hoi phải lao động cực nhọc. Sự lao động đó họ chịu đựng như là một sự trừng phạt mà trước đấy tổ tiên họ cũng đã phải chịu đựng; nhưng họ không bao giờ yêu nó, và luôn luôn tìm cách lẩn tránh nó bất cứ lúc nào có thể. Sự lẩn tránh như vậy họ cho là được phép, bởi vì họ không bao giờ bận lòng với những câu hỏi mơ hồ về đạo đức hay trí tuệ. Họ cứ phát triển, lớn lên, lúc nào cũng khỏe mạnh và vui vẻ theo cách ấy: vì lý do đó mà phần lớn bọn họ vui sống cho đến răng long đầu bạc. Đàn ông bốn mươi trông vẫn như chàng trai trẻ, và những ông già, thay vì vật lộn, chiến đấu với cái kết cục khó khăn và đau đớn đang đến gần, đã sống đến giới hạn cao nhất có thể, rồi chết có thể nói là một cách bất thình lình, thân xác chỉ khẽ khàng rung động, trút hơi thở cuối cùng nhẹ bỗng đến mức không thể nhận thấy. Không ngạc nhiên khi vào những ngày này, người ta nói rằng con người thường khỏe mạnh và tráng kiện hơn.
Đúng, họ đã tráng kiện hơn, vì lý do là vào những ngày đó các bậc phụ huynh không vội vàng giải thích cho một cậu bé hiểu về ý nghĩa cuộc sống, và không chuẩn bị cho nó vào đời một cách vừa khó khăn lại vừa trang nghiêm. Không, họ không làm cho một đứa trẻ mệt mỏi với những cuốn sách che phủ đầu óc nó bằng những câu hỏi có xu hướng làm tan nát trái tim và trí tuệ và làm tổn thọ. Đúng hơn, tiêu chuẩn cuộc sống đã được trang bị và dạy cho đứa trẻ bởi những bậc phụ huynh đã tiếp nhận nó từ cha mẹ họ, cùng với lời huấn thị được ghi lại trong di chúc, rằng phải bảo vệ sự toàn vẹn, tính không thể xâm phạm của cái tiêu chuẩn đó như bảo vệ ngọn lửa Vesta1. Oblomov đã điều hành điền trang của mình cũng như cha và ông của chàng đã từng điều hành. Chàng cần gì phải nghĩ ngợi? Chàng cần gì phải băn khoăn đầu óc? Chàng cần gì phải học tập? Chàng cần gì phải giành được một thành tựu nào đó? Nhà Oblomov chẳng cần gì cả - cuộc đời họ trôi đi như thể một dòng sông hiền hòa, và tất cả những gì họ phải làm là ngồi trên bờ dòng sông đó, quan sát những hiện tượng không thể tránh khỏi, lần lượt và không mong đợi, hiện ra trước mắt từng người quan sát một.
1. Trong tín ngưỡng La Mã, Vesta là nữ thần của ngọn lửa nơi bếp lò và ngọn lửa nơi thờ cúng.
Rồi trong giấc mơ của Oblomov lại hiện lên một loạt những bức tranh sống động về ba hoạt động chủ yếu trong đời sống Oblomovka, diễn ra với sự hiện diện của gia đình, bà con và bạn bè của cậu - ba sự kiện đó cụ thể là sinh nở, hôn nhân và cái chết. Sau đó là một chuỗi liên tiếp nhiều biến cố nhỏ nhặt khác nhau của cuộc sống, cả trang nghiêm lẫn vui tươi - về lễ rửa tội, lễ sinh nhật, lễ hội gia đình, lễ Ba ngày Trước khi Bắt đầu Mùa chay, lễ Phục sinh, yến tiệc vui vẻ, họp mặt gia đình, đón tiếp, từ biệt, và những dịp chúc tụng hay chia buồn theo truyền thống. Những điều đó diễu qua trước mắt Oblomov với tính đúng đắn trang nghiêm, và cậu cũng trông thấy thái độ trên những khuôn mặt quen thuộc tại các nghi lễ này, tùy theo họ bị tác động bởi tính phù phiếm hay bởi quan tâm lo lắng. Dù cho đó là lễ hội gì - một lễ đính hôn, một đám cưới trang trọng hay một buổi lễ rửa tội - mọi quy tắc xã hội khả dĩ đều phải được tham khảo, và không được có bất kỳ sai sót nào về việc từng người sẽ phải ngồi vào đâu, những món quà có giá trị như thế nào sẽ được tặng, ai sẽ đi với ai ở buổi lễ, và trong khi cử hành nó, những dấu hiệu nào cần phải được đưa ra nhất.
Thế thì bạn có nghĩ rằng những buổi lễ trang trọng như vậy không thể cho ra những đứa trẻ xinh đẹp, đáng yêu? Để nhận được câu trả lời, bạn chỉ cần nhìn những vị thần Cupid1 bé bỏng hồng hào, bụ bẫm được mẹ bế hay dắt trong tay. Tất cả những bà mẹ đều khăng khăng rằng con họ là béo tốt, trắng trẻo và khỏe mạnh nhất. Một tập tục địa phương khác là làm một cái bánh chiền chiện ngay khi mùa xuân vừa đến. Không có nó mùa xuân sẽ chẳng là mùa xuân chút nào. Bởi vì những buổi lễ như thế này làm thành toàn bộ đời sống, toàn bộ kiến thức khoa học của cư dân, mà tất cả niềm vui nỗi buồn đều giới hạn trong trang viên Oblomovka, mà trái tim rộn ràng háo hức chờ mong những hội hè, yến tiệc và lễ kỷ niệm địa phương. Tuy vậy, ngay sau khi vừa mới rửa tội, tổ chức đám cưới hay chôn cất một người xong, họ liền quên cả người đó lẫn số phận của anh ta (hay cô ta) ngay, và lại chìm lắng vào tính lãnh đạm thờ ơ thường lệ của mình cho đến khi bị đánh thức dậy bởi một sự kiện mới - một lễ rửa tội, một đám cưới hay đại loại thế. Ngay sau khi một đứa trẻ chào đời, mối quan tâm đầu tiên của cha mẹ nó là tổ chức cho đứa bé tất cả mọi nghi lễ mà tập tục đòi hỏi, và rồi tiếp theo sau lễ rửa tội là một bữa tiệc. Sau đó việc nuôi dạy đứa trẻ sẽ được bắt đầu theo một hệ thống được đề ra bởi người mẹ và người vú nuôi vì sự phát triển khỏe mạnh của nó, bảo vệ nó khỏi cái lạnh, khỏi con mắt xấu xa và khỏi những ảnh hưởng tai hại lặt vặt khác.
