C
huyến du lịch của cả nhà tới New York mà Harriet Stanton mong ngóng nhiều năm trời rốt cuộc đã không diễn ra như kế hoạch.
Nó đã bị trì hoãn bởi một sự việc ngẫu nhiên có thể thay đổi cuộc đời bà mãi mãi.
Lúc này Harriet đang đứng trước gương trong một căn phòng khách sạn. Cả đêm qua bà đã trằn trọc trong căn phòng này và nhìn lên bộ vest của mình. Màu tối. Không phải đen mà là xanh hải quân.
Suýt nữa thì bà đã chọn màu kia. Đúng là xui xẻo vì đã chọn như thế.
Bà nhặt vài mẩu xơ vải bên trên mặt len, phủi một ít bụi – khách sạn này không đẹp như trong quảng cáo trên mạng (nhưng nó vừa tiền và tính tiết kiệm là một phần quan trọng trong gia đình Stanton, họ vốn xuất thân từ một thị trấn có tiêu chuẩn lưu trú là nhà trọ Holiday).
Năm mươi ba tuổi, với bờ vai mảnh khảnh và thân hình quả lê (nhưng là quả lê nhỏ thôi), Harriet có khuôn mặt đáng tin cậy với làn da khỏe mạnh và dạn dày sương gió – vì việc làm vườn, vì những buổi chơi với các con trong vườn sau giờ học, những buổi dã ngoại và tiệc thịt nướng. Nhưng bà là người phụ nữ tầm thường cuối cùng trên Trái đất, và những nếp nhăn duy nhất làm bà phiền muộn không nằm trên gương mặt mà là trên chân váy của bộ vest – nếp nhăn mà bà sẽ khắc phục.
Nếu nghĩ tới điểm đến của bà, một nơi u ám, bà có thể dễ dàng bỏ qua khiếm khuyết này. Nhưng đó không phải cách của Harriet. Trên đời có những cách tiếp cận hoặc đúng hoặc sai, và đó là một cách tiếp cận lười biếng và lầm lạc. Bà kéo khóa váy rồi thả nó xuống, nó dễ dàng trôi xuống chiếc váy lót màu be.
Bà lặng lẽ tháo chiếc cầu là rẻ tiền bằng một tay (ồ, Harriet biết rõ các dụng cụ là quần áo của mình chứ) và cắm phích cho chiếc bàn là không cân xứng. Nó đang được buộc vào cầu là bằng một sợi dây. Chẳng lẽ ở New York này nạn trộm cắp thiết bị cầm tay lại kinh khủng đến thế? Và chẳng phải khách sạn đã có sẵn số thẻ tín dụng của khách hết rồi sao?
Ồ, thôi được. Nơi này là cả một thế giới khác, rất khác ở nhà. Trong lúc chờ bàn là nóng lên, bà tiếp tục xem xét lại những lời nói của chồng từ ngày hôm trước trong lúc họ đi bộ qua những con phố lạnh buốt ở New York.
“Này, Harriet, này.” Ông đã dừng trên phố, quãng giữa FAO Schwarz và Đại lộ Madison, tay chống vào một cột đèn.
“Cưng à?” bà hỏi trong lúc vòng lại.
“Xin lỗi. Tôi xin lỗi.” Người đàn ông lớn hơn vợ mình mười tuổi có vẻ xấu hổ. “Tôi thấy không khỏe lắm. Có cái gì đó.” Ông chạm vào ngực mình. “Có gì đó ở đây, bà biết đấy.”
Gọi taxi hay cấp cứu? Bà băn khoăn, cuống cuồng tranh luận.
Tất nhiên là chín một một rồi. Đừng có ngốc.
Trong vòng hai mươi phút họ đã có mặt ở một phòng cấp cứu của một bệnh viện gần đó.
Và kết luận: một cơn nhồi máu cơ tim nhẹ.
“Một cái gì cơ?” bà hỏi.
Ồ, có vẻ như đó là: một ca đau tim.
