Jules Sylvestre về phần mình đã muốn chứng minh là, vào trước ngày xảy ra biến cố (ngày 5 tháng 7 năm 1885), giá trị của kho báu [triều Nguyễn], không chỉ dừng ở mức 9 triệu, mà phải lên đến 378 triệu [quan Pháp]171. Để đạt đến con số cực kỳ lớn này, Sylvestre đã vận dụng các phép tính cầu kỳ uyên thâm. Đầu tiên, ông cho rằng ngân sách [triều đình Huế] năm 1878, mà ông được cung cấp thông tin, và tiếp đó ông đã “điều chỉnh”, trong một buổi họp với quan lại tại Bắc Kỳ, tương ứng với ngân sách hàng năm là ngân sách mẫu dưới các triều liên tiếp từ vua Minh Mạng (1820-1840), vua Thiệu Trị (1841-1847) đến vua Tự Đức (1848-1883) và tiếp theo những năm 1884, 1885. Sylvestre tính toán số tiền dôi ra không sử dụng của năm đó [1878], rồi nhân với số năm dự trù: dẫn đến con số là 505.554.020 xâu tiền, tương đương 378.415.515 quan Pháp, vì ông đề ra giá trị 0,75 quan Pháp tương đương với một xâu tiền (ligature sic).
171 Jules Sylvestre, L’Empire d’Annam et le peuple annamite, Paris, Félix Alcan, 1889, p. 337-339.
Về giá trị kho báu, con số của Sylvestre được ước tính quá sức cao. Nhận xét như vậy có nhiều lý do. Số tiền [triều đình] thu được cho năm 1878 được Sylvestre ước lượng là 39.448.244 xâu tiền172, nhưng theo những thông tin mà Bộ Ngoại giao [Pháp] có được cho năm đó, số tiền chỉ là 5.798.925 xâu tiền173: chênh lệch giữa hai con số là gấp 6 lần! Thật vậy, tất cả các con số liên quan đến ngân sách [triều đình Huế] về cả thu và chi, của “năm trung bình” đó [1878] là không đáng tin cậy. Tiếp đó, dù cho có chấp nhận một con số như vậy, việc từ đó suy diễn ra trên một thời đoạn dài đến 64 năm là không thể chấp nhận xét về mặt phương pháp. Sylvestre đã không tính đến việc, cho đến mãi năm 1875, Việt Nam được phân thành hai vùng theo hai chế độ thuế khóa khác nhau: phía nam (từ miền Nam ra đến Quảng Bình) thuế điền thổ là không phân biệt, trong khi đó ở vùng miền Bắc, đất đai làng xã bị đánh thuế cao hơn nhiều so với đất đai tư hữu. Năm 1875, cải cách thuế khóa đã thống nhất thuế điền thổ, dẫn đến hậu quả là thuế thu cao hơn rất nhiều, theo đó làm gia tăng gánh nặng thuế khóa cho các tỉnh miền Bắc, trong khi cùng lúc người nông dân đã rơi vào tình trạng kiệt quệ hoàn toàn174. Sau đó, một số nguồn thu từ thuế đã thu lợi được nhiều hơn nhờ chuyển sang cơ chế thu tô: chẳng hạn, thu từ việc cho khai thác buôn bán thuốc phiện, năm 1878, lên đến 696.482 xâu tiền, trong khi, năm 1865, thu thuế trực tiếp đánh trên thuốc phiện chỉ đạt 382.200 xâu tiền, nghĩa là thu [năm 1878] gần gấp đôi. Theo như số tiền do Sylvestre đưa ra, triều đình nhà Nguyễn, chiếu theo hiệp ước ngày 5 tháng 6 năm 1862, đã có thể trả ngay tức thì phí bồi thường chiến tranh cho phía Pháp. Số tiền bồi thường phải trả là 4 triệu pesos, tương đương với 21.480.000 quan Pháp175, chưa đến một phần mười kho báu hay kho tàng của triều đình Huế vào năm 1862: theo như phương pháp tính toán của Sylvestre, kho tàng triều đình có thể phải lên đến 248.335.181,7 quan Pháp. Trong khi đó, chúng ta được biết là triều đình Huế đã không sao