1. Thần Ái tình trong dáng vẻ một chú bé.
Quả thực, người ta không ngại bất kỳ đau đớn nào miễn là đứa trẻ được ăn ngon miệng và vui khỏe. Và ngay khi nó vừa đủ lớn để có thể tự bảo vệ mình, khi mà một bà vú nuôi không còn cần thiết nữa, mẹ nó liền bị chế ngự bởi nỗi lo lắng mang về cho nó một người bạn đời cũng khỏe mạnh và hồng hào như nó; thế là lại bắt đầu một giai đoạn mới của hội hè và lễ lạt, cho đến khi một cuộc hôn nhân cuối cùng cũng được thu xếp xong. Bao giờ cái kết thúc có hậu này cũng tỏ ra là một bản tóm tắt những sự kiện trong đời, và ngay sau khi việc đó đã diễn ra rồi lại bắt đầu cái vòng sinh nở, lễ hội và yến tiệc cho đến khi cuối cùng, một đám tang sẽ làm gián đoạn hội hè - dẫu cho không được bao lâu, bởi vì những khuôn mặt trẻ sẽ thay thế cho những khuôn mặt già, và những đứa trẻ sẽ trở thành những chàng trai và những thiếu nữ, hứa hẹn thủy chung với nhau, rồi cưới nhau và lại tiếp tục sản sinh ra những đứa con giống như mình. Cuộc sống cứ thế trôi đi trong một vòng tròn liên tục, không thay đổi, chỉ khựng lại một cách không thể lường trước khi người ta đến nằm dưới một nấm mồ.
Cũng có những khoảng thời gian hiếm hoi khi mà các mối bận tâm khác đến chiếm lĩnh tâm trí những con người tốt đẹp ở trang viên Oblomovka, nhưng bao giờ họ cũng đối mặt với hoàn cảnh bằng sự thụ động và cam chịu, rồi những mối bận tâm đã nói ở trên, sau khi đi một vòng quanh đầu họ, sẽ cất cánh bay đi như những con chim, sau khi tìm cách đậu lên một bức tường trơn nhẵn dốc đứng, thấy rằng chúng đang vật lộn một cách vô ích với một tảng đá bướng bỉnh, nên đã tung cánh bay đi. Chẳng hạn như có lần một phần cái hành lang bao quanh ngôi nhà bị đổ sập xuống và đè lên một cái lồng đầy gà mái, suýt chút nữa còn đè lên một cô hầu lúc bấy giờ tình cờ đang ngồi bên cạnh chồng ở gần đó. Lập tức cả nhà náo động hết cả lên. Tất cả mọi người đều chạy đến chỗ đó, lo sợ rằng không chỉ cái chuồng gà, mà cả ông bà chủ lẫn cậu Ilya bé bỏng, đều đang nằm dưới cái đống điêu tàn kia. Tất cả mọi người đều giơ hai bàn tay mình lên vì khiếp hãi, và bắt đầu trách mắng tất cả những người khác vì đã không đề phòng trước một thảm kịch như vậy. Tất cả mọi người đều bộc lộ nỗi kinh ngạc vì cái hành lang đó lại đổ sập, và cũng ngạc nhiên không kém rằng vì sao nó lại không đổ sập từ lâu rồi. Về chuyện này, tiếp theo sau đó đã nổ ra một trận la hét và tranh cãi về việc mọi chuyện có thể xếp đặt như thế nào cho tốt nhất; sau đó, với những tiếng thở dài tiếc rẻ mấy con gà, đám đông chậm chạp giải tán, vừa nghiêm khắc cấm chú bé Ilya bé bỏng tuyệt đối không được lại gần những chỗ nguy hiểm.
Ba tuần sau đó, Andrushka, Petrushka và Vassika được ra lệnh bổ những tấm ván và phần còn lại của cái lan can có chấn song ra thành từng mảnh nhỏ, và rồi chuyển chúng sang những căn nhà phụ, vì sợ nó sẽ chắn ngang lối đi và gây trở ngại; và những mảnh gỗ vụn ấy đã bị ném tứ tung khắp nơi trong những căn nhà phụ cho đến tận mùa xuân tiếp theo. Mỗi lần nhìn thấy chúng từ khuôn cửa sổ là Oblomov cha lại nghĩ ngợi, không biết phải làm thế nào với chúng cho hay nhất. Sau khi cho gọi người thợ mộc đến, ông ta đã hỏi ý kiến anh này rằng liệu đóng một cái hành lang mới hay là kéo sụp luôn phần còn lại sẽ hay hơn; cho đến khi cuối cùng ông ta cho người thợ mộc này ra về với những lời như sau: “Anh chờ cho đến khi tôi cân nhắc về việc này thêm chút đỉnh nữa đã nhé.” Sự việc bị gác lại ở đó cho đến một hôm, cả Vassika lẫn Motika đều báo cáo với ông chủ rằng sáng hôm đó, trong khi anh ta (Vassika hoặc Motika) đang leo lên phần còn lại của cái hành lang cũ, những góc của nó rời ra khỏi tường và thêm một đoạn hành lang nữa đổ sụp xuống; thế là người thợ mộc lại được gọi đến để bàn bạc một lần cuối cùng. Kết quả là những mảnh gỗ cũ được sử dụng để chống phần hành lang còn lại. Và thế là đến cuối tháng việc này hoàn thành.
“Được đấy, cái hành lang trông cứ như mới ấy.” Ông già nói với vợ. “Xem Thedot dựng lại những cái rầm kia mới tuyệt làm sao! Chúng giống như những cây cột mà quan Tỉnh trưởng vừa mới dựng cho ngôi nhà của ông ấy vậy. Công việc đã được làm rất tốt, và sẽ sử dụng được trong một thời gian dài.”
Đến đây có ai đó nhắc ông ta rằng nhân tiện nên dựng lại luôn những cánh cổng và sửa lại cái sân hiên, bởi vì mấy cái lỗ trên những bậc tam cấp của cái sân hiên này thì không những mèo mà đến lợn cũng chui lọt.
“Đúng, đúng, nên làm như thế.” Ông chủ nói một cách trầm ngâm. Rồi ông ta đi ra để xem cái sân hiên. “Đúng, rõ ràng nó gãy mất rồi.” Ông ta nói tiếp lúc đung đưa một trong những tấm ván như đung đưa một cái nôi.
“Chúng đã lỏng ngay từ khi cái sân hiên này vừa mới được làm xong.” Một người nào đó nhận xét.
“Sao lại thế?” Ông chủ hỏi. “Chúng lỏng là vì đã mười sáu năm rồi không được sửa sang lại. Lúc bấy giờ Luka đã làm nó. Hắn đã là một thợ mộc, nếu như nhà ngươi thích thế! Bây giờ hắn chết rồi, cầu Chúa cho linh hồn hắn được an nghỉ! Thợ thầy bây giờ không còn khéo léo như trước nữa rồi - chúng chỉ phá hoại mà thôi.”
