"T
ôi đã xem bản tin,” Thợ đồng hồ bảo Rhyme. “Anh đã cho đăng ảnh của tôi. Hay đúng hơn là hình phục dựng của hoạ sĩ về tôi trong lốt Dave Weller. Không tồi đâu. Tôi đoán là bộ nhận diện hả. Cả ảnh béo và gầy, có tóc, không có tóc, có râu và không râu. Chẳng lẽ anh không bị ấn tượng với sự hoà trộn này giữa nghệ thuật và khoa học máy tính sao, Lincoln?”
Hắn đang nhắc tới bản thông cáo mà Rhyme đã ép sĩ quan của NYPD phải đăng. “Vậy là nó chính xác hả?” nhà tội phạm học hỏi. “Nhân viên của tôi khi làm việc với hoạ sĩ đã không chắc lắm về chuyện cậu ta có nhớ đúng kết cấu cái má hay không.”
“Anh chàng trẻ tuổi ấy. Pulaski hả?” Thợ đồng hồ có vẻ buồn cười. “Cậu ta quan sát trong không gian hai chiều và rút ra các kết luận từ những dự đoán ban đầu. Cả anh và tôi đều biết nguy cơ của việc đó. Tôi nghĩ cậu ta làm cảnh sát hiện trường thì giỏi hơn hoạt động ngầm. Trong công việc khám nghiệm hiện trường ít phải ứng biến hơn. Tôi đoán bị thương ở đâu phải không?”
“Đúng vậy. Chính xác.”
Thợ đồng hồ nói tiếp, “Cậu ta gặp may vì tôi đã giăng bẫy cậu ta với cục điều tra, chứ không phải mấy tay đồng phạm thực sự của tôi. Nếu không cậu ta đã chết rồi.”
“Có thể,” Rhyme nói chậm rãi. “Bản năng của cậu ta rất tốt. Và rõ ràng cậu ta cũng có ích. Dù sao, tôi chỉ còn có mỗi cậu ta để sai việc trong tình huống ấy. Tôi còn bận ngăn chặn một gã thợ xăm điên rồ.”
Lúc này khi anh đã biết Thợ đồng hồ đã trốn khỏi nhà tù và còn sống, Rhyme nghĩ lại khuôn mặt người đàn ông vài năm trước, hồi lần cuối anh đối diện với hắn. Anh thầm nghĩ đúng là có những điểm tương đồng giữa viên luật sư mà Pulaski đã mô tả với người vẽ phục dựng bộ nhận diện và Thợ đồng hồ từ vài năm trước - những đặc điểm mà giờ Rhyme có thể nhớ lại, mặc dù vài chi tiết chính đã khác. Anh nói, “Anh đã thay đổi khuôn mặt mà không phẫu thuật. Ví dụ như đắp silicon hoặc nhét bông vào má. Còn tóc - chỉ cần những cái kéo thật bén và một con dao cạo – đóng giả kiểu hói đầu của đàn ông giỏi đấy. Cả trang điểm nữa. Hầu hết các studio làm phim đều làm sai. Còn cân nặng – kích cỡ người anh – đó là do bộ quần áo đúng không? Không ai có thể tăng hai mươi lăm cân trong bốn ngày được. Nước da rám nắng thì chắc là từ một cái chai.”
“Đúng vậy đấy.” Một tiếng cười khúc khích. “Có thể. Hay salon tắm nắng. Trong khu vực trung tâm thành phố có tới bốn trăm cơ sở như vậy. Anh có thể muốn bắt đầu đi thẩm vấn đấy. Nếu anh gặp may, đến Giáng sinh anh sẽ tìm được chỗ tôi đã tới.”
Rhyme nói, “Nhưng anh sẽ lại thay đổi - cải biến, nếu phải làm - một lần nữa, đúng không? Vì chúng tôi đã cho đăng bức ảnh.”
“Tất nhiên rồi. Nào Lincoln, tôi tò mò tại sao anh lại cho đăng thông tin của tôi lên báo chí. Anh đã mạo hiểm với khả năng tôi sẽ trốn mất. Mà đúng là thế.”
“Cũng có cơ hội là ai đó sẽ trông thấy anh. Họ sẽ gọi báo. Chúng tôi đã sẵn sàng hành động thật nhanh.”
“Một bản tin gọn ghẽ mọi thông tin.”
