L
incoln Rhyme không vui vì anh đã bỏ lỡ suy luận về danh tính của nghi phạm; chính nhờ việc lục soát thi thể và lời giải thích của Pam thì mới có nguồn tin về Billy Haven.
“Đáng lẽ ra tôi phải đoán được,” anh bảo với Cooper và Pulaski.
“Gì cơ?” Pulaski đặt cái túi nhựa xuống từ nơi cậu ta đang gắp bằng chứng ra và quay sang Rhyme.
“Rằng Billy là ai đó gần gũi với gia đình Stanton. Phản ứng của Harriet ấy? Khi Amelia kể với bà ta rằng hắn đã chết? Bà ta đã kích động. Đáng lẽ việc đó phải cho tôi biết bà ta biết rõ hắn. Rất rõ. Cả cậu con trai, Joshua nữa – tôi tưởng cậu ta sắp ngất khi nghe thấy điều đó. Đáng lẽ tôi có thể suy luận rằng thậm chí nếu nghi phạm không phải là người thân cận nhất thì hắn cũng phải thuộc họ hàng. Chúng ta đã biết hắn là cháu trai, đã biết tên hắn. Nhưng hãy tìm hiểu nốt những chi tiết còn lại về William Haven này đi, lính mới. Stat.”
“Tiếng La tinh, từ từ gốc statim, nghĩa là ngay lập tức,” Pulaski nói.
“À phải, đúng rồi. Cậu là một sinh viên nhạc cổ điển. Và tôi còn nhớ cậu cũng là học trò của những bộ phim tội phạm trong đó những câu đùa lạc đề được dùng để làm khán giả phân tâm khỏi kịch bản lẫn sự phát triển nhân vật bị thiếu sót. Chẳng hạn, những tay sát thủ thích dùng đúng ngữ pháp mà cậu đã nhắc tới ấy. Vậy chúng ta đã bắt đầu vào nhiệm vụ trước mắt được chưa?”
“Exempli gratia,” Pulaski lẩm bẩm và bắt đầu gõ rất nhanh trên bàn phím.
Vài phút sau, cậu ta nhìn lên từ màn hình máy tính. “Negotium ibi terminetur,” cậu ta nói bằng giọng chốt hạ.
“Nhiệm vụ đã hoàn thành,” Rhyme dịch. “Cách nói lịch thiệp hơn là, “Factum est.” Nghe hay hơn. Đó là vấn đề với tiếng La tinh. Nghe nó cứ như là cậu đang nhai đá vậy. Cầu Chúa phù hộ cho người Ý và người Roma vì đã lôi thứ ngôn ngữ ấy ra khỏi ngọn lửa.”
Pulaski đọc trên màn hình. “Matthew Stanton là con một. Nhưng Harriet có một chị gái, Elizabeth. Bà chị đã cưới Ebbert Haven. Họ có một cậu con trai, William Aaron. Ebbett là một trưởng lão trong hội AFFC nhưng ông ta và vợ đã chết khi cậu con trai còn nhỏ.” Cậu ta ngước lên. “Trong vụ bắn nhau của Chi nhánh Davidian. Họ tới đó để bán súng cho nhà Davidian nhưng bị kẹt giữa vụ bao vây.”
“William tới sống với gì Harriet và chú Matthew. Chủ yếu được gọi là Billy. Hắn có một tiền án – bị vào trại cải tạo, nên không ghi trong hồ sơ; nó đã được đóng lại. Vụ án đó là một cáo buộc tấn công. Tội phân biệt chủng tộc. Billy đã đánh một thằng bé Do Thái ở trường. Rồi hắn dùng đá và mực để xăm một biểu tượng chữ vạn trên cánh tay thằng bé kia. Khi đó hắn mới mười tuổi. Đây là một bức ảnh. Xem này.”
Hình xăm được làm rất đẹp. Hai màu, có đánh bóng, đường viền sắc như dao cạo, Rhyme để ý thấy.
“Rồi hắn học vẽ và khoa học chính trị ở trường Đại học Nam Illinois. Và vì một lí do nào đó lại đi mở tiệm xăm.”