Sau đó, ông già Oblomov chú ý sang chuyện khác; và cho đến ngày nay - theo như được báo cáo - cái sân hiên đã ọp ẹp lắm rồi, dẫu cho vẫn chưa thực sự gãy tan thành từng mảnh. Luka chắc chắn phải là một người thợ giỏi!
Tuy vậy, để công bằng với ông chủ và bà chủ, phải nói rằng họ có thể bị đánh thức dậy khỏi tính thờ ơ lãnh đạm của mình chứ không phải là không, thậm chí đến mức độ trở nên tức giận và nổi nóng, nếu như có một việc thất bại hay rủi ro nào xảy đến. Họ sẽ hỏi, làm sao mà một việc như thế lại bị bỏ mặc hay lơ là được nhỉ? Ngay lập tức những biện pháp thích hợp phải được tiến hành ngay. Nó có thể liên quan đến việc cái cầu đi bộ bắc qua con hào cần phải được vá lại, hay cái hàng rào bao quanh khu vườn cần phải được sửa chữa ở chỗ những tấm ván bị sập xuống để cho gia súc vào phá phách. Quả thực, ông chủ quá quan tâm lo lắng về tài sản của mình đến mức có lần, trong khi đi dạo trong vườn, ông ta, bằng chính hai bàn tay mình, và với rất nhiều những tiếng cằn nhằn và phàn nàn, đã nhấc một đoạn dài hàng rào lên, và ra lệnh cho người làm vườn phải sửa lại một số cây cọc chống; và đối với ông chủ, nhờ có việc này mà cái hàng rào nói trên đã được thẳng thớm trong suốt phần còn lại của mùa hè - cho đến khi một cơn bão tuyết mùa đông lại làm nó đổ ụp. Cũng như thế khi Antip, cùng với con ngựa và cỗ xe chở nước của anh ta bị sụp cầu rơi tõm xuống hào, ba tấm ván mới đã được lắp vào. Quả thực, những vết bầm tím của Antip đã không lặn đi trước khi cái cầu trông như mới. Và thậm chí cả khi cái hàng rào của khu vườn sập lần thứ hai thì những con bò cái và những con dê vẫn chẳng được hưởng quá nhiều lợi lộc. Đúng là chúng cố gắng đến ăn mấy bụi lý chua, và vặt lá mấy cây đoạn nữa; nhưng trước khi chúng có thể bắt đầu những trò như thế với mấy cây táo thì một mệnh lệnh đã được ban ra để yêu cầu cái hàng rào phải được đào và cắm lại một cách vững chắc. Nhưng việc đó chỉ được làm sau khi hai chị bò cái và một chú dê bị bắt quả tang. Giá mà bạn được trông thấy những cái bụng căng phồng thức ăn của chúng nhỉ!
Oblomov lại mơ thấy mình đang ở trong căn phòng khách lớn, tối tăm của ngôi nhà. Đêm đông dài đã đến hồi kết và mẹ cậu, ngồi trên chiếc ghế xô pha, đang chăm chú và im lặng đan một chiếc tất dài cho con trai, thỉnh thoảng bà lại ngáp và gãi đầu bằng một cây kim đan. Bên cạnh bà có hai cô hầu gái - cúi đầu làm việc cũng chăm chỉ như bà để tạo ra một bộ quần áo đi nghỉ cho cậu bé Ilya, hay cho cha cậu, hay cho chính mình. Trong khi đó ông chủ, hai bàn tay chắp sau lưng, đang đi đi lại lại một cách vui vẻ, hoặc ngồi trên một cái ghế, nghỉ một lát trước khi lại đứng lên đi tới đi lui. Thỉnh thoảng ông ta cũng hít một nhúm thuốc lá, hắt hơi, rồi lại thêm một nhúm nữa. Về ánh sáng, chỉ có một cây nến bằng mỡ động vật, nhưng thậm chí chỉ một cây nến này thôi cũng đã là một sự xa xỉ và chỉ được phép thắp vào những đêm mùa thu và mùa đông; vì vào mùa hè, mọi người sẽ đứng dậy đi ngủ khi trời còn chưa tối, do đó mà có thể tiết kiệm được nến một cách hoàn toàn. Người ta làm như thế một phần là do phong tục, một phần là để tiết kiệm.
Những con người tốt bụng ở trang viên Oblomovka cực kỳ bủn xỉn đối với tất cả những thứ ở nhà không làm được mà phải đi mua; thế nên, dù rất sẵn lòng làm thịt một con gà chọi tuyệt đẹp hay một tá gà mái tơ để chiêu đãi một vị khách, không một hạt nho khô nào sẽ được cho vào một món tráng miệng, và mọi khuôn mặt đều sẽ trắng bệch ra nếu như vị khách nói trên rót thêm cho mình một ly rượu vang đầy thứ hai. Tuy vậy rất hiếm khi những việc bất trắc như thế xảy ra: Chỉ có những kẻ vô lại kiết xác mới làm những việc như thế - mà những hạng khách đó lại không bao giờ được phép bước chân vào trang viên Oblomovka. Tập quán địa phương đòi hỏi rằng một món ăn hay một chai rượu vang nào đó, dù được đưa ra mời hai hay ba lần, thì người khách cũng không nên đón nhận, bởi vì người ta cho rằng anh ta phải ngầm hiểu ngay từ lần mời đầu tiên điều thầm kín mà người ta muốn truyền đạt, đó là anh ta sẽ tử tế mà ngừng lại cái việc ăn món ăn đó hay là uống chai rượu vang kia sau khi đã nếm chúng rồi. Sẽ không có chuyện thắp hai cây nến cho mỗi vị khách, bởi vì nến phải mua tận trong thị trấn, vì thế, cũng giống như tất cả những món phải mua khác, được bà chủ nhà giữ gìn cẩn thận bằng ổ khóa và chìa khóa, và người ta sẽ đếm đến từng mẩu nến trước khi đem cất chúng đi.