trả nổi số tiền 400.000 pesos, thanh toán làm hai lần mỗi năm, cuối cùng triều đình cũng đạt được việc không phải trả số tiền bồi thường còn nợ lại, chiếu theo điều khoản số 6 hòa ước ngày 15 tháng 3 năm 1874176. Với việc xóa nợ như vậy, vua Tự Đức đã cảm thấy nhẹ nhõm: trong một bản chiếu chỉ công bố sau khi ký hòa ước nêu trên, vua đã than thở là “nguồn lực của vương triều đã cạn kiệt, nhân dân đã kiệt sức, tài chánh thâm hụt, quốc khố trống rỗng”177. Cuối cùng cần phải nói là Sylvestre đã không chú ý đề cập 64 năm lịch sử tình hình kinh tế, nông nghiệp và quân sự [xứ An Nam trong giai đoạn xảy ra biến cố ngày 5 tháng 7] vốn tác động rất nhiều việc lên xuống thu chi của triều đình Huế. Paulin Vial, người kế nhiệm tạm thời [Thống sứ] Paul Bert [1833-1886], ước chừng kho tàng triều đình Huế vào khoảng trên dưới một trăm triệu [quan Pháp], nghĩa là chỉ khoảng chưa đến một phần ba theo cách ước tính của Sylvestre. Theo Paulin Vial, của cải được các hoàng đế An Nam dành dụm tích cóp hàng năm, theo như các con số Sylvestre đưa ra, là đáng ngờ: “những con số như thế có thể do người An Nam khuếch đại lên”178.
172 Ibidem, p. 340; Jules Sylvestre, “Politique française dans l’Indochine” op.cit., XII, p. 95.
173 Archives Affaires étrangères MD, Asie. 57, f°52.
174 Nguyên Thê Anh, “La réforme de l’impôt foncier de 1875 au Vietnam”, BEFEO, 1991, p. 287-296.
175 Giá trị của đồng tiền, gọi là peso, không dấu đóng, được quy định tương đương 5,37 quan Pháp ngày 3 tháng 3 năm 1863 (Albert Schroeder, Annam. Etudes numismatiques, op.cit. p. 515).
176 Ministère des Affaires étrangères, Documents diplomatiques. Affaires du Tonkin I, op.cit. p. 3.
177 Cité dans Nguyên Thê Anh, “La réforme de l’impôt foncier […] op.cit. p. 287.
178 Paulin Vial, Nos premières années au Tonkin, Paris, Voiron, 1889, p. 254-255.
Nhưng Sylvestre đưa ra một con số [lớn đến] như vậy vì mục đích hay lợi ích gì? Đầu tiên hết, Sylvestre có chuyện ân oán cần giải quyết với tướng Philippe-Marie André Roussel de Courcy: không những De Courcy đã bắt Sylvestre ở lại Hà Nội khi các biến cố tháng 7/1885 [tại Huế] nổ ra, mà còn ra tay không kể gì đến những nhận xét tính toán của Sylvestre, do đó De Courcy đã làm đổ vỡ một chính sách rất khôn ngoan tài tình mà Sylvestre đã tự thân lên kế hoạch hơn một năm trời. Và thực tế là, vào cuối tháng 7 năm đó, De Courcy đã phải cho vời khẩn cấp Sylvestre vào Huế (xem chương 8). Ngoài ra, Sylvestre mong muốn chỉ ra rằng những than vãn của triều đình về [thiếu thốn khó khăn] tài chính là không có cơ sở, và rồi cuối cùng, như chúng ta sẽ đề cập sau này, Sylvestre muốn đề cao việc bản thân thu hồi được một phần các nén vàng, nén bạc ở vùng Quảng Bình. Ý tưởng chính yếu của Sylvestre đó là hai quan Phụ chánh [Tường và Thuyết trước đó] đã di chuyển kho báu về Tân Sở và các tỉnh phía bắc, và rằng chỉ có một chiến dịch được quân đội [Pháp] hỗ trợ mới có thể thu hồi lại được tiền bạc của cải, từ đó xây dựng lại kho lẫm kho báu của vương triều Huế theo hướng phục vụ cho công cuộc bảo hộ [của Pháp].