Bản thông cáo báo chí mà Rhyme vừa ép buộc đội trưởng cảnh sát đăng lên cho hay một người đàn ông được biết đến với tên Richard Logan, hay Thợ đồng hồ, hay Dave Weller, đã trốn thoát khỏi nhà tù liên bang ở Westchester vài ngày trước. Các hình ảnh trong bộ nhận dạng đã được gửi kèm, cùng với lưu ý có thể hắn còn giả giọng miền Nam.
“Nhưng không có ai báo,” Thợ đồng hồ chỉ ra. “Không ai chỉ điểm được tôi. Vì tôi vẫn ở… nơi nào đó mà tôi đang ở.”
“Ồ, nhân tiện, tôi không buồn lần theo cuộc gọi này đâu. Vì anh đang dùng biện pháp can thiệp và máy chủ chuyển tiếp.”
Đó không phải là một câu hỏi.
“Và chúng tôi đã lục soát hãng luật của Weller.”
Một tiếng cười. “Máy trả lời tự động, một hòm nhận thư ở bưu điện và một website ư?”
“Thông minh lắm,” Rhyme nói. “Chuyên ngành giết người sai trái dường như có hơi tàn nhẫn.”
“Hoàn toàn là ngẫu nhiên thôi. Thứ đầu tiên tôi nghĩ tới.”
Rhyme hỏi, “Nhân tiện, có chút tò mò? Anh không thực sự là Richard Logan đúng không? Đó chỉ là một trong những tên giả của anh.”
“Đúng vậy.”
Hắn không nói tên thật và Rhyme cũng không buồn thúc ép.
“Vậy anh đã phát hiện ra tôi vượt ngục à?”
“Như phần lớn những việc tôi làm - việc hai ta cùng làm – có một giả định.”
“Một linh cảm,” Thợ đồng hồ nói.
Rhyme nghĩ đến Sachs, người thường cằn nhằn vì anh hay chế nhạo từ ấy, anh mỉm cười. “Nếu anh phải nói vậy.”
“Mà sau đó anh đã xác nhận lại bằng kinh nghiệm. Và điều gì đã làm anh giả định như thế?”
“Trong ba lô của Billy Haven chúng tôi tìm được một cuốn sổ, Cuộc Biến cải, một hướng dẫn cách đưa chất độc botulinum vào nguồn nước của thành phố New York. Cực kì sang trọng. Nó giống như một bản hướng dẫn cơ khí vậy, từng bước đều được định hình, tính toán thời gian đến từng phút. Tôi không nghĩ nhà Stanton và Billy có khả năng nghĩ ra một thứ phức tạp đến thế: một tên giết người hàng loạt đánh lạc hướng mọi người khỏi âm mưu nhắm tới nguồn cung cấp nước của thành phố bằng bom, bản thân nó cũng chỉ là để che đậy một âm mưu thực sự là đầu độc nguồn nước. Và anh đã học cách biến chất độc thành vũ khí. Kháng clorin. Quả là một thành tựu đấy.”
“Anh tìm thấy cuốn sổ à?” Người đàn ông có vẻ không hài lòng. “Tôi đã bảo Billy gõ nó ra thành một file điện tử mã hoá trên một chiếc máy tính không truy cập internet. Rồi huỷ bản chính đi.” Một khoảng ngừng. “Nhưng tôi không ngạc nhiên. Cả cái băng từ miền nam Illinois ấy có vẻ khá là analog. Đúng thật, không đặc biệt sáng dạ cho lắm. Giống các loại chất độc Billy quyết định dùng ấy? Tôi đã gợi ý hoá chất thương mại nhưng Billy lại yêu thích thực vật. Cậu ta dành rất nhiều thời gian ở một mình trong rừng, tôi đoán vậy, để vẽ phác chúng khi còn nhỏ. Thời niên thiếu dữ dội khi mà cha mẹ bị chính quyền liên bang giết còn kim chỉ nam đạo đức thì lại là một tổ chức dân quân phát xít.”
“Biến cải? Từ anh nghĩ ra đấy à?”
“Đúng vậy, từ của tôi đấy. Mặc dù tôi đã được truyền cảm hứng từ nghề nghiệp của Billy. Cải biến cơ thể. Nó hợp với quan điểm khải huyền của họ. Thực ra tôi cũng thấy xấu hổ đấy. Nghe ngang phè ra. Nhưng họ lại thích.”
“Anh đọc cho Billy chép toàn bộ kế hoạch ư?”
