VII. Lời của nhà văn, lời của nhà thơ
Tất cả những diễn ngôn, tự sự, ghi chép, thư từ nêu trên trông như một bản luân vũ không có hồi kết, triền miên hồi đáp trong sử văn. Có xuất hiện trở lại đây đó trong tác phẩm của F.Thierry đang trong tay của độc giả ngày nay hay không? Đương nhiên là có, những tham chiếu trở lại với các diễn ngôn của J.Sylvestre, C.Gosselin, A.Delvaux, Lebris v.v. đã được xem xét đối chiếu qua lại. Sử gia ngày trước như chỉ muốn xâu chuỗi liền mạch sử liệu thông qua các sự kiện (événements), F.Thierry lại như như muốn xâu chuỗi dòng biến cố với các xâu tiền (ligatures): chất trong rương hòm hay chôn dưới nền gạch hoàng cung, cũng là một động cơ quan trọng của dòng sự kiện biến cố. F.Thierry đã như tạo điều kiện cho chúng ta ngày nay, vượt qua những khẩu hiệu nhân văn, nhân bản, nhân quyền của sứ mệnh khai hóa, nhận ra một động cơ khác của lịch sử, thường tiềm ẩn nhưng không kém phần khốc liệt: tiền, vàng bạc, đá quý, ngoại tệ, cổ vật! Không có gì ngạc nhiên, F.Thierry650 là một chuyên gia của Sở Đúc tiền Paris (Monnaies de Paris651), một định chế lâu đời nhất652 của nước Pháp, tác giả đã có những công trình nghiên cứu sâu về hệ thống tiền tệ hay tiền cổ tại các nước châu Á nói chung, dưới thời nhà Nguyễn653 nói riêng. Nhờ vậy, độc giả ngày nay sẽ được biết chi tiết hơn về số phận kho báu triều Nguyễn vào tay người Pháp sau ngày định mệnh “23 tháng 5”:
650 Xem thêm phỏng vấn ông Victor Hundsbuckler, người phụ trách di sản và các bộ sưu tập của Monnaie de Paris, trong những ngày trưng bày các đồng tiền thời Nguyễn tại Paris (tháng 9/2017), có đề cập đến tác phẩm “Le trésor de Huê”: “Việt Nam: Kho báu duy nhất còn lại của triều Nguyễn ở Monnaie de Paris” - Tạp chí Việt Nam (rfi.fr). Về François Thierry: François Thierry (numismate) — Wikipédia (wikipedia.org)
651 “Monnaies de Paris” là tên doanh nghiệp (nom commercial), định danh chính thức là “Vụ Tiền tệ và Huân huy chương” thuộc Bộ Kinh tế, Tài chính và Công nghiệp.
652 Được thành lập ngày 25 tháng 6 năm 864 dưới triều vua Charles Đệ Nhị.
653 François Thierry, “Monnaies et circulation monétaire au Vietnam dans l’ère de Tư Duc (1848-1883)”, in Revue numismatique, tome 154, 1999, p. 267-315
“Đầu năm 1886, vì những lý do chủ yếu mang tính chính trị, ba Bộ nêu trên [Bộ Thuộc Địa, Bộ Ngoại giao và Bộ Tài chính] đạt được một thỏa thuận đầu tiên: đồng ý hoàn trả lại cho vị vua mới lên ngôi Đồng Khánh một nửa kho báu, và việc này đã được Paul Bert thực hiện vào tháng 5 năm 1886654. Một nửa kho báu còn nắm giữ được ưu tiên dùng để hoàn trả những kinh phí Ngân khố Pháp đã tạm ứng cho những chiến dịch quân sự cộng với những phí tổn về quản trị và hành chính vùng bảo hộ toàn cõi An Nam và Bắc Kỳ. Phần dôi ra nếu còn sẽ được chuyển trực tiếp vào ngân sách chính quyền bảo hộ655. Kho báu tạm thời được giao cho Sở Đúc tiền và Huân huy chương (“Monnaies de Paris”), trực thuộc Bộ Tài chính, để kiểm kê thẩm định giá trị của toàn bộ kho báu quý hiếm, trong khi chờ đợi quyết định những nơi nào sẽ được tiếp nhận. Vào tháng 7 năm 1886, kho báu được chuyển từ Huế về Sài Gòn, rồi từ đây đóng thùng có niêm phong để lên tàu chở về cảng Marseille: về đến cảng này vào đầu tháng mười. Ngày 6 tháng 10, tại nhà ga Marseille, kho báu được đóng thành 206 thùng chất lên bốn toa tàu được gắn chì niêm phong. Thanh tra của nhà ga Paris PLM thông báo cho ông Jean- Louis Ruau, đang là giám đốc Sở Đúc tiền Paris656, về “chuyến tàu chở những nén tiền xứ An Nam về ga”657.”658
