"V
ậy,” Rhyme nói tiếp, “để đổi lấy kế hoạch, bọn họ tuồn cho anh một ít tetrodotoxin. Và sắp xếp hối lộ nhân viên y tế lẫn các cai ngục, để anh được tuyên bố là đã chết và đưa lậu ra khỏi nhà giam. Rồi tìm một cái xác người vô gia cư nào đó để chở đến nhà tang lễ làm hoả táng.”
“Ít nhiều là vậy.”
“ Chắc là đắt lắm.”
“Hai mươi triệu tiền mặt cả thảy.”
“Còn màn kịch ở nhà tang lễ thì sao? Anh đóng vai Weller ấy. Tại sao lại thế?”
“Tôi biết anh sẽ cử ai đó đến xem ai là người tới nhận tro cốt. Tôi phải làm cho anh tin tận trong thâm tâm rằng Thợ đồng hồ đã chết. Cách tốt nhất để làm việc đó là cử một luật sư công phẫn của gia đình tới thành phố để thu hồi tro cốt của anh ta… và báo cáo tay cảnh sát chìm của anh với nhà chức trách. Đó là một cú ngoặt tuyệt vời. Tôi đã không lường trước được.”
Khi đó Rhyme nói, “Nhưng có một điều tôi không hiểu. Lon Sellitto. Tất nhiên anh đã đầu độc anh ấy. Anh mượn quần áo của lính cứu hoả ở hiện trường chung cư Belvedere và đưa cốc cà phê có độc cho anh ấy.”
“Anh cũng nghĩ ra cả chuyện đó à?”
“Asen là chất độc á kim. Billy chỉ dùng các loại độc từ thực vật.”
“ Hừm. Bỏ sót chuyện đó. Mea culpa. Nói cho tôi biết, Lincoln, anh có phải là loại trẻ con đọc sách đố rồi lúc nào cũng phát hiện ra có cái gì sai trong bức tranh không?”
Đúng, anh đã là như thế, và đúng là anh có khả năng đó.
Rhyme nói thêm, “Và anh đã tuồn thuốc giảm đau giả vào túi của Amelia Sachs.”
Một khoảng lặng nặng nề. “Anh phát hiện cả chúng rồi ư?”
Ngay giây phút Rhyme đoán ra Thợ đồng hồ vẫn còn sống và có thể là kẻ đứng sau vụ tấn công Lon, anh đã bảo Sachs, Pulaski và Cooper phải cảnh giác trước bất kì vụ tấn công nào. Cô đã nhớ lại có ai đó ngồi gần mình trong quán cà phê nơi cô gặp nhân chứng của vụ Bảo tàng Metropolitan. Cô đã tìm thấy một chai thuốc giảm đau thứ hai trong túi.
Rhyme hỏi, “Vẫn là asen đúng không? Còn chưa có kết quả xét nghiệm.”
“Tôi sẽ cho anh biết, vì anh đã phát hiện ra rồi. Ăng-ti-moan.”
Lincoln Rhyme nói, “Thấy chưa, đó là việc mà tôi không hiểu: cố giết Lon và Amelia rồi đổ tội cho nhà Stanton? Chính anh là người đã ăn mặc như Billy Haven ở các hiện trường phải không? Nhìn xuống cô ấy qua cái nắp lỗ cống ở phố Elizabeth? Bên ngoài nhà hàng ở Hell’s Kitchen? Trong toà nhà gần Belvedere?”
“Đúng vậy.”
“Vậy thì tại sao…?” Giọng anh nhỏ lại. Những ý nghĩ dồn dập tới, nổ tung như pháo hoa. “Trừ khi…”
“ Hiểu ra rồi, phải không Lincoln?”
“Hai mươi triệu dollar,” anh thì thào. “Để mua tự do cho anh. Không đời nào nhà Stanton và AFFC có thể đưa anh từng đó tiền để hối lộ cai ngục và bác sĩ. Không, không – cùng lắm bọn họ cũng chỉ là một tổ chức nghèo đủ ăn thôi. Kẻ nào đó khác đã tài trợ cho vụ vượt ngục của anh. Phải! Kẻ nào đó cần anh làm một vụ khác. Anh đã dùng AFFC làm bình phong cho một việc khác.”
“A, đúng là Lincoln của tôi,” Thợ đồng hồ nói.
Giọng nói có vẻ hạ cố và một phút tức giận bùng lên. Nhưng rồi ý nghĩ chợt nảy ra và anh cười phá lên. “Lon. Lon Sellitto! Anh ấy mới là mục đích chính của chuyện này. Anh cần giết hoặc đẩy anh ấy ra ngoài nhiệm vụ, và anh đã dùng AFFC làm vật tế thần.”
“Chính xác,” người đàn ông thì thầm. Và giọng điệu của hắn đầy vẻ chế nhạo: Nói tiếp đi.
“Vụ án mà anh ấy đang đảm nhiệm. Tất nhiên rồi. Vụ đột nhập vào bảo tàng Metropolitan. Anh ấy đã suýt soát tìm ra mọi chuyện và kẻ thuê anh cần phải ngăn chặn anh ấy.” Anh cân nhắc những nhân tố khác. “Cả Amelia nữa. Vì cô ấy nhận thay vụ Met… Nhưng giờ anh đã thú nhận tất cả rồi,” Rhyme nói chậm rãi, lo lắng. “Tại sao?”