Nói tóm lại, trang viên Oblomovka rất ghét phải dốc hầu bao; tới mức mà, dù cho một món nào đó có thể cần thiết đến thế nào, thì tiền cũng chỉ được chi một cách miễn cưỡng mà thôi, bất kể đó có là một món vặt vãnh đi chăng nữa. Về những món tiền đáng kể, sẽ có những tiếng cằn nhằn, than thở và gắt gỏng, bởi vì những người ở trang viên Oblomovka thà chịu rủi ro còn hơn phải chia tay với đồng xu của mình. Vì lý đó mà cái xô pha trong phòng khách từ lâu đã tả tơi, và da bọc cái ghế bành của ông chủ cũng chỉ bọc cho có thế thôi, bởi vì phần lớn dây thừng và dây bện của nó giờ đây đã trơ ra, chỉ còn lại một dải che phủ nguyên gốc dính ở đằng sau lưng ghế - phần còn lại đã rách ra từng mảng và rơi xuống suốt năm năm rồi. Cũng vì lý do đó mà những cánh cổng đã võng xuống, cái sân hiên đã lung lay. Tuy vậy, phải chi ra một món tiền từ hai trăm đến năm trăm rúp vì một mục đích nhất định nào đó, dù cho cái mục đích đó có cần thiết thế nào, thì đối với những cư dân ở cái cơ ngơi này gần như là một sự tự sát. Trên thực tế, khi nghe thấy nói ở trong vùng có một ông địa chủ trẻ đi Moscow và ở đó ông ta đã bỏ ra những ba trăm rúp để mua một tá sơ mi, hai mươi lăm rúp để mua một đôi giày ống, và bốn mươi rúp để mua một cái gi lê (đó là nhân dịp đám cưới của ông ta), thì ông già Oblomov đã làm dấu thánh, rồi kêu lên với vẻ kinh hãi:
“Gã trai trẻ đó phải bị tống vào tù!” Nói chung, những người ở trang viên Oblomovka không để ý đến những chân lý kinh tế-chính trị liên quan đến sự cần thiết của việc lưu thông tư bản nhanh chóng và mau lẹ, hoặc liên quan đến việc sản xuất và trao đổi hàng hóa năng động. Với tâm hồn giản đơn của mình, họ cho lý thuyết hay nhất, cũng như sự thực hành tốt nhất, đối với tư bản là tích trữ nó.
Những chủ nhân hay những bạn bè thân thiết của ngôi nhà đó sẽ ngồi ngáy trong những tư thế khác nhau, trên những cái ghế trong phòng khách. Trong phần lớn thời gian, sự im lặng sâu thẳm sẽ ngự trị giữa bọn họ, bởi vì họ trông thấy nhau hằng ngày, và cái kho báu trí tuệ đáng kính của họ từ lâu đã cạn kiệt, trong khi tin tức lại đến rất nhỏ giọt. Quả thực, giữa sự tĩnh lặng, âm thanh duy nhất có thể nghe thấy là tiếng đôi dép lê nặng nề, thường ngày của ông già Oblomov, tiếng tích tắc đều đều của cái đồng hồ trong hộp, và tiếng tách tách của sợi chỉ khi có người nào đó trong đội may vá cắn hay bứt một đoạn. Sau nửa giờ, có thể một trong những người có mặt sẽ ngáp - rồi làm dấu thánh giá, và lẩm bẩm: “Lạy Chúa, thứ lỗi cho con!” Sau đó một người nào đó sẽ làm theo, rồi đến người thứ ba, cho đến khi cái nhu cầu thông hơi cho phổi rất dễ lây đó đi một vòng khắp cả nhóm người. Tiếp theo, ông già Oblomov sẽ đến bên cạnh cửa sổ, nhìn ra ngoài rồi nói với vẻ ngạc nhiên: “Mới năm giờ, thế mà ngoài sân trời đã tối rồi!”
“Vâng.” Một người nào đó sẽ trả lời. “Bao giờ trời cũng tối vào giờ này. Những đêm dài đã bắt đầu đến.”
Ngược lại, vào mùa xuân, mọi người sẽ tỏ vẻ ngạc nhiên và hài lòng trước cái ý nghĩ rằng khoảng thời gian mà ngày kéo dài hơn đêm đang tới gần. Tuy vậy nếu như bạn hỏi khoảng thời gian đó có ý nghĩa gì đối với họ thì họ sẽ chẳng có khả năng trả lời cho bạn được đâu! Sau đó im lặng sẽ lại bao trùm, có thể là cho đến khi, một người nào đó trong lúc ngửi cây nến, tình cờ thổi tắt nó. Vì chuyện này mà mọi người sẽ giật mình, và rồi một người sẽ thốt lên:
“Một vị khách không được chờ mong đang đến nhà ta.” Trên thực tế, sự việc trên có gây nên một cuộc chuyện trò dài cũng không phải là một hiện tượng gì bất thường.
Ở trang viên Oblomovka, thời gian được tính chủ yếu bằng các lễ hội, bằng các mùa trong năm, và bằng những sự kiện khác nhau ngoài nhà và trong nhà - bất kể tháng ngày. Điều này có thể một phần là do chẳng có ai ngoài ông già Oblomov có thể phân biệt được tên các tháng và các ngày trong một tháng nhất định.
Ngay sau đó, ông chủ gia đình sẽ chìm vào một cuộc trầm tư, trong lúc cậu bé Ilya, quanh quẩn đằng sau lưng mẹ, cũng sẽ chìm vào những giấc mộng mơ, thỉnh thoảng lơ mơ ngủ thật sự. Bất thình lình ông già Oblomov sẽ dừng lại trong lúc đang bước đi, rồi vỗ vỗ bàn tay lên chóp mũi một cách bồn chồn lo lắng; tiếp theo sau đó sẽ có một cuộc đối thoại như dưới đây:
Ông chủ nhà: Có chuyện quái gì với tôi thế nhỉ? Này! chắc hẳn phải có ai đó vừa mới qua đời, bởi vì chóp mũi tôi khó chịu lắm!
Vợ ông ta: Ôi Chúa nhân từ! Tại sao phải có ai đó qua đời vì chóp mũi ông đau kia chứ? Một người nào đó qua đời chỉ khi sống mũi người ấy đau mà thôi. Ông thật là một người hay quên làm sao, chắc chắn đấy! Một điều như thế mà ông nói trước mặt những người lạ, ông sẽ làm cho chúng tôi xấu hổ vì ông đấy.
Ông chủ nhà: Nhưng toàn bộ cái mũi của tôi đang làm tôi đau đây mà?
Vợ ông ta: Đau ở bên cánh mũi nghĩa là tin tức sắp đến; đau ở lông mày, đau buồn; đau ở trán, chào mừng; phía bên phải, một người đàn ông; phía bên trái, một người phụ nữ; đau ở tai, mưa; đau ở môi, một nụ hôn; đau ở hai bên râu má, một món quà có thể ăn; đau ở khuỷu tay, một chỗ ngủ mới; và đau ở lòng bàn chân, một chuyến đi.
Vân vân, và vân vân.
Cuối cùng, khi đồng hồ điểm chín giờ sẽ có một bữa ăn nhẹ; sau đó mọi người sẽ giải tán để đi nghỉ, và giấc ngủ một lần nữa sẽ ngự trị trên những cái đầu vô lo vô nghĩ của những con người sống ở trang viên Oblomovka.