654 Xem chương 9
655 Archives Affaires étrangères MD Asie. 103, f°121-122.
656 Jean-Louis Ruau (1826-1893), thị trưởng của Juzet (tỉnh Haute-Garonne) và là cố vấn của tướng Aspet: đầu tiên ông là chánh văn phòng của Bộ Tài chính, rồi làm phó giám đốc Sở Đúc tiền Paris vào tháng giêng năm 1871. Ông trở thành giám đốc Sở Đúc tiền vào năm 1875, ở chức vụ mãi cho đến khi về hưu vào năm 1891.
657 Arch. AMM, Dossier Huê, 6/10/1886 et 8/10/1886
658 François Thierry, “Le trésor de Huê…” (p. 151)
Nhưng may mắn có những chuyên gia người Pháp, đã không chỉ thấy nén vàng, nén bạc là kim loại quý, chỉ cần cân đong trọng lượng, tức thời ý thức về “giá trị ngoại tại” (“valeur extrinsèque”659 sic) của các vật báu đến từ Huế :
659 François Thierry, “Le trésor de Huê…” (p. 155)
“Giám đốc Sở Đúc tiền Paris nhận thức ngay là những nén vàng bạc và tiền thưởng như thế [đến từ xứ An Nam] không chỉ là vàng, là bạc mà còn có thể có giá trị lịch sử: ông yêu cầu giới thiệu cho ông một nhà nghiên cứu văn hóa lịch sử Trung Hoa, hay ít nhất là một người có thể đọc được các dòng chữ ghi trên nén tiền. Ngày 2 tháng 11, Sadi Carnot [1837-1894], Bộ trưởng Bộ Tài chính, thông tin cho ông giám đốc Sở Đúc tiền rằng ông đã chuyển cho cơ quan phụ trách các vùng Bảo hộ một bản sao các biên bản của ông Frosté, và ông đã đề nghị Thủ tướng Charles de Freycinet, cũng đồng thời là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, cho mời ông Gabriel Devéria liên lạc với giám đốc [Sở Đúc tiền] để “tiến hành xem xét những chữ được ghi khắc trên các nén vàng và các đồng tiền cùng loại kim loại chứa trong các thùng mà nội dung chứa đựng đã được ông thông báo”660. Gabriel Devéria đâu phải là nhân vật bình thường, ông là một trong những nhà Trung Hoa học hàng đầu thời gian đó.”661
660 Arch. AMM, Dossier Huê, 2 /11/1886
661 François Thierry, “Le trésor de Huê…” (p. 152-153)
Trong khi đó, bao nhiêu người Việt Nam đương thời có trách nhiệm, các vị quan lại triều đình, hay chính ngay các vị quân vương, quan tâm đến số phận khác thường, đến những giá trị nghệ thuật hay học thuật, về sau, mai sau của châu báu, cổ vật, vàng bạc, đã bị kẻ ngoại xâm hay người trong cuộc mang đi?