“Đúng vậy. Cả cho bà dì. Nhưng Billy đã chép lại. Họ tới thăm tôi trong tù. Giả vờ là Billy đang viết một cuốn sách về cuộc đời tôi.” Hắn ngừng lại. “Có một câu chuyện mà tôi muốn kể đến chết đi được, nhưng lại chẳng tìm thấy người nghe thích hợp. Tôi nghĩ anh sẽ đánh giá cao nó, Lincoln. Khi tôi đọc xong kế hoạch và cậu ta đã chép hết, tôi đã nói, “Tất cả là của cậu đấy, Moses. Tiến hành đi.” Billy và Harriet đã không hiểu. Tôi biết anh không lạ gì với khái niệm về lí thuyết Chúa là một thợ đồng hồ.”
Trong lúc ngẫm nghĩ về nguồn gốc vũ trụ, Isaac Newton, René Descartes và những người khác trong thời kì Cách mạng Khoa học thuộc thế kỉ mười bảy, mười tám đã tranh luận rằng một thiết kế đòi hỏi phải có người thiết kế. Nếu một thứ phức tạp như đồng hồ không thể tồn tại mà không có thợ đồng hồ, cuộc đời của một con người hữu hạn trong vũ trụ - còn phức tạp hơn một chiếc đồng rất nhiều - chắc chắn không thể tồn tại mà không có Chúa trời được.
“Tôi đã phải giải thích rằng, vì biệt danh của tôi, đọc Cuộc Biến cải cho họ chép giống như việc tôi là Chúa trời, đang truyền dạy Mười lời răn cho Moses vậy. Tôi chỉ nói đùa thôi mà họ tưởng là thật. Họ bắt đầu nhắc đến kế hoạch ấy như là Những lời răn về Cuộc biến cải.” Hắn tặc lưỡi. “Tôi cảm thấy tiếc cho những kẻ không biết đánh giá sự châm biếm. Nhưng quay lại vấn đề đi: làm thế nào anh phát hiện ra tôi… Nếu anh sẵn lòng chia sẻ.”
“Tất nhiên rồi.”
“Anh đã có cuốn sổ. Nhưng nó không phải là nét chữ của tôi; mà là của Billy. Không có dấu vân tay lẫn ADN. Tôi chưa bao giờ chạm vào nó. Và, đúng, có rất nhiều tham chiếu đến chuyện canh thời gian chính xác – khi nào thả độc và ở đâu, các cuộc tấn công đánh lạc hướng, khi nào sai Joshua, em họ của Billy, mang ắc-quy và đèn vào các đường hầm nơi tội ác đã diễn ra, cần bao nhiêu phút sau khi ai đó gọi chín một một để cảnh sát có thể tới đúng lúc. Tất nhiên là đều phải canh thời gian cả. Nhưng từ ấy mà nhảy đến kết luận tôi vượt ngục được sao?”
Rhyme thắc mắc người đàn ông đang đứng ở đâu, tư thế như thế nào. Hắn có ở bên ngoài, lạnh không? Hay ở bên trong nhà, nóng, trong thời tiết ấm áp dễ chịu? “Báo ứng” là một thuật ngữ không chính xác, chưa nói đến chuyện cường điệu quá. Nhưng Rhyme cho phép mình nghĩ về Thợ đồng hồ theo cách này. Anh nói, “Vật chứng.”
“Việc đó không làm tôi ngạc nhiên, Lincoln. Nhưng cái gì?”
“ Tetrodotoxin. Chúng tôi đã tìm thấy dấu vết.” Loại siêu độc từ cá nóc.
“Ôi trời…” Một tiếng thở dài từ đầu dây bên kia. “Tôi đã dặn Billy huỷ mọi dấu vết đi rồi.”
“Tôi chắc là cậu ta đã cố. Chỉ còn một lượng rất nhỏ của chất ấy ở một hiện trường.” Hơn tất cả, Rhyme biết rõ việc huỷ mọi bằng chứng vật chất khó khăn đến chừng nào. “Chúng tôi đã không tìm được chút nào trong nhà trú ẩn của cậu ta, vậy thì nó phải tới từ đâu? Tôi đã kiểm tra trên VICAP1 và không ai từng dùng nó trong bất kì một vụ án nào được báo cáo trong mấy năm gần đây. Vậy Billy có thể làm gì với tetrodotoxin? Rồi tôi nhớ ra: Một manh mối nằm trong biệt danh của nó, thuốc độc zombie. Để giảm nhịp tim và giả chết.”
1 VICAP là viết tắt của Violent Criminal Apprehension Program, tạm dịch là ‘Chương trình hiểu rõ tội phạm bạo lực’.
“Đúng vậy.” Thợ đồng hồ thừa nhận. “Billy đã mang đến một ít, nhét vào trong mấy trang sách. Ở trong tù họ kiểm tra dao nhọn và heroin chứ không phải mấy milligram trứng cá. Tôi đã dùng nó để làm giả vụ đau tim và được chuyển đến bệnh viện ở White Plains.”