Điều chắc chắn là một phần kho báu [triều Nguyễn] đã thoát khỏi tầm tay của người Pháp, cho dù, theo thời gian, phần [kho báu] như vậy đã được thổi lên đến mức mà những tư liệu đầu tiên có được không thể nào khẳng định. Bài vè [Thất thủ Kinh đô] xuất hiện vào những năm 1900-1910, nhắc lại: “Người ta chở về Tân Sở kho báu nhà vua, nào là nén vàng, nén bạc, nào là ngọc ngà châu báu”179. Sylvestre muốn đóng vai trò chủ chốt hàng đầu trong vụ việc, cho rằng khi “tình thế buộc [hai Phụ chánh] Tường và Thuyết bộc lộ con người và mưu đồ thực sự”, thì trước đó tất cả số vàng bạc của hoàng đế An Nam đã được cất giấu xong đâu đó khắp xứ sở. Chính vì thế, theo Sylvestre, khi kinh thành thất thủ, người Pháp đã chỉ thâu tóm được phần nén vàng, nén bạc cùng những đồng tiền thưởng “còn sót lại” với tổng trị giá [chỉ] lên đến 13 triệu quan Pháp180. Của chẳng đáng gì [theo Sylvestre] so với hàng trăm triệu quan Pháp mà Sylvestre cho rằng đã bị tẩu tán khắp đất nước, mà Tôn Thất Thuyết và triều đình Huế đang bôn tẩu có thể tùy nghi sử dụng. Việc tẩu tán theo giả thuyết như vậy sẽ ám ảnh lâu dài các vị công sứ khâm sứ, các sĩ quan, các nhà báo ở vùng Đông Dương: theo những giới này, bất cứ cuộc nổi dậy ngoan cố, người nổi loạn lì lợm nào cũng đều có thể liên quan đến số vàng bạc của triều đình Huế được cất giấu đi [nay đem ra sử dụng chống Pháp].
179 E. Le Bris, “Complainte annamite […]”, op.cit. p. 17.
180 Jules Sylvestre, L’Empire d’Annam […]; op.cit. p. 346.
Tuy nhiên, nhiều nhân chứng nói ngược lại những khẳng định của Sylvestre, cả về những chuyến di chuyển kho lẫm, cả về những gì được tìm thấy ở hoàng cung [Huế]. Sau sự kiện đêm ngày 4 tháng 7, quan Phụ chánh [đại thần] Nguyễn Văn Tường nói với Palasne de Champeaux rằng, ngay từ đầu tháng 6, chính ông với Tôn Thất Thuyết đã cho chở ra Tân Sở một lượng lớn nén bạc lên đến con số 300.000 lượng (nghĩa là gần tương đương với số tiền bồi thường chiến phí mà Việt Nam phải trả cho Pháp mỗi năm, chiếu theo hòa ước ký tại Sài Gòn): số tiền như thế tương đương với 600 hòm tiền cần phải chuyên chở. Ông Tường nói thêm, vài ngày trước thời điểm biến cố với sự trốn đi của triều đình Huế, Tôn Thất Thuyết còn muốn cho di chuyển số vàng bạc còn lại ở kho lẫm triều đình, có khối lượng trong khoảng 650.000 đến 700.000 lạng, giá trị tương đương với 5,5 triệu quan Pháp181. Nhưng ông Tường nói tiếp là “nhờ ông mà biện pháp này đã không được thực hiện”182. Chúng ta biết là Nguyễn Văn Tường không có cùng những mưu đồ chính trị như Tôn Thất Thuyết, và rất có khả năng Nguyễn Văn Tường, khi trụ lại [tại kinh thành] như sự thể đã diễn ra như thế, mong muốn dùng những phương tiện tài chính cho những ý đồ của riêng ông. Nếu chúng ta chấp nhận những con số ông Tường đưa ra, có thể nhận định là, vào đầu tháng 6, phần của cải triều đình ở dạng nén bạc là vào khoảng 1 triệu lạng, nghĩa là tương đương hơn 8 triệu quan Pháp. Chúng ta chú ý là Tường không nói gì về vàng, nén [vàng] hay tiền thưởng.