“chính vào những năm cuối của triều Thành Thái mà kho báu triều đình Huế được biết đến qua các ấn phẩm xuất bản tại Pháp: năm 1905, Albert Schroeder công bố công trình “Annam. Etudes numismatiques” [“Nghiên cứu về tiền cổ của xứ An Nam”] giới thiệu một cách tổng quát về các nén [vàng bạc] và các đồng tiền thưởng từ kho báu của triều đình Huế được lưu trữ tại Sở Đúc tiền Paris, với hình ảnh liên quan tương đối đầy đủ. Nhưng ấn bản này không tạo được nhiều tiếng vang tại Pháp và thậm chí cũng không làm dấy lên bất cứ yêu cầu hoàn trả nào, dù là từ phía triều đình Huế hay từ phía những giới yêu nước.”662
662 François Thierry, “Le trésor de Huê…” (p. 203)
Như vậy, nhờ sự quan tâm và vốn hiểu biết của các chuyên gia Pháp, một phần nhỏ “kho báu triều Nguyễn” vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay… Với sử gia, “kho báu” không hề nhỏ nếu xét về giá trị “sử chứng thường hằng sinh động”:
“Trong những năm 1980, khi người ta bàn về “kho báu của [triều đình hay vương triều] Huế”, người ta đề cập đến tình trạng rốt cùng của kho báu, chỉ là vài đồng tiền nén bạc được bảo quản ở Sở Đúc Tiền Paris. Một trăm năm trước đó, cũng cụm từ như vậy chỉ toàn bộ của cải kho lẫm bị lực lượng của tướng De Courcy chiếm lấy sau đêm ngày 5 tháng 7 năm 1885. Nhưng đối với nhà viết sử, kho báu kinh thành Huế là một tập hợp lớn hơn, bao gồm những thành phần có những tính chất khác nhau với một câu chuyện lịch sử không thể nào giản lược vào một đống vàng bạc, chốt cứng lại qua một biến cố đã ngăn trở người chủ đích thực được thu hồi lại. Theo một cách nào đó, kho báu là một thực thể sinh động, hay ít ra là một chủ đề lịch sử luôn biến thiên. Kho báu gồm ba tập hợp: kho báu chiếm được tại kinh thành Huế, những rương hòm bị lực lượng kháng cự kháng chiến bỏ lại, và những dự trữ được chôn giấu từ thời vua Minh Mạng.”663
663 “[le trésor de Huê] est, d’une certaine manière, un être vivant, ou pour le moins un sujet historique mouvant”, in François Thierry, “Le trésor de Huê…” (p. 255)
Đọc tác phẩm “Le trésor de Huê” của F.Thierry không chỉ trở lại với một chuỗi sự kiện như thể đã quá quen thuộc đối với người Việt Nam, nhất là những cư dân đã gắn bó một đời với Cố đô Huế, mà còn là dịp trở về với những sự kiện ở nơi này - tại xứ An Nam theo một cách nhìn khác, “của người Pháp ngày nay về người Pháp ngày xưa”. F.Thierry mong muốn công trình đến tay nhiều bạn đọc, là nhà nghiên cứu hay người độc giả bình thường (“grand public”), tất cả có cùng đam mê với câu chuyện sử sách664. F.Thierry nằm trong số những chuyên gia người Pháp ngày nay đã không “để yên” cho quá khứ thuộc địa: câu chuyện thuộc địa đã trở thành một “đường rạn nứt”665 hay phân hóa, bắt nguồn từ quá khứ xâm chiếm thuộc địa, và nay lộ diện ngay trong lòng nước Pháp. Không phải tình cờ khi tác phẩm của F.Thierry có tiêu đề phụ là “Về góc khuất của chế độ thuộc địa hóa của nước Pháp tại Đông Dương”. Trong một thời gian dài, khi khởi đầu thời kỳ “phi thuộc địa hóa” (décolonisation), vấn đề chính sách và những thực tế tại ngay thuộc địa hay liên quan đến thuộc địa đã bị (như làm) “mờ khuất đi” (occulter)… G. Halpern666, khi bàn về công trình tập