Trong giấc mơ của mình, Oblomov không chỉ thấy có một đêm được trải qua theo cách trên, mà nhiều đêm trong suốt nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều năm. Không bao giờ có chuyện gì xảy ra làm gián đoạn tính chất đều đều của cuộc sống đó, nhưng những người trong trang viên Oblomovka cũng không hề thấy mệt mỏi vì thế, bởi vì họ không thể tưởng tượng nổi có lối sống nào khác, và nếu có thì hẳn họ sẽ quay lưng lại với nó ngay lập tức vì ác cảm. Nếu như vì hoàn cảnh mà có bất cứ sự thay đổi nào trong cuộc sống đó, thì họ sẽ tiếc nuối, và sẽ lo lắng trước cái ý nghĩ rằng ngày mai không tuyệt đối giống như hôm nay nữa. Họ chẳng cần sự đa dạng, đổi thay, biến cố mà những người khác mong mỏi và khao khát. “Hãy để cho những kẻ khác uống cái tách đó.” Họ nói. “Còn những người ở Oblomovka thì không đâu. Hãy cứ để cho người khác muốn sống thế nào tùy thích.”
Họ cho biến cố - dù là dễ chịu - chỉ mang lại nào là phiền phức, nhặng xị, lo lắng và ầm ĩ mà thôi, đến mức người ta không thể ngồi yên trên ghế mà trò chuyện và dùng bữa của mình. Thế nên, hết thập kỷ này sang thập kỷ khác, những con người trong trang viên Oblomovka hết ngáp dài lại ngủ lơ mơ, bật cười hồn hậu trước những câu nói đùa chất phác, tụ tập trong các góc để thuật lại điều họ thấy trong giấc mơ đêm hôm trước. Nếu như những giấc mơ của họ không vui, mọi người lập tức trở nên trầm ngâm và lo lắng, thôi không đùa vui với nhau nữa. Mặt khác, nếu những giấc mơ của họ mang tính chất tiên tri, lập tức mọi người sẽ trở nên vui mừng hay chán nản, tùy thuộc vào viễn cảnh hứa hẹn đau buồn hay niềm vui. Cuối cùng, nếu những giấc mơ của họ đòi hỏi cân nhắc về một điềm gở nào đó, mọi người sẽ tiến hành những biện pháp mau lẹ có thể cần thiết để đối phó với tình thế.
Mọi người cũng rất thích chơi bài, chơi trò “những thằng ngốc,” vân vân và vân vân; trong khi mấy bà phụ nữ sẽ bàn luận về hàng xóm láng giềng, tọc mạch không chỉ vào đời sống gia đình và niềm vui xã hội, mà cả những kết cục và khao khát thầm kín nữa. Họ sẽ tranh luận về những chủ đề này, và rồi bình phẩm về những con người khác nhau (đặc biệt là về những ông chồng không chung thủy), thuật lại chi tiết những bữa tiệc sinh nhật, những lễ rửa tội, lễ tưởng niệm vị thánh mà mình được mang tên, cả những bữa tiệc chiều, với danh sách các vị khách được mời và không được mời. Họ cũng khoe với nhau những món đồ trong tủ quần áo, và bà chủ nhà sẽ phổng mũi khoe giá trị những tấm khăn trải giường, những bộ quần áo đan cùng những thứ đăng ten nhà làm của mình. Nhưng rồi cuối cùng, ngay cả những việc này cũng sẽ bắt đầu trở nên nhạt nhẽo; thế nên cà phê, trà và bánh ngọt sẽ được mang lên, tiếp theo sau đó là bầu không khí im lặng chỉ bị phá vỡ bởi những lời nhận xét rời rạc mà thôi.
Dĩ nhiên cũng có những dịp hiếm hoi khi mà những cách sử dụng thời gian này bị gián đoạn do các sự cố như cả nhà đều ốm vì sốt, hay một thành viên nào đó của gia đình vấp chân vào một cây cọc trong bóng tối, hay ngã khỏi vựa cỏ khô, hay va đầu vào một cái rầm long ra khỏi mái nhà. Tuy nhiên, như tôi đã nói, những việc như thế rất hiếm khi xảy ra, và một khi chúng đã xảy ra thì mọi phương thuốc người ta biết và có thể điều chế ra ở nhà đều sẽ được mang ra sử dụng. Chỗ đau sẽ được thoa thuốc mỡ, một liều nước thánh sẽ được rắc lên, một lời cầu nguyện sẽ được thì thầm - và thế là tất cả sẽ lại ổn thỏa. Mặt khác, cơn đau đầu mùa đông1 là một hiện tượng quá đỗi bình thường, trong trường hợp đó, cả nhà sẽ rút lui về giường, thế rồi những tiếng rên rẩm và càu nhàu sẽ vang lên. Người này sẽ đắp dưa chuột và nhét nam việt quất vào tai. Một người thứ ba đi quanh quẩn mà trên mình chỉ có độc cái áo sơ mi, lắc lư đi quanh phòng vào những quãng thời gian đều đặn một hay hai lần một tháng. Việc này xảy ra là vì những con người trong trang viên Oblomovka không thích để nhiệt thừa thoát ra ngoài qua ống khói, nên đã đậy lò sưởi lại khi ngọn lửa bốc lên cao. Kết quả là không có cái đi văng lò sưởi hay lò sưởi nào mà bàn tay đặt lên không gặp nguy cơ bị bỏng.
1. Do khói than củi được đốt để sưởi.
Chỉ có một lần mà sự đơn điệu trong cuộc sống ở trang viên Oblomovka bị phá vỡ bởi một tình huống hoàn toàn không thể ngờ nổi. Khi cả nhà, mệt lử vì lo bữa cơm chiều, tụ tập nhau lại để uống trà, thì một người nông dân trong vùng vừa thực hiện chuyến đi đến thị trấn bước vào. Áp mạnh bàn tay lên ngực, anh ta khó nhọc lôi ra một bức thư nhàu nát được gửi cho ông chủ nhà. Mọi người sững sờ như bị sét đánh, và ngay cả ông chủ cũng biến đổi sắc mặt. Không một con mắt nào ở đó là không chòng chọc nhìn bức thư kia. Không một cái mũi nào ở đó là không chúi về phía ấy.
“Bất ngờ làm sao!” Cuối cùng bà chủ nhà nói khi đã định thần lại. “Lá thư này có thể là của ai nhỉ?”
Ông già Oblomov nhận lấy nó, lật nó trong hai bàn tay, như thể không biết phải làm gì với lá thư trọng đại này.
“Anh nhận nó ở đâu?” Ông hỏi người nông dân. “Và ai đã đưa nó cho anh?”