181 Theo Jules Sylvestre, nén bạc loại 10 lạng có giá trị là 81,57 quan Pháp: Jules Sylvestre, L’Empire d’Annam […] op.cit. p. 347.
182 Archives de la Résidence supérieure, cité dans Adolphe Delvaux, “Quelques précisions […]”, op.cit. p272.
Ngoài việc khẳng định “toàn bộ vàng trong kho lẫm [triều đình]” đã được chôn giấu, Sylvestre còn cho rằng “các bức điện của tướng De Courcy, đã được công bố, cho thấy bằng chứng: đã không còn nén vàng nào trong Kho tàng [hoàng cung]”183. Trong khi đó, trong văn khố của Bộ Ngoại giao [Pháp] người ta tìm thấy một bức điện của tướng De Courcy gửi cho Bộ Chiến tranh, đánh đổ hẳn lời bàn của Sylvestre:
183 Jules Sylvestre, L’Empire d’Annam […] op.cit. p. 346, note 1.
“Việc giữ im lặng của quý vị về việc thành lập các đội quân bản địa gây khó xử rất nhiều cho bản thân tôi; thời điểm này là rất thuận lợi; của cải kho báu sẵn đây để chi trả cho việc tổ chức [những đội quân như vậy] […], giá trị nén vàng, nén bạc cất giấu trong các hầm bảo vệ được ước tính khoảng 9 triệu [quan Pháp]; ngoài ra [tôi] còn phát hiện khoảng một triệu [quan Pháp với những] ấn tín và sách bằng vàng.”184
184 Archives Affaires étrangères MD Asie 47, f°121.
Với những nén bạc được định giá là 5 triệu [quan Pháp], chúng ta có thể suy ra lượng vàng lên đến 4 triệu [quan Pháp]. Thêm vào đó, phóng viên của hãng Havas, như đã đề cập ở trên, nói là “trong năm ngày liền, [ông] đã thấy năm mươi người chuyên lo chuyện xếp chồng các nén vàng, nén bạc”. Bên cạnh đó, “Bảng tổng kết” (Tableau récapitulatif sic) được Sở Đúc tiền Paris phía Pháp lập ra để tiếp nhận kho báu của [triều đình] Huế, đã ghi lại một con số không nhỏ là 5.623 nén vàng185, điều này ngầm hiểu là tổng số vàng phía Pháp lấy được vào tháng 7 năm 1.885 lên đến hơn 10.000 nén vàng với nhiều chủng loại khác nhau (xem chương 8). Mặt khác, nếu chúng ta liệt kê lại tất cả những gì được nói ra viết ra liên quan đến chuyện nén vàng, nén bạc hay rương hòm, kể cả những gì Sylvestre đã nêu, thì chúng ta vẫn còn rất xa với con số 600 hòm [vàng bạc] Nguyễn Văn Tường đã thú nhận với Palasne de Champeaux. Hẳn nhiên, Tôn Thất Thuyết đã thận trọng phân phối các hòm của cải ở một số tỉnh thành để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến, rồi tiếp đó đoàn ngự giá cũng mang theo rương hòm của cải mà Tôn Thất Thuyết sẽ mang đi cất giấu. Lời kể về chuyến xuất thành của vua [Hàm Nghi] cho thấy, trong giai đoạn đầu, đoàn người trốn chạy vẫn còn mang theo mình một số hòm chứa nén bạc, vài hòm chứa nén vàng và một lượng rất nhỏ các đồng tiền thưởng bằng vàng, nhưng lời kể cũng cho thấy, vào giai đoạn cuối chuyến đi gian khổ bi tráng, các chỉ huy nổi dậy và triều đình đã rơi vào cảnh khốn khổ khốn cùng.