thể “La fracture coloniale”, đã viết: “Nếu có sự rạn nứt do từ vấn đề thuộc địa [trong nội bộ nước Pháp] thì đầu tiên hết là do sự rạn nứt về ký ức” (“S’il y a fracture coloniale, c’est d’abord parce qu’il y a fracture de mémoire”). “Rạn nứt” hiểu là sự đứt gãy, gián đoạn về ý thức dòng chảy Lịch sử: cho đến cuối thập niên 60 của thế kỷ trước, theo sử gia Marc Ferro, như thể đã có, ở Pháp, một sự đồng thuận về vấn đề quá khứ hay di sản thuộc địa, theo đó như có một sự “tự kiểm duyệt” ký ức, không đề cập (autocensure), từ con người Pháp. Nhưng ngày nay, bối cảnh đã thay đổi…
664 François Thierry, “Le trésor de Huê…”: “mon éditeur […] a accepté de donner le vietnamien avec les diacritiques et de faire figurer un certain nombre de notes, ce qui permettait de garder à ce travail un caractère scientifique sans que cela nuise à son caractère d’ouvrage destiné à un large public” (p. 310). Người dịch cũng mong theo đúng với nguyện vọng của tác giả bản gốc, nhưng hướng đến một đối tượng độc giả “trong cuộc, trong vận thế cộng đồng và kế thừa lịch sử”, với một vốn hiểu biết hết sức dồi dào sống động.
665 “La fracture coloniale – La société française au prisme de l’héritage français”, dirigé par P. Blanchard, N. Bancel et S.Lemaire, La Découverte, 2005.
666 Catherine Halpern, “Un passé colonial qui ne passe pas”, in Sciences humaines n°165, novembre 2005, p. 58
Nhà văn gốc Bắc Phi Kamel Daoud, trong một bài thời luận667 viết về một chuyến đi sang châu Á, nhắc lại hai câu hỏi “cơ bản” như mở đầu và kết thúc giai đoạn thuộc địa hóa. Hai câu hỏi tưởng chừng như rất xưa nhưng lại không hề cũ… Khi đặt chân xâm chiếm khai thác các vùng thuộc địa ở các châu lục ngoài châu Âu, như châu Mỹ, châu Phi, châu Á, những người da trắng đã tự hỏi: “Làm gì đây với những giống nòi bị thuộc địa hóa?” (“Que faire du colonisé?”). Và đã thử trả lời bằng nhiều cách: đồng hóa, tiêu diệt, cải đạo (như trường hợp các sắc dân bản địa ở châu Mỹ La-tinh), quốc hữu hóa hay nhốt nhét vào các khu biệt địa bảo tồn (“réserves”, như trường hợp người Da Đỏ ở Bắc Mỹ)… Ngày nay, câu hỏi được đặt ra, cho cả hai phía (đi chiếm thuộc địa và bị thuộc địa hóa): “Làm gì bây giờ với những con người là “cựu trào (chiếm) thuộc địa”?” (“Que faire de l’ex-colonisateur?”). Nhà văn, sinh ra lớn lên ở Algérie (một cựu thuộc địa của nước Pháp), nay diễn đạt bằng tiếng Pháp668 (ngôn ngữ vốn từ kẻ xâm chiếm thuộc địa), nhấn mạnh, chính câu hỏi thứ hai này ông hay gặp nhất, khi đi đây đi đó qua các nước. Nhà văn như gợi ý các “khả năng”:
667 Kamel Daoud, “Prospective taïwanaise” (Le Point n°2465, 21/11/2019, p. 98)
668 Kamel Daoud được trao giải thưởng Goncourt cho tiểu thuyết đầu tiên vào năm 2015, là nhà báo, từng là chủ bút của tờ Le Quotien d’Oran (Algérie), ông cũng thường viết thời luận và xã luận cho các tờ Le Point, Le Monde des Religions, New York Times…