“Tôi nhận nó trong cái quán trọ nơi tôi đến trọ.” Người đàn ông kia đáp. “Hai lần có người từ nhà dây thép1 đã đến hỏi có nông dân nào ở Oblomovka ở đó hay không, bởi vì có một lá thư đang chờ ông chủ nhận. Lần đầu tiên họ đến tôi đã im lặng, và người đưa thư đã mang bức thư đi; nhưng sau đó ông thầy trợ tế ở Verklevo đã trông thấy tôi, thế là họ lại đến đưa bức thư cho tôi, còn bắt tôi phải trả năm kô-pếch2 nữa. Tôi hỏi họ mình phải làm gì với nó, và họ đã bảo tôi rằng hãy đưa nó cho Tôn ông.”
1. Từ cũ, có nghĩa là bưu điện.
2. Đơn vị tiền tệ của Nga, 100 kô-pếch thì bằng 1 rúp.
“Thế ra đầu tiên anh từ chối không nhận nó đấy à?” Bà chủ gay gắt hỏi.
“Vâng, tôi đã từ chối không nhận. Chúng ta làm gì với những lá thư kia chứ? Chúng ta không cần chúng, mà tôi cũng không được ra mệnh lệnh phải đảm nhận những việc như thế. Thế nên tôi đã sợ không dám chạm vào nó. “Đừng hấp tấp với thứ này,” tôi đã tự nhủ như thế đấy. Tuy thế mà gã đưa thư đã đối xử với tôi mới tàn tệ làm sao! Hắn hẳn sẽ kiện lên đến nhà chức trách nếu như tôi bỏ bức thư lại.”
“Đồ ngốc!” Bà chủ nhà la lên.
“Nó có thể là của ai nhỉ?” Ông già Oblomov nói một cách trầm ngâm lúc nghiên cứu cái địa chỉ. “Hình như tôi biết nét chữ viết tay này.”
Sau đó lá thư được chuyền từ tay người này sang tay người kia; và bắt đầu có rất nhiều những phỏng đoán và tranh luận. Cuối cùng cả nhà bị bối rối hoàn toàn. Ông chủ nhà sai người mang mục kỉnh lại cho ông, và người ta đã phải mất một tiếng rưỡi đồng hồ để tìm kiếm đôi mục kỉnh đó; nhưng cuối cùng ông cũng đeo được nó lên mắt, và đã nghĩ đến việc mở lá thư kia.
“Chờ một lát.” Bà vợ vội vàng nói, giữ bàn tay ông lại. “Đừng bẻ dấu niêm phong. Ai biết bức thư này chứa đựng những gì? Nó có thể thông báo một điều gì đó đáng sợ, hay một rủi ro nào đó. Ngày nay còn điều gì là không thể xảy ra kia chứ? Ngày mai hay ngày mốt cũng chẳng muộn gì. Lá thư không thể tự bỏ đi được.”
Và thế là bức thư đã được mang đi cất giữ cẩn thận, và trà được chuyền tay nhau. Trên thực tế, cái tài liệu này hẳn đã nằm đó cả năm, nếu như nó không gây nên được một hiện tượng quá đỗi khác thường là kích thích trí tò mò của những con người trong trang viên Oblomovka. Cả sau bữa trà lẫn ngày hôm sau, người ta đã không nói về điều gì khác.
Cuối cùng, mọi chuyện không còn có thể chịu đựng thêm được nữa, và vào ngày thứ tư, cả nhà tụ họp lại, cái dấu niêm phong bị bẻ gãy một cách rụt rè, và ông già Oblomov đưa mắt liếc nhìn chữ ký.
“Radistchev!” Ông kêu lên. “Thế ra bức thư là của Philip Matveitch!”
“Ô! A! Của ông ấy thật sao?” Người ta nhao nhao lên từ mọi phía. “Cứ nghĩ đến việc ông ấy vẫn còn sống mà xem! Vinh quang là của Chúa! Và ông ấy nói gì vậy?”
Thế là ông già Oblomov bắt đầu đọc to bức thư lên. Hình như Philip Matveitch mong ông gửi cho ông ta công thức nấu một loại bia nào đó được ủ ở trang viên Oblomovka.
“Thế thì hãy gửi nó, gửi nó.” Đội đồng ca kêu lên. “Vâng, và cả viết thư trả lời ông ấy nữa.”
Hai tuần trôi qua.
“Chúng ta thực sự phải viết bức thư đó.” Ông già Oblomov không ngừng nhắc đi nhắc lại. “Cái công thức ấy ở đâu ấy nhỉ?”
“Nó ở đâu ư?” Vợ ông vặn lại. “Thế nào, nó vẫn phải được tìm kiếm đấy. Cứ chờ một chút đã. Vì sao chúng ta lại phải vội vàng chứ? Nếu Chúa nhân từ, chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ lại có lễ hội, và lại sẽ được ăn thịt. Lúc bấy giờ hãy viết thư. Tôi nói với ông thế này nhé, cái công thức ấy chẳng chạy đi được đâu.”
“Đúng, tôi dám nói sẽ hay hơn nếu như chúng ta viết bức thư đó sau lễ hội.”
Khá chắc chắn là sau khi cái lễ hội kia đã kết thúc người ta lại nói về bức thư nọ. Trên thực tế, đúng là ông già Oblomov đã sẵn sàng để viết nó. Ông tự nhốt mình trong phòng làm việc, đeo đôi mục kỉnh lên mắt, đến ngồi xuống bên bàn. Tất cả ngôi nhà đều thăm thẳm lặng im, bởi vì những mệnh lệnh đã được ban ra rằng không được dẫm chân lên sàn nhà, cũng không được gây ra bất kỳ tiếng ồn nào. “Ông chủ đang viết thư”, câu đó được nói bằng một giọng đầy kính sợ, như thể có người chết đang nằm ở trong nhà.
Ông già Oblomov đang viết những chữ “Quý ngài thân mến” một cách khó nhọc - chậm chạp và bay bướm, bằng một bàn tay run rẩy và cẩn thận, như thể đang thực thi một nhiệm vụ nguy hiểm - thì bà vợ đi vào gặp ông.
“Tôi đã tìm đi tìm lại.” Bà nói. “Nhưng chẳng thấy có công thức nào cả. Tuy vậy còn cái tủ quần áo trong phòng ngủ vẫn chưa bị lục lọi, thế thì ông viết lá thư đó như thế nào đây?”
“Nó phải được gửi trong chuyến thư sắp tới.” Chồng bà nói.
“Gửi nó đi thì mất bao nhiêu tiền nhỉ?”
Ông già Oblomov lôi ra một tấm lịch cũ. “Bốn mươi kô-pếch.” Ông nói.