185 Archives AMM, Dossier Huê, 9/10/1886.
Một lượng nén vàng bạc được quân Pháp cùng với lực lượng cấp tỉnh thu lại được tại Quảng Bình nhưng khó có thể liệt kê rõ được số lượng. Sylvestre nói là ông “chỉ mất ba ngày tìm kiếm để phát hiện và thu hồi về cho ngân khố Quảng Bình” một phần của kho tàng kho lẫm [triều đình] mà ông ước tính có đến 2.516 nén vàng và 5.850 nén bạc, với giá trị lên đến “gần bốn triệu [quan Pháp]”186. Nhưng lời kể của chính Sylvestre về những ngày tháng đó tuyệt đối không cho phép đi đến những con số như vậy.
186 Jules Sylvestre, L’Empire d’Annam […] op.cit.p. 349.
Ngày 23 tháng 7, trên đường đi Huế theo yêu cầu của De Courcy, vì De Courcy không biết giải quyết thế nào cuộc khủng hoảng chính trị [tại kinh thành], Jules Sylvestre và Nguyễn Hữu Độ, tổng đốc Hà Nội, dừng lại ở Đồng Hới, nơi đang chuẩn bị một cuộc hành binh nhằm chặn bắt vua Hàm Nghi. Ngày 24, Sylvestre được quan Tuần phủ tỉnh Quảng Bình cho biết “trong tỉnh có khả năng còn tồn tại 30 hòm chứa nén bạc ở Dinh Diên (Vạn Xuân), mỗi hòm chứa 50 nén, mỗi nén giá trị khoảng 81,57 quan Pháp, nghĩa là giá trị mỗi hòm khoảng 4078,50 quan Pháp, 50 hòm nén bạc ở nhà ông Võ Trọng Bình187 và cuối cùng là 50 hòm nén vàng ở nhà vị đại quan Lê Mô Khai188 (50 nén mỗi thùng, 1.386,80 quan Pháp mỗi nén, vị chi là 69.340 quan Pháp mỗi hòm). Đoàn quân lên đường nhưng sớm được tin là đoàn ngự giá quay lui đổi hướng (xem chương 7), Sylvestre liền đi tìm ngay những hòm vàng bạc quan Tuần phủ đã báo tin. Ngày 25 tháng 7, quan làng Vạn Xuân [Quảng Bình] trao cho Sylvestre 21 hòm chứa nén bạc (tương đương 85.648,50 quan Pháp), quan lại mang thêm đến 9 hòm (tương đương 36.706,50 quan Pháp) tìm thấy trong làng; ngày 26, Võ Trọng Bình nộp lại 27 hòm nén bạc (tương đương 110.119,50 quan Pháp) trên tổng số 30 hòm mà Tôn Thất Thuyết đã giao cất giữ. Ba hòm bị thiếu mất đã được dùng để trả lương và thưởng cho lính tráng đi theo với đoàn vận chuyển. Ngày 27, 16 nén vàng, thu giữ từ những kẻ đào ngũ thuộc lực lượng của ông Thuyết, được những người nông dân giao nộp lại (tương đương 22.188,80 quan Pháp). Tổng số nén thu lại được trong ba ngày đáng nhớ hôm đó có giá trị lên đến 254.663,30 quan Pháp. Giá trị lên đến 4 triệu [quan Pháp] được Sylvestre thông báo, thực tế là tổng số tiền của tất cả những khoản mà tuần phủ Quảng Bình (có thể đã) nêu ra vào ngày 24 tháng 7. Con số như thế [từ Sylvestre] không phải là tổng giá trị của những gì đã thực sự thu lại được! Những cách tính toán ly kỳ của Sylvestre đã được nhiều tác giả khác nhắc lại, thậm chí khuếch đại lên, như Gosselin hay Vial, nhưng trong một bức điện, De Courcy đưa ra một con số rõ ràng ít hơn nhiều: “một phần của cải được Thuyết mang theo đã được thu hồi: khoảng 1.000.000 quan Pháp ở Đồng Hới, và 250.000 