“Tha thứ cho con người [đã xâm chiếm thuộc địa]? Trút mọi trách nhiệm lên hắn về mọi thất bại của chúng ta ngày nay [ở các xứ cựu thuộc địa]? Kết tội hắn về cái âm mưu quốc tế thường xuyên thường trực? Hay là bắt tay làm ăn với hắn? Chiếm đoạt lấy hắn hay kết tội hắn? Đòi hỏi hắn phải thường xuyên ăn năn hối cải? Ngày nay những câu hỏi như thế được nêu ra ở ngay các nước giàu và đối với một số thành phần ưu tú ở những nước này. Để rồi người ta đặt vấn đề phải đối xử như thế nào đây với những con người [trước đây được vinh danh là] “anh hùng” vì đã chinh chiến chinh phục [thuộc địa], chẳng hạn một vị tướng trước kia được tung hô chào đón như là con người [cất công] đi khai hóa, thì nay bị kết tội là đi tàn sát [dân lành] hay diệt chủng, để nay tên tuổi bị xóa khỏi tên các con phố hay tượng đài bị nhổ bỏ đi.”669
669 Kamel Daoud, “Prospective taïwanaise” (Le Point n°2465, 21/11/2019, p. 98)
Kết luận đáng chú ý của nhà văn Kamel Daoud đó là, về cách nhìn lại quá khứ thực dân cũng như di sản thuộc địa, sự lựa chọn “đáp án” ở mỗi nơi có khác nhau, chẳng hạn như sự khác biệt giữa các nước Bắc Phi và châu Á670. Khi chứng kiến những biến cố hiện nay ở nhiều nước phương Tây, có lẽ phải nhắc lại rằng Lịch Sử, viết hoa, đâu phải là chuyện cổ tích: dạng nàng “Công chúa Ngủ trong Rừng”, chờ nụ hôn hoàng tử, tỉnh dậy trong tình yêu, sống những ngày tháng tươi đẹp cùng bầy con ngoan ngoãn… Lịch sử là “ký ức” lưu giữ trong rất nhiều bộ nhớ, đáng suy ngẫm nhất là “bộ ký ức sinh học và truyền khẩu”: trăm năm bia đá, nghìn năm bia miệng… Những phong trào như Black Live Matter nổ ra sau cái chết của một người da màu, bao nhiêu ký ức từ thời Nam Bắc phân tranh trỗi dậy với những hậu quả rất bất ngờ671. Phong trào lan sang các nước khác như Anh (với vụ Bristol672), Úc (với ký ức áp bức thổ dân bản địa), Bỉ (với quá khứ tàn khốc tại xứ Congo, châu Phi), Đức, Ý, và mới đây đến lượt Canada673, v.v. Tưởng chừng cả thế giới đầu thế kỷ XXI phải hồi tưởng và sống cùng với những hồn ma bóng quế của thế giới tiền công nghiệp song song với bành trướng thuộc địa của thế kỷ XVIII-XIX…
670 “Tại quán “Café Philo” [tại Đài Bắc], tối hôm đó [tham dự buổi toạ đàm] những người trẻ đến quán để nêu lại những câu hỏi như trên. Ở châu Á, người ta tìm câu trả lời rất khác [với các châu lục khác]: hình như ở đây người ta đi tìm “trong đó” những lợi ích lợi lộc, thay vì làm chuyện kết án đổ tội (“culpabilisation”)”, in Kamel Daoud, “Prospective taïwanaise”
671 Ngay cả Tổng thống Abraham Lincoln cũng không “thoát tội kỳ thị chủng tộc”, Hội đồng Hàn lâm thành phố San Francisco đã bỏ phiếu xóa tên “A.Lincoln”, cùng nhiều vị khác, khỏi danh sách đặt tên cho các trường công lập (tháng 1/2021): trong cuộc chiến chống người Da Đỏ, 303 người Da Đỏ bị kết án tử hình, Tổng thống Lincoln đã đặc xá cho tất cả, ngoại trừ 38 người phải bị treo cổ, là lần xử tử hình tập thể đông người nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, cf. “Etats-Unis - San Francisco bafoue l’histoire”, Courrier International n°1580, fév.2021, p. 19 (traduit de San Francisco Chronicle du 30 janvier)
672 Duy trì các tượng đài như là dấu tích chặng đường lịch sử? Hay phá dỡ chúng như là một “hành vi cũng mang tính lịch sử”? Về hai quan điểm trái ngược, xem Courrier international n°1546 (18-24 juin 2020, p. 14-15): “Mémoire. Tant mieux si les statues tombent!” (The Spectator Londres); “Cela ne donnera pas naissance à une société antiraciste”.