“Cái gì? Ông sẽ ném bốn mươi kô-pếch qua cửa sổ chỉ vì một việc vớ vẩn như thế này thôi sao?” Bà kêu lên. “Sẽ hay hơn rất nhiều nếu chúng ta chờ cho đến khi có thể gửi kèm nó với những món gì đó khác lên thị trấn. Hãy nói cho nông dân biết về việc này.”
“Như thế có thể hay hơn.” Ông già Oblomov đồng ý, gõ cây viết của mình lên bàn. Sau đó ông cho cây viết vào cái giá bút, rồi tháo đôi mục kỉnh của mình ra.
“Đúng, như thế có thể hay hơn.” Ông kết luận.
Và cho đến tận ngày nay, chẳng ai biết Philip Matveitch đã phải chờ cái công thức kia trong bao lâu.
Cũng có khi ông già Oblomov cầm trong hai bàn tay mình một quyển sách. Nó là sách gì ông chả quan tâm, bởi vì ông đâu có ham muốn đọc nó thật; ông xem văn học chỉ là một sự xa xỉ rất dễ bị cuốn vào, hay bị bỏ mặc, giống như việc người ta có thể có một bức tranh treo trên tường, hay cũng có thể không - người ta có thể thỉnh thoảng ra ngoài đi dạo, hay cũng có thể không. Thế là, như tôi đã nói, ông chả bận tâm đó là sách gì, bởi ông xem những thứ như thế chỉ là sự giải trí trong lúc buồn chán và vô công rồi nghề mà thôi. Thêm nữa, đối với các tác gia, bao giờ ông cũng có thái độ khinh khỉnh mà những nhà quý phái vẫn có từ thời ancien régime1; bởi vì, cũng như nhiều người trong thời của mình, ông xem nhà văn là một kẻ hoang toàng, một kẻ lười biếng và vô trách nhiệm, một tên nát rượu, một gã pha trò hề. Ông cũng sẽ đọc to những mẩu tin tức trong các tờ báo ra đã ba năm rồi - những tin tức như, “Từ Hague người ta đã báo cáo rằng, lúc trở về Cung điện từ một chuyến đi ngắn, Nhà vua đã chòng chọc nhìn những người tụ tập đứng xem qua đôi mục kỉnh của người” hay “Ở Vienna2 một Đại sứ nào đó vừa mới đệ trình Bức thư Ủy nhiệm Quyền của ông ta.”
1. Nguyên văn tiếng Pháp, nghĩa là “chế độ cũ”.
2. Thủ đô của Áo.
Một hôm ông đọc to cái tin tức rằng có một tác phẩm của một nhà văn nước ngoài nào đó vừa mới được dịch sang tiếng Nga.
“Lý do duy nhất của việc chúng dịch những thứ như thế...” Một địa chủ nhỏ tình cờ có mặt ở đó nhận xét. “Là chúng có thể vòi vĩnh thêm tiền từ những dvoriané1 chúng ta.”
1. Địa chủ, người quý phái.
Trong khi đó, cậu bé Ilya vẫn tiếp tục đến trường học của ông Schtoltz. Vào các ngày thứ Hai, mỗi khi thức giấc cậu sẽ thấy chán nản kinh khủng nếu như nghe thấy cái giọng gay gắt của Vassika hét to ngoài sân hiên: “Antipka, đóng yên cương cho con ngựa khoang, cậu chủ sắp đến chỗ lão người Đức đấy!” Vâng, rồi trái tim Ilya sẽ run rẩy, và cậu sẽ buồn bã đến gặp mẹ, là người sẽ biết vì sao cậu lại đến, và bà bắt đầu dỗ dành cậu, trong khi thầm thở dài trước ý nghĩ sẽ phải xa con suốt cả một tuần. Quả thực, vào những buổi sáng như thế cậu hầu như không thể được cho ăn đầy đủ, người ta cũng chẳng làm đủ bánh bao nhân nho, bánh ngọt, bánh nướng và mứt kẹo để cậu mang theo (sự đầy đủ nói trên là dựa vào cái giả định rằng ở chỗ ông người Đức, học sinh còn lâu mới được cho ăn dồi dào).
“Ở đó người ta chẳng được cho ăn nhiều.” Những người ở trang viên Oblomovka nói. “Bữa chiều chẳng có gì ngoài xúp, thịt quay và cải bắp, bữa trà thì chỉ có thịt nguội và bữa tối chỉ có morgen fri2.”
2. Bánh pudding đen kiểu Đức.
Nhưng lại có những ngày thứ Hai mà cậu không nghe thấy tiếng Vassika ra lệnh thắng con ngựa khoang, còn mẹ thì gặp cậu với một nụ cười và những tin tức dễ chịu, rằng hôm đó cậu không phải đến trường, bởi vì thứ Năm tới đã là kỳ nghỉ rồi, mà chỉ ở ba ngày không đáng để cậu cất công đi rồi lại về. Thỉnh thoảng cậu sẽ được thông báo rằng đó là Tuần lễ bà con họ hàng1, và vì thế, hôm đó chỉ có nướng bánh thôi chứ không được học hành gì cả. Hay vào một sáng thứ Hai, mẹ cậu sẽ liếc mắt nhìn cậu, và nói: “Hôm nay mắt con trông lờ đờ. Con có chắc là mình khỏe không đấy?” Rồi bà sẽ lắc đầu một cách hồ nghi, và dù cho chú bé láu lỉnh hoàn toàn khỏe khoắn, cậu vẫn cứ ngậm miệng chẳng nói gì cả. Sau đó bà sẽ nói tiếp: “Tuần này con phải ở nhà, bởi vì chỉ có Chúa mới biết chuyện gì có thể xảy đến với con ở đó.” Và quyết định của bà sẽ được cả nhà tán đồng.
Thực ra mà nói, những bậc phụ huynh trìu mến này không đui mù trước giá trị của học vấn; có điều họ chỉ nhận ra giá trị bên ngoài của nó mà thôi. Nói cách khác, họ không thể nhìn xa hơn cái sự thật rằng giáo dục giúp người ta có thể tiến thân trong đời về mặt địa vị, những cái băng bội tinh và tiền bạc. Đã có những tin đồn về sự cần thiết của việc học không chỉ chữ nghĩa, mà còn những lĩnh vực khoa học khác mà cho đến tận bây giờ vẫn chưa được biết đến trong thế giới trang viên Oblomovka; nhưng, như tôi đã nói, những con người tốt bụng ở đó chỉ hiểu được rất ít ỏi và rất mơ hồ về bất cứ giá trị bên trong nào của giáo dục, và vì thế họ chỉ mong mang lại cho Ilya bé bỏng của mình những lợi thế phô trương nhất định, không hơn - nghĩa là một bộ đồng phục đẹp, và để cho cậu được làm Việc Nhà Nước (mẹ cậu thậm chí còn thấy trước rằng cậu sẽ trở thành một quan tỉnh trưởng!). Tuy vậy họ nghĩ điều này nên đạt được bằng một số tiền ít nhất có thể, và bằng cách bí mật lẩn tránh những tảng đá và những chướng ngại vật nằm rải rác trên cái lối mòn dẫn đến sự khai sáng kia. Vâng, những tảng đá và những chướng ngại vật đó nên được đi vòng, đi tránh chứ không nên được leo qua; sự học phải được tiêu hóa một cách nhẹ nhàng, chứ không phải bằng cái giá kiệt quệ cả về thể chất lẫn tinh thần. Theo quan điểm của họ, quá trình đó chỉ cần phải tiếp tục cho đến khi Ilya đã giành được một thứ văn bằng nào đó chứng tỏ rằng cậu đã kinh qua “một chương trình học tập về nghệ thuật và khoa học.”
