N
gười đàn ông đậm người, hói đầu, mặc chiếc áo khoác ngắn màu xám đang thả bước dọc vỉa hè rộng rãi, bàn chân hướng về phía trước. Hắn đang cầm một cái cặp táp xơ xác. Rất ít người trên phố để ý thể hình hoặc dáng đi của hắn. Hắn bình thường hết mức có thể. Doanh nhân, kế toán, giám đốc công ty quảng cáo. Hắn là một Muggle1. Hắn là một Prufrock2.
1 Muggle là một từ được dùng trong bộ truyện Harry Potter của J. K. Rowling, dùng để chỉ người không có khả năng sử dụng pháp thuật và không được sinh ra trong thế giới phù thủy.
2 Prufrock hay Bản tình ca của J. Alfred Prufrock là một bài thơ của nhà thơ Mĩ, T. S. Eliot
Hắn thích nơi này. Làng Greenwich kém hiện đại hơn SoHo hoặc TriBeCa chẳng hạn, nhưng giống một khu dân cư hơn; Phố Ý Nhỏ đến rồi đi nhưng Làng vẫn còn là thành trì của những người con Manhattan kiểu cũ, những kẻ lươn lẹo, nghệ sĩ, hậu duệ của dân nhập cư châu Âu. Đúng vậy, khu này đầy các gia đình của những ông chồng đậm người và hói, các bà vợ dửng dưng, những đứa con trai ngoan nhưng tham vọng, những đứa con gái thông minh. Hắn hoà lẫn vào người ở đây.
Đó là một việc tốt. Khi cân nhắc nhiệm vụ của hắn.
Mặt trời đã lặn và nhiệt độ xuống thấp nhưng ít nhất bầu trời vẫn còn trong trẻo và màn mưa tuyết mấy ngày vừa rồi đã kết thúc.
Hắn đi đến cửa sổ của quán Café Artisan và đọc cái thực đơn đã hoen ố. Đây là một quán cà phê thực sự. Kiểu Ý. Nơi này đã đun kem sữa thậm chí trước cả khi Starbucks chợt lóe lên trong đôi mắt của ông chủ người Seattle – không phải Sicily – nào đó đã tạo ra chuỗi cửa hàng này.
Hắn nhìn chằm chằm xuyên qua những đồ vật trang trí Giáng Sinh sớm trong cửa sổ đã sờn và quan sát hoạt cảnh ở một chiếc bàn cạnh góc xa: Một phụ nữ tóc đỏ trong chiếc áo khoác màu nâu đỏ, quần bò bó màu đen đang ngồi đối diện với một người đàn ông mặc vest. Ông ta gầy gò và trông như một luật sư sắp về hưu. Người phụ nữ hỏi ông già vài câu và chép câu trả lời lên một cuốn sổ nhỏ. Hắn để ý thấy chiếc bàn khẽ cập kênh; cái nêm bên dưới chân bàn hướng bắc tới đông bắc không còn tốt.
Hắn quan sát ông già và người phụ nữ thật cẩn trọng. Nếu là người quan tâm đến nhục dục, vốn không phải là bản tính của hắn, hắn chắc chắn người phụ nữ này sẽ hấp dẫn.
Amelia Sachs, người mà hắn tới đây để giết, khá xinh đẹp.
Vì trời còn lạnh, việc người đàn ông này đeo găng tay không có gì là đáng nghi, đó là một điều may mắn. Cặp găng đang che tay cho hắn là găng len màu đen, vì găng da cũng để lại những dấu vết gần độc nhất như chính dấu vân tay vậy. Hay nói cách khác là có thể lần ra được. Nhưng còn vải? Không thể.
Lúc này hắn để ý thấy túi của Amelia đang đặt ở lưng ghế dựa của cô ta. Con người ở đây an tâm biết chừng nào. Nếu ở đây là Sao Paulo hay thành phố Mexico, cái túi kia đã bị buộc vào lưng ghế bằng sợi dây ni lông, giống loại dùng để buộc túi rác hay cổ tay tù nhân vậy.
