B
uổi sáng hôm đó toàn đội làm việc tất bật, cố so sánh các bằng chứng Sachs đã tìm được để định vị một nơi có thể là chỗ nghi phạm đang ở hoặc đã quyết định chọn làm vùng đi săn của hắn.
Rhyme đẩy xe tiến lui trước mặt tấm bảng, cảm nhận cú hích bằng cổ và cằm của mình khi chiếc xe lăn Merits chạy qua những sợi dây điện đang giăng trên sàn phòng khách nhà anh.
237 Phố Elizabeth
* Nạn nhân: Chloe Moore, 26
- Có thể không có liên quan gì với Nghi phạm
- Không bị tấn công tình dục, nhưng có đụng chạm da thịt
* Nghi phạm 11-5
- Nam da trắng
- Khổ người gầy đến trung bình
- Mũ len trùm đầu
- Áo khoác tối màu dài đến giữa đùi
- Ba lô tối màu
- Mang bao giày
- Không dấu vân tay
- Nghệ nhân xăm mình chuyên nghiệp hoặc từng làm
- Có thể đang làm hình xăm dạng “hai nửa”
- Dùng đường viền máu để vẽ hình xăm
- Không xuất thân từ khu vực này; nhiều khả năng là dân nông thôn
- Học các kĩ thuật từ sách và đón đầu Rhyme và cảnh sát?
- Bị ám ảnh với da người
- Có thể đang nhắm vào cảnh sát
- Tội phạm có tổ chức; sẽ lên kế hoạch trước các cuộc tấn công
- Có thể đã quay lại hiện trường
* COD: Bị đầu độc bằng cicutoxin, thâm nhập cơ thể qua hình xăm
- Xuất phát từ cây thuỷ độc cần
- Không rõ xuất xứ
- Cô đặc, cao gấp tám lần bình thường
* Bị khống chế bằng propofol
- Thu được như thế nào? Có cách tiếp cận với các nguồn cung của ngành y?
* Bị xăm cụm “lần thứ hai” bằng hệ chữ tiếng Anh cổ, viền hình vỏ sò
- Là một phần của thông điệp?
- Đội chuyên trách của sở cảnh sát đang kiểm tra điểm này
- Viền hình vỏ sò là kĩ thuật lên da non – tạo sẹo – điểm này có thể quan trọng
* Súng xăm di động được dùng làm vũ khí
- Có thể là loại American Eagle
* Sợi vải
- Màu trắng ngà
- Có thể rơi ra từ áo sơ mi của Nghi phạm, bị rách trong lúc vật lộn
* Trang giấy từ một cuốn sách
- Có thể bị xé ra từ túi áo Nghi phạm trong lúc vật lộn
- Có thể là loại sách bìa cứng sản xuất hàng loạt từ 1996-2000
- Tên sách là Những thành phố liên hoàn. Hắn quan tâm tới Chương 7, viết về Kẻ tầm xương.
- Có mối liên hệ về mặt tâm lí học với Kẻ tầm xương? Báo thù?
* Có thể đã dùng cây lăn có băng dính để lấy hết dấu vết trên quần áo trước khi tấn công
* Còng tay
- Loại thường, không rõ nguồn
* Đèn pin
- Loại thường, không rõ nguồn
* Băng dính
- Loại thường, không rõ nguồn
Các dư chất tại hiện trường
* Oxit Nitơ, ozon, mangan sắt, niken, bạc, berili, hidrocarbon clo hoá, axeliten
- Có thể là các nguyên liệu trong hàn xì
* Tetrodotoxin
- Độc tố trong cá nóc
- Thuốc độc zombie
- Số lượng rất nhỏ
- Không được dùng cho nạn nhân lần này
* Stercobilin, urê 9,3g/L, clorit 1,87g/L, natri 1,17g/L, kali 0,075g/L, creatini 0,670g/L
- Thành phần của phân người
- Có thể gợi ý đến mối quan tâm/ám ảnh ở dưới lòng đất
- Tới từ địa điểm giết người tiếp theo dưới lòng đất?