Nhưng ông già Schtoltz đã kịch liệt phản đối cái quan điểm kiểu Oblomovka này; và cái tính cố chấp của người Đức nơi ông có lẽ đã thắng nếu như ông không phải đương đầu với những khó khăn ngay tại đại bản doanh của mình. Có thể nói con trai ông đã quen với việc làm hỏng cậu bé Oblomov bằng cách làm hộ bài tập cho cậu, gợi ý và nhắc bài cho cậu trong những lời giải thích của mình. Thêm nữa, cậu bé Oblomov có thể nhận thấy rõ ràng những khác biệt giữa cuộc sống ở nhà với cuộc sống ở trường. Ở nhà, vừa mới thức giấc cậu đã thấy Zakhar đứng ở bên giường. Cũng như bà vú nuôi, Zakhar sẽ mang bít tất dài vào chân cho cậu, và đeo giày ống cho cậu; và nếu như cậu chủ Ilya - giờ đây đã là một cậu bé mười bốn tuổi - không được hoàn toàn hài lòng với những sự hầu hạ của Zakhar, cậu có thể lấy ngón chân gí vào mũi lão đầy tớ mà đẩy ra. Thêm nữa, nếu như có bao giờ cậu bé muốn thứ gì đó, cậu có những ba bốn người hầu sẵn sàng vội vàng thực thi mệnh lệnh; vì thế cậu không bao giờ học được cách tự lo cho mình bất kỳ việc gì cả. Tuy thế mà cuối cùng tình yêu thương lo lắng của cha mẹ cũng đã bắt đầu làm cậu mệt mỏi, bởi vì thậm chí không có lúc nào đi ngang qua sân, hay xuống cầu thang mà cậu không thấy mình bị đuổi theo bởi những câu hỏi như “Con đi đâu đấy, Ilya?” hay “Làm sao con có thể làm thế?” hay “Con sẽ ngã và tự làm cho mình đau đấy!” Cứ như thế, được chăm bẵm và nuông chiều như một giống cây nước ngoài trong nhà kính, cậu cứ chậm chạp, uể oải lớn lên, và theo cái cách làm cho những nguồn năng lượng của cậu hướng vào bên trong, rồi dần dà khô héo đi.
Tuy vậy, vào những dịp hiếm hoi cậu vẫn tỉnh táo, tươi tắn, sôi nổi và vui vẻ hơn bao giờ hết; cậu sẽ tỉnh dậy, cảm thấy có một con tiểu yêu tinh nghịch xúi giục cậu leo lên mái nhà, hay lao ra lăn lộn trên đồng, hay chạy quanh bãi cỏ nơi cỏ khô đang được cắt, hay leo lên một cái hàng rào, chọc ghẹo những con chó trong nông trại - nói tóm lại là chạy đây chạy đó và chạy khắp mọi nơi.
Cuối cùng, cậu không thể chịu đựng thêm được nữa; không thể cưỡng lại sự cám dỗ của con tiểu yêu kia. Vào một buổi sáng mùa đông, đầu không nón mũ gì cả, cậu nhảy từ trên hiên ra sân, rồi từ đó chạy qua cổng. Sau đó, nhanh chóng nắm một quả bóng tuyết trong hai bàn tay, cậu ném nó vào một đám con trai. Không khí lạnh như cắt phả vào mặt cậu, băng giá làm tai cậu tê cóng, miệng và họng cậu như tắc nghẹt vì lạnh, nhưng trong ngực cậu là một niềm vui to lớn. Cậu lao tới phía trước nhanh hết mức mà đôi chân cho phép, cậu la hét và cậu cười. Trong vòng hai giây cậu đã ở giữa đám con trai kia. Một quả bóng tuyết cậu ném - không trúng đích; quả bóng tuyết thứ hai cậu ném - cũng không trúng đích; và ngay khi vừa nắm quả bóng tuyết thứ ba thì mặt cậu đã bị biến thành một đống tuyết lớn. Cậu ngã, và vì không quen ngã, nên đã tự làm cho mình đau; tuy vậy cậu vẫn bật cười vui vẻ, dù cho những giọt lệ dâng lên trong đôi mắt. Đằng sau đám con trai đó có hai con chó, đang kéo quần áo chúng; bởi vì, như mọi người đều biết, chó không thể bình thản khi trông thấy con người chạy. Thế là cả đám chạy băng ngang qua làng - cả một bầy ầm ĩ, la hét, sủa nhặng xị. Cuối cùng đám trẻ cũng bị tóm và công lý được thực thi - một đứa vào đầu, một đứa vào hai bên tai và một đứa vào mông. Những người cha của đám thủ phạm cũng bị đe dọa sẽ bị trừng phạt. Về cậu chủ nhỏ, người ta vội vàng mặc cho cậu một cái áo choàng cổ chui, rồi một cái áo da cừu của cha cậu, và cuối cùng còn quấn thêm hai cái chăn; sau đó cậu được bế về nhà trong thắng lợi. Cả nhà đã lo sợ sẽ thấy cậu trở về trong tình trạng hấp hối; niềm vui của cha mẹ cậu khi trông thấy cậu được đưa vào còn sống và không hề hấn gì thật không lời nào tả xiết… Phải, họ đã cảm ơn Chúa, họ đã cho cậu uống nào bạc hà, nào rượu cơm cháy, nào si rô mâm xôi và giữ cậu trên giường suốt ba ngày - dù cho việc duy nhất có thể tốt cho cậu là để cho cậu lại được ra ngoài và chơi đùa trong tuyết!
***
Zakhar lặng lẽ đi vào, cố gắng đánh thức người đang ngủ, nhưng thất bại. Bất thình lình từ ngoài cửa vang lên tiếng cười lớn. Oblomov giật mình.
“Schtoltz! Schtoltz!” Chàng kêu lên sung sướng vô ngần lúc lao ra ôm chầm lấy người mới đến.