Cái túi đã được kéo khoá nhưng việc ấy không làm hắn lo ngại. Mấy ngày trước hắn đã mua một cái túi y hệt của cô ta và tập đi tập lại cách bí mật nhét một thứ gì đó vào trong túi (hắn đã học mánh móc túi nhiều năm rồi). Cuối cùng hắn cũng trau chuốt được kĩ thuật chỉ mất ba giây là mở được miệng túi, thảy một vật nhỏ vào trong rồi đóng khoá lại. Hắn đã làm việc ấy cả trăm lần.
Lúc này hắn thò tay vào túi quần và nắm gọn một chai thuốc giảm đau mua tại quầy. Nó giống hệt nhãn hiệu Amelia Sachs thích dùng (Hắn đã biết được điều này từ tủ thuốc của cô ta). Cô ta từng bị viêm khớp và mặc dù gần đây dường như không bị nó quấy rầy quá nhiều, hắn đã quan sát thấy thỉnh thoảng cô ta vẫn dùng mấy viên thuốc.
A, những bản án mà cơ thể bắt chúng ta phải chịu.
Những viên thuốc trong cái chai này nhìn giống hệt những viên cô ta đã mua. Tuy nhiên nó có một điểm khác biệt: Mỗi viên thuốc của hắn có chứa một lượng ăng-ti-moan nén.
Giống asen, ăng-ti-moan là một nguyên tố cơ bản, một loại á kim. Tên của nó tới từ tiếng Hi Lạp nghĩa là “xua đuổi cô độc”. Trước đây ăng-ti-moan từng được dùng để nhuộm đen lông mày và mí mắt của những phụ nữ lang chạ, bao gồm cả Jezebel trong Kinh Thánh.
Nó là một nguyên tố sẵn có và hữu ích, thậm chí thường được dùng trong nền công nghiệp thời hiện đại. Nhưng ăng-ti-moan, Sb, nguyên tố số 51, cũng là nguyên nhân gây ra hàng ngàn cái chết đau đớt tột cùng trong suốt chiều dài lịch sử. Wolfgang Amadeus Mozart có lẽ là nạn nhân nổi tiếng nhất (Câu hỏi vẫn còn bỏ ngỏ: cố ý hay là không? Chúng ta phải hỏi Antonio Salieri).
Trước cơn đau nhói từ đầu gối vừa được cấu trúc lại của mình, mà sớm muộn gì cô ta cũng cảm thấy, Sachs sẽ uống hai viên.
Và thay vì thấy nhẹ nhõm cô ta sẽ bị đau đầu khủng khiếp, nôn mửa, tiêu chảy, tê liệt tận cùng.
Cô ta sẽ chết trong vòng vài ngày – theo lời báo chí, cô ta sẽ là một nạn nhân nữa của Billy Haven, kẻ đã tuồn được những viên thuốc độc vào túi cô ta trước khi hắn cùng bè lũ khủng bố bị ngăn chặn.
Mặc dù sự thật thì nhà Stanton chẳng liên quan gì đến âm mưu giết người này cả.
Người đàn ông bên ngoài Café Artisan, kẻ sắp sửa giết Sachs, là Charles Vespasian Hale, tên khai sinh của hắn, mặc dù hắn còn được biết đến với nhiều cái tên nữa. Richard Logan là một. Và gần đây nhất: David Weller, vị luật sư công phẫn đã liên hệ với Cục điều tra New York về chàng cảnh sát trẻ tuổi Ron Pulaski.
Tuy nhiên cái tên duy nhất mà hắn thực sự thích là cái tên mô tả hắn đúng nhất: Thợ đồng hồ - nhắc tới cả kĩ năng của hắn trong việc dàn dựng những âm mưu tội ác phức tạp và niềm đam mê đồng hồ.
Giờ hắn đang xem một trong những chiếc đồng hồ ấy, một chiếc Ventura SPARC Sigma MGS, đồng hồ đeo tay điện tử có giá năm ngàn dollar. Hale sở hữu 117 chiếc đồng hồ các loại, phần lớn trong số đó là analog, kể cả nếu chúng có chạy bằng điện tử hay pin. Hắn có cả Baume & Merciers, Rolex và TAG. Hắn đã có cơ hội ăn cắp một chiếc Patek Philippe Calibre 89 trị giá sáu triệu đô, chiếc đồng hồ bỏ túi nổi tiếng đã được chế tạo để kỉ niệm ngày sinh nhật lần thứ 150 của công ty. Nó có nhiều chi tiết phức tạp - những cửa sổ và số cho nhiều thông tin hơn là mốc thời gian hiện tại - hơn bất kì chiếc đồng hồ nào khác từng được sáng tạo. Tác phẩm nghệ thuật bằng vàng mười tám kara cho biết các dữ liệu như chu kì của mặt trăng, năng lượng dự trữ, tháng, nhiệt độ, ngày lễ Phục sinh, các chòm sao, hoàng hôn và chính xác đến từng giây.