Việc này rất khó hiểu. Vốn dĩ ông có lượng cholesterol thấp, chưa từng hút một điếu thuốc nào trong đời, chỉ thi thoảng nhấp thử xì gà, và cơ thể một mét tám mươi bảy của ông gầy gò và cứng chắc như chính cây cột ông đã phải bám lấy để giữ thăng bằng khi bị đau tim vậy. Ông từng chạy theo lũ hươu nai ở trong rừng vào cuối tuần trong suốt mùa săn mỗi khi ông có thời gian. Ông giúp các bạn mình dựng khung phòng ốc và ga ra. Mỗi cuối tuần, ông đều vác trên vai những bao đất mùn và đất trồng cây loại hai mươi cân và mang chúng từ xe bán tải ra nhà kho.
“Không công bằng,” Matthew đã lẩm bẩm khi nghe kết luận của bác sĩ. “Chuyến đi mơ ước của chúng tôi lên thành phố, vậy mà xem xem chuyện gì đã xảy ra. Không công bằng chút nào.”
Để đề phòng, các bác sĩ đã cho chuyển ông tới một bệnh viện cách khách sạn của họ khoảng nửa giờ đi xe về phía bắc, và rõ ràng đó là cơ sở chữa bệnh tim tốt nhất thành phố. Tiến triển bệnh của ông rất tốt và ông sẽ được ra viện vào ngày mai. Không cần phải phẫu thuật. Họ sẽ kê vài loại thuốc để hạ huyết áp và ông sẽ phải mang theo mình những viên nitroglycerine. Ông cũng phải uống aspirin mỗi ngày. Nhưng dường như các bác sĩ chỉ coi lần đau tim này là một ca nhẹ.
Để thử độ nóng của bàn là, bà vảy một giọt nước lên bề mặt Teflon. Nó cháy xèo xèo và bốc hơi. Bà xịt một ít nước từ chai Dannon lên chân váy và là thẳng nếp nhăn.
Mặc lại chiếc váy, bà quan sát mình trong gương lần nữa. Tốt. Nhưng bà đã quyết định là mình cần thêm chút màu sắc nên đã buộc một chiếc khăn lụa màu đỏ và trắng quanh cổ. Hoàn hảo. Tươi sáng nhưng không lòe loẹt. Bà cầm lấy chiếc túi xách và rời khỏi phòng, đi xuống sảnh khách sạn trong chiếc thang máy mà bên ngoài có tiếng xích lạch cạch ở mỗi tầng nó đi qua.
Khi đã ra ngoài, Harriet tự mình tìm phương hướng và gọi một chiếc taxi. Bà đọc tên bệnh viện cho tài xế và trèo vào ghế sau. Bên trong xe có mùi và bà tin là lái xe, một người ngoại quốc, đã không tắm táp gì gần đây. Một câu nói rập khuôn nhưng là sự thật.
Bất chấp cơn mưa tuyết, bà vẫn hạ kính cửa sổ và chuẩn bị tranh cãi nếu anh ta phản đối. Nhưng anh ta không nói gì. Dường như anh ta không chú ý gì đến bà – hay đến mọi thứ. Anh ta ấn vào một nút trên công tơ mét và lao đi.
Trong lúc họ túc tắc đi về phía bắc trên chiếc taxi cũ, Harriet nghĩ về cơ sở vật chất của bệnh viện. Nhân viên ở đó có vẻ tử tế và các bác sĩ rất chuyên nghiệp, dù tiếng Anh của họ thật lúng túng. Mặc dù vậy, điều bà không thích là phòng của Matthew trong Trung tâm Y tế Thượng Manhattan lại nằm dưới tầng hầm, cuối một hành lang dài, mờ tối.
Xập xệ và đáng sợ. Và tối qua lúc bà đến thăm ông thì nó gần như bị bỏ hoang.
Nhìn sang các dinh thự bên tay trái và công viên Central bên tay phải, Harriet cố gạt đi những lo ngại về việc viếng thăm cái nơi khó chịu ấy. Bà đang nghĩ có lẽ vụ đau tim xui xẻo kia là một điềm gở, báo hiệu một điều tồi tệ hơn sắp xảy ra.
Nhưng sau đó bà đã kết luận những cảm xúc ấy chỉ là mê tín dị đoan, rồi lôi điện thoại ra và gửi một tin nhắn vui vẻ là bà đang trên đường đến.