673 Les Premières Nations demandent des comptes à Ottawa (Le Devoir, Montréal), extrait Courrier international n°1600, juillet 2021, p. 17
Hiểu biết lịch sử là cần thiết, chẳng phải để “ôn cố tri tân”? Lịch sử không lập lại nguyên văn nguyên bản, nhưng lịch sử có soi sáng cho hiện tại hay không674? Về phần mình, sử gia M.Winock lưu ý thêm, khi xem xét trở lại vấn đề thuộc địa, không chỉ nhằm vạch ra rạch ròi chuyện công-tội:
674 Gérard Noriel, “Il ne faut pas négliger les leçons de l’histoire”: “Lập luận theo một khái niệm thời gian liên tục và đồng nhất, người châu Âu nhìn vào lịch sử như một nơi tích chứa những [kinh nghiệm lịch sử] điển hình theo một sự kéo dài của cái “historia magistra vitae” (sic: “lịch sử giáo dục cuộc sống”), một quan điểm được Cicéron [106-43 tr.CN] tán thành ủng hộ từ thời Cổ đại. Cách mạng Pháp [1789] đã tạo một cú sốc lớn khi làm đảo lộn một quan niệm như thế qua việc áp đặt một niềm tin dứt khoát rằng: con người qua những hành động của mình có thể tạo nên những đứt gẫy gián đoạn mang tính quyết định trong dòng chảy của lịch sử. Trở nên xa lạ với hiện tại của chúng ta ngày nay, quá khứ chỉ còn được nhìn thấy như một nơi tích chứa những kinh nghiệm điển hình, nhưng [thực tế] vẫn còn có thể còn soi rọi những cung cách hành xử của chúng ta, với điều kiện là phải triển khai những phương pháp đặc thù để giải mã những vết tích còn vang vọng đến tận chúng ta ngày nay.” (Le Monde, 20 juillet 2019, p. 7)
“Xin mọi người hiểu cho: tôi hoàn toàn không muốn lập ra bản tổng kết về hiện tượng thuộc địa [hoá] thành hai cột: một bên là mặt tiêu cực (bạo lực, không thể chối cãi, trong việc thống trị); và một bên là mặt tích cực (việc mở mang phát triển khu vực nước Pháp hải ngoại), [tổng kết như vậy] là một việc làm vô bổ. Vì lẽ sự thể thuộc địa hóa là [hiện tượng] toàn cầu. Do đó cần phải nắm hiểu toàn bộ toàn cục một trào lưu như vậy: những động cơ cùng những hệ quả, đồng thời cố gắng không đánh giá quá khứ nhân danh những giá trị của ngày hôm nay. Và cũng không nhân danh ký ức đau thương của phía những kẻ bại trận: ở đây tôi nghĩ đến những “người hồi hương”675 [buộc phải trở về chính quốc từ vùng thuộc địa] là nạn nhân của một bi kịch [lịch sử].”676
675 Yves Denéchère, “Les “rapatriements” en France des enfants eurasiens de l’ex-Indochine”, in Revue d’histoire de l’enfance “irrégulière”, n°14/2012 (en ligne 30/12/2014)
676 M.Winock, “Une République très coloniale”, L’Histoire n°302 octobre 2005 (p. 41-42)
Sử gia Winock như muốn nhắc đến những “nạn nhân bên lề” (victimes collatérales), ít được chú ý, vào giai đoạn phi thuộc địa hóa hay giải thể thuộc địa (décolonisation): lại xuất hiện thêm những nạn nhân mới của chế độ thực dân, đó là những đứa con lai mang hai dòng máu, gặp rất nhiều khó khăn để được nhập cư - nhập tịch - hòa nhập vào “mẫu quốc”677…
677 Emmanuelle Saada, “Les enfants de la colonie – Les métis de l’Empire français entre sujétion et citoyenneté”, La Découverte, Paris 2007.