Phải chăng đằng sau hắn là tiếng hải âu kêu? Rồi còn có tiếng còi tàu? Không, còi báo sương. Thú vị thật. Ngày nay người ta rất ít khi dùng chúng trong thời đại rađa và GPS. Rhyme ghi lại. Một luồng sáng trên màn hình máy tính của anh. Đó là tin nhắn của Rodney Szarnek, chuyên gia tội phạm trên mạng. Tin nhắn báo cáo việc phân tích cuộc gọi của Thợ đồng hồ tới chỗ Rhyme đã thất bại; nó dừng ở một bộ chuyển đổi máy chủ ẩn danh tại Kazakhstan.
Rhyme đã nói dối về chuyện lần theo cuộc gọi.
Anh thầm nhún vai – không mạo hiểm thì làm gì có thành công – và quay lại với cuộc nói chuyện. “Mặc dù vậy, thứ cuối cùng đã thuyết phục tôi lại là một sai lầm của anh.”
“Thật sao?”
“Khi anh ở trên phố với Ron Pulaski, anh có nhắc tới âm mưu ám sát quan chức cảnh sát liên bang ở Mexico. Dự án anh đã dàn dựng vài năm trước.”
“Đúng. Tôi muốn nhắc tới một thứ gì đó cụ thể. Để lấy niềm tin.”
“ À, nhưng vụ án ấy đã bị niêm phong. Nếu anh là một luật sư thật chưa bao giờ gặp mặt Richard Logan như anh tuyên bố, anh sẽ không thể biết gì về vụ ở thành phố Mexico cả.”
Một khoảng dừng. “Bị niêm phong?”
“Rõ ràng Bộ ngoại giao và Văn phòng Luật của Mexico đã không vui vẻ gì với việc anh - một người Mĩ - suýt nữa thì giết một cán bộ cấp cao trong ngành hành pháp Mexico. Họ thà làm ra vẻ vụ việc chưa bao giờ xảy ra còn hơn. Không có một mẩu tin nào về việc đó.”
“Ồ.” Giọng hắn có vẻ cay đắng.
Rhyme nói, “Giờ trả lời tôi một câu nhé.”
“ Được.”
“Làm thế nào anh kiếm được bản hợp đồng ấy? Làm cho nhà Stanton và AFFC ấy?”
“Đã đến lúc thoát khỏi tù. Tôi đã liên hệ với những người dính dáng đến vụ khủng bố nội địa vài năm trước, khi chúng ta đối đầu nhau đấy. Nhớ chứ?”
“Tất nhiên.”
“Bọn họ đã bắt mối cho tôi với AFFC - một tổ chức da trắng thượng đẳng khác. Tôi bảo họ rằng tôi có thể đưa tên tuổi họ lên bản đồ. Harriet và Billy tới thăm tôi trong tù và tôi vẽ ra kế hoạch. Nhân tiện, anh đã bao giờ gặp họ đi cùng nhau chưa, cặp dì cháu ấy? Có sự thôi thúc khó chịu giữa hai người họ. Làm cho cái tên Những gia đình Mĩ thứ nhất mang một nghĩa hoàn toàn mới.”
Rhyme lưỡng lự. Nhận xét ấy, dù đúng hay không, cũng không làm anh quan tâm.
Thợ đồng hồ nói tiếp, “Bọn họ muốn gây tiếng tăm cho bản thân. Nên chúng tôi cùng thảo luận. Tôi nghĩ ra ý tưởng bỏ độc botulinum trong nước uống. Tôi đã biết Billy là thợ xăm. Chúng tôi xăm lên các nạn nhân với một thông điệp trong Kinh Cựu ước. Khải huyền, tôi nói vậy. Họ yêu thích cái kiểu chơi chữ ấy lắm. Một hành động tuyên ngôn cho những giá trị ngốc nghếch của bọn họ. Họ cũng thích khi tôi gợi ý dùng độc làm vũ khí giết người. Ồ, bọn họ cứ nuốt từng lời. Matthew ấy. Billy và Harriet có vẻ nóng nảy hơn. Anh biết đấy, Lincoln, bọn óc ngắn là những kẻ đáng sợ nhất.”
Không nhất thiết, nhà tội phạm học nghĩ, nếu cân nhắc đến kẻ mà anh đang nói chuyện cùng ngay lúc này.