* Chất khử trùng benzalkonium clorit
- Iôn Amôni bậc bốn, loại chất sát khuẩn tiêu chuẩn
* Keo nhựa
- Được dùng trong băng cá nhân, xây dựng và nhiều công dụng khác nữa
* Cẩm thạch Inwood
- Bụi và các mẩu vụn nhỏ
* Thuốc nổ Tovex
- Có thể từ nơi cho nổ đá
Rhyme quay từ cái bảng sang chỗ Amelia Sachs và bắt gặp cô đang nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ vào buổi sáng mưa gió. Rõ ràng cô vẫn còn buồn bực trước tin tức mới nhận ngày hôm qua – rằng Pam sắp đi du lịch vòng quanh thế giới với bạn trai con bé, rồi chuyển vào ở cùng cậu ta sau khi họ quay lại.
Seth là một chàng trai tử tế, cô đã giải thích như vậy khi họ cùng nằm trên chiếc giường êm ái của anh đêm qua, đèn đã tắt hết và gió đập vào cửa sổ. “Cho đến nay. Không phải loại trốn chui trốn lủi trong một nhà trọ ở Ma-rốc hay Goa. Có lẽ thằng bé là Quý ông Hoàn hảo, cũng có thể không. Ai mà biết được?”
“Em có nghĩ rồi chuyện này sẽ qua không?”
“ Không. Con bé quyết tâm lắm.”
“Giống em. Có nhớ mẹ em đã không thích chuyện em hẹn hò với gã què ngồi trên xe lăn không?”
“Anh có là vận động viên điền kinh đi nữa thì mẹ cũng chẳng thích anh đâu. Không ai đạt được những tiêu chuẩn của mẹ em cả. Dù bây giờ thì bà thích anh rồi.”
“Ý tôi chính là thế đấy.”
“Em thích Seth. Thêm một năm nữa em sẽ thích cậu ta hơn ấy.”
Rhyme đã cười.
Cô hỏi, “Anh có ý kiến gì không?”
“E là không.” Rhyme đã từng kết hôn vài năm. Anh li dị không lâu sau vụ tai nạn (là đề nghị của anh; chứ không phải của vợ anh), nhưng trước đó cuộc hôn nhân đã lâm vào bế tắc một thời gian rồi. Anh chắc chắn mình từng yêu đương vào một thời điểm nào đó nhưng mối quan hệ đã đổ vỡ vì những lí do anh không tài nào tách bạch, định lượng và phân tích được. Còn về những gì anh có với Sachs? Chuyện tiến triển vì nó tiến triển thế thôi. Anh chỉ có thể nói đến thế. Lincoln Rhyme thẳng thắn thừa nhận mình không có tư cách đưa ra những lời khuyên về chuyện tình ái.
Nhưng rốt cuộc thì ai mới đủ tư cách? Tình yêu là một sự việc không thể tìm nổi nhân chứng chuyên môn.
Sachs đã nói thêm, “Và em đã xử lí không khéo chút nào. Em đã tỏ ra bao bọc quá. Tình mẫu tử quá lớn. Chuyện thành ra hỏng bét. Đáng lẽ em phải khách quan hơn, hiểu biết hơn. Nhưng không, em đã để mọi chuyện vượt tầm kiểm soát.”
Sáng hôm nay, Rhyme có thể thấy là Sachs vẫn còn rất buồn. Anh đang nghĩ mình nên nói lời gì an ủi thì đòi hỏi công việc đã lấn át chuyện cá nhân, trước sự nhẹ nhõm của anh.
“Có gì đó ở đây này,” Pulaski gọi với ra từ bên kia phòng thí nghiệm, cậu ta đang nhìn chăm chú vào một màn hình ở trong đó. “Tôi nghĩ…” Cậu ta im bặt, lừ mắt. “Internet chết tiệt. Đúng lúc tôi bắt gặp một thứ gì đó chứ.”
Rhyme có thể thấy màn hình của cậu ta đã bị đóng băng.
“Được rồi, được rồi, lại lên rồi.”
Cậu ta gõ thêm mấy nút nữa. Bản đồ, giản đồ và một thứ trông như bản danh sách các hợp chất và vật liệu nhảy lên màn hình lớn.
“Cậu sắp trở thành nhà khoa học đích thực rồi đấy, lính mới,” Rhyme bảo trong lúc nhìn các ghi chú.
“Cậu có gì rồi, Ron?” Mel Cooper hỏi.
“Cuối cùng cũng có tin tốt. Có lẽ vậy.”