“Trong ba lô của Billy có hoá đơn của hai căn hộ trong thành phố. Một ở Murray Hill, dưới tên Seth McGuinn - bạn trai của Pam. Cái kia dưới tên giả là Frank Samuels, ở gần Chinatown, trên phố Canal. Đội khám nghiệm hiện trường đã kiểm tra cả hai. Billy đã cọ rửa sạch sẽ nhưng ở hiện trường thứ hai - xưởng làm việc - đội khám nghiệm đã thu được dụng cụ và một số bình thuỷ tinh trồng các loại cây để Billy chưng cất và chiết xuất chất độc hắn đã dùng trong các vụ giết người.
Những cái bể và ánh đèn kì dị của chúng giờ đang được đặt trong phòng khách nhà Rhyme, cạnh bức tường phía xa. Tất cả trừ một bình. Đó là chiếc bình hàn kín có chứa các bào tử botulinum. Các kĩ sư hoá sinh từ Pháo đài Detrick đã quyết định tốt nhất họ nên tịch thu cái bình đó. Vốn là người khăng khăng giữ lại vật chứng, nhưng Rhyme đã không hề kêu ca gì chuyện cái bình đặc biệt ấy được chuyển giao.
Nhà tội phạm học đã nhập xong các loại cây ấy vào bảng vật chứng – anh để ý thấy thuỷ độc cần đặc biệt đáng yêu – và gọi cho Fred Dellray, đặc vụ FBI, người đang lãnh đạo phía cục điều tra liên bang trong vụ án này. Anh giải thích những thứ họ đã tìm được. Đặc vụ lập dị lẩm bẩm, “Thế có chết không cơ chứ. Tôi tự hỏi những vũ khí huỷ diệt hàng loạt của Hussein đang trôi dạt nơi đâu rồi. Thế mà cuối cùng chúng ta lại tìm được chúng ở ngay chỗ cách nhà hàng Trung Hoa yêu thích của tôi hai dãy nhà. Happy Panda. Cái trên phố Canal ấy. Không, không phải là Happy Panda trên Mott hay Happy Panda trên số Sáu đâu. Happy Panda đầu tiên và duy nhất ấy. Ngon. Món sứa. Không, không, ngon hơn anh tưởng đấy. Được rồi, gọi cho tôi khi nào bản báo cáo đã sẵn sàng nhé.”
Sau khi anh cúp máy, Rhyme nghe thấy tiếng cười bên kia phòng.
“Khá thật đấy,” Mel Cooper nói và nhìn đăm đăm vào một màn hình máy tính. “Sao?”
Rhyme hỏi.
Pulaski cũng cười và quay sang màn hình: Là phiên bản trực tuyến của tờ New York Post. Tiêu đề câu chuyện trang nhất về nhà Stanton là Cây bút độc.
Nhắc đến vũ khí giết người của Billy Haven.
Thông minh thật.
Trong lúc Cooper và Pulaski tiếp tục phân tích và phân loại bằng chứng từ cả căn hộ của Pam và xưởng làm việc lẫn nhà an toàn của Billy, Rhyme đẩy xe lại bảng vật chứng. “Găng tay,” anh gọi.
“Anh muốn…?” Thom hỏi.
“Găng tay! Tôi sắp cầm vài vật chứng.”
Với chút khó khăn, trợ tá đeo một chiếc găng vào bàn tay phải của Rhyme.
“Nào. Cái đó.” Anh chỉ vào một cuốn sổ nhỏ có ghi Cuộc Biến cải, trong đó chứa những trang ghi chép chi tiết về âm mưu đầu độc: thời gian, các nạn nhân cần chọn, địa điểm, quy trình của cảnh sát, những trích đoạn trong Các thành phố liên hoàn, cuốn sách về các vụ án có thực của Rhyme và chỉ dẫn làm sao để “đoán trước kẻ dự đoán.” Những ghi chép ấy được viết bằng tuồng chữ bay bướm đẹp đẽ của Billy. Với tài năng nghệ thuật của hắn, không có gì ngạc nhiên khi nét chữ viết tay này tương tự như những bản thảo khai sáng do các nhà thần học chấp bút.
Rhyme đã đọc lướt qua cuốn sổ từ trước nhưng giờ anh muốn nghiên cứu nó thật kĩ để tìm thêm những đồng phạm khác.
Thom đặt nó trên tay ghế của xe đẩy. Bằng những động tác khi thì lúng túng, khi thì tao nhã nhưng vẫn luôn luôn tự tin, Lincoln Rhyme lật giở từng trang và bắt đầu đọc.