Nhưng cuối cùng Hale đã chọn không ăn trộm tác phẩm ấy.
Tại sao? Bởi vì Patek đã là một thánh tích. Giờ đã là một thời đại mới. Giống như cái cách tín hiệu analog đã ra đi vậy. Hale đã phải mất một thời gian mới chấp nhận được điều này, nhưng việc hắn bị Lincoln Rhyme bắt mấy năm trước đã cho hắn thấy rằng thế giới đã thay đổi.
Và Hale đã trở lại để chào đón buổi bình minh.
Chiếc đồng hồ Ventura trên cổ tay hắn đại diện cho khuôn mặt mới mẻ - ấy là nói như vậy - của việc tính thời gian. Độ chính xác không gì sánh được của nó mang lại cho hắn sự sảng khoái và thoả mãn. Hắn nhìn đồng hồ một lần nữa.
Và đếm ngược.
Bốn…
Ba…
Hai…
Một…
Tiếng chuông báo cháy inh tai vang lên từ phía sau quán cà phê.
Hale chụp một chiếc mũ len xuống cái đầu đã cạo của mình và bước vào quán cà phê nóng nực một cách bực mình.
Hắn không bị ai nhìn thấy – bao gồm cả Amelia Sachs và kẻ cô ta đang thẩm vấn – vì họ còn đang nhìn đăm đăm vào bếp, nơi hắn đã để lại thiết bị hai mươi phút trước. Thiết bị báo khói duy nhất được đặt trên một cái kệ, trông có vẻ cũ kĩ (không hề) và nhờn mỡ (đúng vậy). Các công nhân sẽ tìm được nó và đoán là nó đã bị bỏ đi và vô tình để mặc trên giá cao nhất. Chẳng bao lâu nữa sẽ có người lôi nó xuống, tháo pin ra và ném thứ ấy đi. Sẽ không có ai nghĩ đến lần thứ hai về chuyện chuông báo cháy giả mạo.
Amelia nhìn quanh – như tất cả mọi người - để tìm nguồn khói nhưng không có gì cả. Khi mắt cô ta quay lại với cửa nhà bếp, nơi tiếng chuông réo gọi từ đằng sau đó, Hale đã ngồi xuống một cái ghế sau lưng Amelia và trượt cái chai vào túi cô ta, trong lúc giả vờ đặt cái cặp lên sàn nhà.
Một kỉ lục mới: hai giây.
Rồi hắn nhìn quanh, như thể đang cân nhắc liệu mình có muốn một cốc latte ở một nơi có nguy cơ bị cháy như thế này không.
Không. Hắn sẽ đến một nơi khác. Người đàn ông đứng dậy và bước ra ngoài bầu trời lạnh lẽo.
Âm thanh tắt hẳn – đã đến lúc pin bị lấy ra. Một cái liếc mắt lại sau. Sachs đã quay lại với món cà phê và các ghi chú của mình. Không hay biết gì về cái chết sắp đến.
Thợ đồng hồ rẽ sang lối vào ga tàu điện ngầm ở phố số Bốn Tây. Trong lúc đi dọc vỉa hè dưới bầu không khí khô khốc, một ý nghĩ thú vị chợt đến với hắn. Asen và ăng-ti-moan là á kim – các chất có cả những đặc tính của kim loại và phi kim loại – nhưng đủ cứng để có thể tạo thành các vật thể chịu được lực.
Hắn tự hỏi liệu có cách nào làm đồng hồ từ các chất độc ấy không?
Thật là một ý nghĩ thú vị.
Và hắn biết là ý tưởng ấy sẽ còn lưu lại trong tâm trí giàu tưởng tượng của hắn trong nhiều tuần và nhiều tháng sắp tới.