“Tôi nghĩ là tôi sẽ để câu chuyện dừng ở đó, Lincoln. Có thể là không hay lắm khi nói thêm nữa. Nhưng tôi sẽ cho anh biết không còn ai gặp nguy hiểm nữa. Amelia an toàn rồi. Lí do duy nhất tôi đầu độc cô ấy hay Ron hay cậu trợ lí mọt sách thông minh của anh, Mel Cooper, chỉ là để đẩy trách nhiệm sang phía AFFC thôi. Và hiển nhiên là giờ nó đã vô dụng. Hơn nữa, tôi thay đổi chiến thuật rồi.”
Rhyme tưởng tượng cảnh hắn ta đang nhún vai.
“Tất nhiên anh cũng an toàn. Lúc nào cũng vậy.”
Lúc nào cũng vậy ư?
Rhyme cười phá lên. “Cuộc gọi vô danh báo kẻ nào đó đã đột nhập vào dinh thự của tôi qua cửa sau. Khi Billy lẻn vào để đầu độc whisky của tôi. Đó là anh.”
“Tôi phải để mắt đến cậu ta. Cái đêm cậu ta lẻn vào nhà anh, tôi đã đi theo. Đáng lẽ cậu ta không được giết anh, hay làm hại anh theo bất kì cách nào. Khi cậu ta thay sang bộ đồng phục của thợ và chuẩn bị một mũi tiêm, tôi đã biết cậu ta định làm gì.”
Chuyện này không hợp lí gì cả.
Cho đến một phút sau đó khi anh có một suy luận khác. Rhyme thì thầm, “Anh cần tôi vì lí do gì đó. Anh cần tôi còn sống. Tại sao? Để điều tra một tội ác, tất nhiên rồi. Phải, phải. Nhưng cái nào? Một tội anh mới phạm gần đây?” Còn vụ trọng án nào nữa? Rhyme băn khoăn. Rồi anh nhận ra. “Hay là một vụ sắp xảy ra? Tuần tới?”
“Hoặc tháng tới hay năm tới,” Thợ đồng hồ ướm lời, nghe có vẻ hài hước.
“Vụ đột nhập vào viện bảo tàng Metropolitan? Hay còn gì khác?”
Không một lời nào.
“Tại sao lại là tôi?”
Một khoảng ngừng. “Tôi sẽ chỉ nói rằng kế hoạch mà tôi đã nghĩ ra cần anh.”
“Và nó còn cần tôi biết về nó nữa,” Rhyme đốp lại. “Để cho hiểu biết của tôi trở thành động cơ hay lò xo hay bánh đà cho bộ máy của anh.”
Hắn cười phá lên. “Nói hay lắm. Nói chuyện với người hiểu biết mới thích chứ… Nhưng giờ tôi phải đi rồi, Lincoln.”
“Một câu hỏi cuối?”
“Tất nhiên. Trả lời hay không lại là chuyện khác.”
“Anh đã bảo Billy đi tìm cuốn sách đó, Những thành phố liên hoàn.”
“Đúng vậy. Tôi cần đảm bảo cậu ta lẫn nhà Stanton biết đánh giá anh giỏi đến thế nào – và anh và Amelia đã biết về các tổ chức dân quân lẫn chiến thuật của họ ra sao.”
Rhyme rầu rĩ nói, “Anh không có chút quan tâm đặc biệt nào tới Kẻ tầm xương ư? Tôi đã nghĩ sai.”
“Tôi đoán là anh có quan tâm.”
Một tiếng cười và Rhyme nói, “Vậy mối liên hệ tôi tìm thấy giữa Kẻ tầm xương và anh không hề có thật?”
Im lặng.
“Anh đã tìm được mối liên hệ giữa chúng tôi ư?” Thợ đồng hồ có vẻ tò mò.
“Có một chiếc đồng hồ rất nổi tiếng đang được trưng bày tại Manhattan này. Nó được làm hoàn toàn bằng xương. Một chiếc của Nga, tôi nghĩ vậy. Tôi thắc mắc việc ăn trộm có nằm trong chương trình hành động của anh không.”
“Có một chiếc Mikkhail Semyonovitch Bronnikov trong thành phố này ư?”
“Tôi nghĩ là có. Nhưng anh không biết sao?”
Thợ đồng hồ nói, “Tôi đã hơi bị… phân tâm thời gian gần đây. Nhưng tôi biết rõ chiếc đồng hồ ấy. Nó khá gây kinh ngạc đấy. Từ giữa thập niên 1860. Và anh nói đúng: được làm toàn bộ từ xương, một trăm phần trăm.”
“Tôi đoán sẽ không hợp lí chút nào khi anh mạo hiểm để bị bắt – và lại còn tốn thời gian – khi cố đột nhập vào cửa hàng đồ cổ của Manhattan chỉ để ăn cắp một cái đồng hồ.”
“Không, nhưng đó là suy nghĩ sáng tạo đấy, Lincoln. Đúng như những gì tôi chờ đợi ở anh.” Một khoảng yên lặng khác. Rhyme tưởng tượng rằng hắn đang xem đồng hồ của chính mình. “Giờ tôi nghĩ tốt nhất nên nói tạm biệt, Lincoln ạ. Tôi đã gọi điện quá lâu. Đôi khi những bộ đại diện và bộ đổi số ấy vẫn có thể bị lần theo, anh biết không. Nhưng không có nghĩa là anh thèm thử nhỉ.” Một tiếng cười khùng khục. “Hẹn lần sau…”
Tuần tới, tháng tới, hay năm tới.
Đường dây lặng ngắt.