Đọc lại lịch sử là để ý thức về một dòng chảy của thời gian. Qua nhiều ghềnh thác. Qua nhiều thăng trầm. Qua nhiều cuộc bể dâu. Qua nhiều miền ảo vọng. Ý thức lưu giữ ký ức. Để tưởng nhớ người xưa, tưởng niệm năm xưa ngày tháng nọ. Hồi tưởng các biến cố và thử hòa mình vào không-thời gian hư ảo của một vài chứng nghiệm. Câu chuyện hồi tưởng lại càng hết sức lôi cuốn khi đề cập về kho báu: về sau, như đã thấy theo dòng thời sự đến tận ngày nay, dẫn đến những hoang tưởng về của cải chôn giấu, với những kẻ thích phiêu lưu, đỏ đen đánh cược với số phận… Hay khi bàn về số phận vua chúa quân vương: những mẫu phiên bản, “dị bản” khác nhau về sự hoang tưởng quyền lực hay quyền lợi vô hạn kỳ…
“Tấm gương Hàm Nghi lưu đày biệt xứ” đã được người Pháp vận dụng lại, đến hai lần. Với các vua Duy Tân (1900-1945) và Thành Thái (1879-1954). Ngày 28 tháng 3 năm 1987, tro cốt của vua Duy Tân (đi đày vào ngày 3/11/1916) được đưa trở về lại Huế, an táng bên cạnh mộ vua cha, vua Thành Thái (đi đày cùng lúc với vua Duy Tân), thuộc khu vực lăng tẩm vua Dục Đức (1852-1883). Phải mất hơn 100 năm, nếu tính từ ngày “thất thủ kinh đô”, để tên tuổi và những gì còn lại của ba vị vua nhà Nguyễn, cùng một nhà, hội tụ ở một nơi tại Cố đô, danh xưng niên hiệu chính thức giao nhau ở một dòng loan tin ở quê nhà. Hoài niệm về những vị quân vương chịu kiếp lưu đày, khởi đầu với vua Hàm Nghi, còn vương vấn mãi mãi với những sự kiện tang thương hay hào hùng của đất nước. Vì lẽ, lẽ muôn đời, trong tâm khảm muôn người, người yêu nước chẳng mất ngôi bao giờ
Ước chi tới bến sông Hương
Đốt nhang mà lạy nắm xương lưu đày
Thế là đã trở về đây
Một con người tận chân mây cuối trời.
Tấm thân phiêu dạt quê người
Linh hồn vẫn ở lại nơi quê nhà
Ngai vàng vừa cũ vừa xa
Ánh vàng vương miện cũng là hư không.
Mặt trời vẫn mọc đằng đông
Lăng minh quân vẫn dựng trong lòng người
Bao triều vua phế đi rồi
Người yêu nước chẳng mất ngôi bao giờ!
Nguyễn Duy, Tưởng niệm (tháng 4/1987)