quan Pháp do từ một đoàn lính An Nam điều động đi Quảng Trị”189. Chúng ta lưu ý là tướng De Courcy không nói gì về vai trò của Sylvestre trong việc thu hồi số của cải ở Đồng Hới (Quảng Bình), trong khi ông lại nói rõ số của cải ở Quảng Trị là thu lại “do từ một đoàn lính An Nam”: như vậy giá trị lên đến 250.000 quan Pháp tương ứng với 35 hòm tiền được quân địa phương ở Ngữu Cước, tỉnh Quảng Trị, thu được vào ngày 27 tháng 7 năm 1885 (xem chương 7). Vấn đề còn lại là tìm hiểu tại sao tổng số hòm Sylvestre thu được có giá trị 254.663,30 quan Pháp, trong khi De Courcy nói đến con số giá trị khoảng một triệu [quan Pháp] lấy được tại Đồng Hới. Hình như chính ngay giới chức tại địa phương đã nẫng đi một số hòm: người ta lưu ý là Võ Trọng Bình đã giao 80 hòm chứa nén và đồng piastres với 8 nén vàng, trực tiếp cho giới chức Quảng Bình, rồi giới chức tỉnh này giao lại cho giới chức Pháp190. Nhưng các con số [về kho báu] vẫn không ngừng mê hoặc làm quay cuồng một số người: năm 1895, Charles Gosselin191, người tự nhận nắm được những thông tin mật từ chính miệng vua Hàm Nghi, đã đề nghị Bộ trưởng Bộ Thuộc địa cho tiến hành dẫn dắt một chuyến thám sát để tìm lại kho báu bí ẩn ở vùng Quảng Bình mà ông ước tính khoảng hơn 60 triệu quan Pháp! Vì biết nhân cách đặc biệt và tính khí hoang tưởng của nhân vật Gosselin, giới chức đã không thông qua một chuyến phiêu lưu tìm kho báu như vậy192.
187 DG: Có lẽ tác giả muốn nói đến vị quan nổi tiếng thanh liêm Võ Trọng Bình (1808- 1898); xem thêm: https://www.quangbinh.gov.vn/3cms/vo-trong-binh-(1808-1898).htm.
188 DG: Có lẽ tác giả muốn nói đến danh tướng Lê Mô Khải (1836-1895) có tham gia vào phong trào Cần Vương: https://dukhach.quangbinh.gov.vn/3cms/lang-mo- danh-tuong-can-vuong-le-mo-khai.htm.
189 Lucien Huard, La Guerre au Tonkin, op.cit. p. 926.
190 Adolphe Delvaux, “Quelques précisions […]”, op.cit.p. 272.
191 DG: Về Charles Gosselin, Amandine Dabat đã dành hơn 40 trang để mô tả nhân vật này, được xem như là một “người bạn gần gũi” với “hoàng thân Ưng Lịch” tại Alger, xem “Empereur en exil, artiste à Alger”, Sorbonne Université Presses, Paris 2019 (t. 250-289).
192 Amandine Dabat, Exil d’empires: du trône de Huê aux collines d’Alger, Hàm Nghi (1871-1944), master 1, Langues, cultures et sociétés du monde, INALCO 2013, p. 62-70.
Trong lúc Sylvestre và De Courcy đo đếm cân đong nén vàng, nén bạc thu được và mọi người tự hỏi về tầm vóc ban đầu của kho lẫm kho báu vương triều thì [một câu hỏi khác được đặt ra:] phía triều đình Huế trên đường trốn chạy có còn thực sự đủ vật lực tài chính để đảo ngược tình thế, để trang trải đáp lại lòng trung thành nhiều phần chao đảo của quan lại thân hào, hay chỉ đủ để trả lương vài đội lính thú đang hộ giá trong một chuyến ra đi thật phiêu lưu?