• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Kho báu Kinh thành Huế sau ngày Thất thủ Kinh đô
  3. Trang 73

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 72
  • 73
  • 74
  • More pages
  • 82
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 72
  • 73
  • 74
  • More pages
  • 82
  • Sau

Lời kết

Câu chuyện “kho báu kinh thành Huế” không những đã cho biết về số phận long đong ly kỳ của những nén vàng, nén bạc sau ngày 23 tháng 5 năm Ất Dậu, mà còn gợi lại, gợi lên những “kho báu” khác nhau nơi những vị quân vương cuối cùng của triều Nguyễn. Điều đáng suy ngẫm, trong sự đụng độ giữa các nền văn minh, là phong cách hội nhập văn hóa phương Tây của một số vị vua cuối cùng của triều Nguyễn, cũng có thể gọi là “sự cám dỗ của tiến bộ văn minh công nghiệp” (tentation de la modernité et de la civilisation industrielle), tùy thuộc vào bối cảnh giai đoạn trị vì, hoàn cảnh cá nhân và nhân cách riêng của mỗi vị…

Vua Hàm Nghi, ở chốn lưu đày Alger, trở thành một họa sĩ chịu ảnh hưởng của trường phái Barbizon678, một nghệ sĩ điêu khắc, với những tác phẩm vẫn cho thấy hơi hướng hài hòa giữa ảnh hưởng của Pháp và Trung Hoa679. Hoàng thân sống đến cuối đời tại Alger. Theo như phương châm ngài đã viết trong một bức thư cho J.Gautier: “Thà sống yên lành với những người bạn chân thành […], còn hơn là sống cô độc với những danh này giá nọ phù phiếm, với những chuyện chỉ là xum xoe nịnh hót”680? Với các con mang hai dòng máu Pháp-Việt, hoàng thân phải chấp nhận ngay từ đầu để các con theo đạo Thiên Chúa, phía bên mẹ, và thậm chí, không thể dạy tiếng Việt cho con cái, vì mẹ ngăn cấm681… Hoàng thân có lúc đã nhắn nhủ: “Các con sẽ chẳng bao giờ là người An Nam đúng nghĩa, vậy thì hãy trở thành những người Pháp chân chính”682…

678 Amandine Dabat, “Hàm Nghi, Empereur en exil, artiste à Alger” (p. 183)

679 Amandine Dabat, “Hàm Nghi, Empereur en exil, artiste à Alger” (p. 186)

680 Amandine Dabat, “Hàm Nghi, Empereur en exil, artiste à Alger” (p. 316)

681 Amandine Dabat, “Hàm Nghi, Empereur en exil, artiste à Alger” (p. 385)

682 “Vous ne serez jamais de bons Annamites, alors soyez de bons Français”: theo lời công chúa Như May kể lại cho John Edwin Morby, giáo sư sử học tại Đại học bang California, in Amandine Dabat, “Hàm Nghi, Empereur en exil, artiste à Alger” (p. 394)

Vua Thành Thái chủ động học tiếng Pháp, lái canô, xe hơi. Vua Duy Tân, sang đảo Réunion, ngoài ngoại ngữ thì học về vô tuyến điện, về luật, chơi cưỡi ngựa… So với hoàng thân Ưng Lịch tại Alger, hai cựu hoàng Thành Thái và Duy Tân có đời sống vật chất khó khăn và giản dị hơn rất nhiều683.

683 Xem Duy Tân – Wikipedia tiếng Việt

Về phần vua Đồng Khánh, là một vị vua đầu tiên của triều Nguyễn, nhân ngày Tết âm lịch truyền thống, “đi ra bên ngoài hoàng cung, dạo cùng quan quân, hoàng tộc, với tướng lĩnh và lực lượng Pháp đi cùng hộ tống”684, với những chi tiết được F.Thierry ghi lại như sau, sau ngày vua Đồng Khánh băng hà, về những chuyện hôi của buộc triều đình Huế cùng Tổng trú sứ Rheinart cho tiến hành kê biên để thu hồi tài sản:

684 H.Cosserat, “Les fêtes du Têt en 1886 à Hué: promenade publique du roi [Đồng Khánh]”, BAVH số 3/1924

“lần kiểm tra như vậy mới thấy hết sự hấp dẫn lôi cuốn của lối sống xa xỉ kiểu Pháp đối với vua Đồng Khánh, và mức độ hoang phí tốn kém của vị vua mới băng hà. Trong điện Lương Tâm, những người kiểm tra đã chứng kiến cả mớ đủ thứ của cải không thể tưởng tượng được: những rương hòm chất đống đầy ắp đủ thứ vật dụng rất khác nhau, những đồ bằng ngọc, những sừng tê giác, những lọ dược phẩm, đồ chơi đủ loại, nước hoa, nước khoáng, v.v. Người ta còn tìm thấy hàng cây-số vải vóc lụa là đắt tiền của Pháp, xuất xứ từ một công ty của thành phố Lyon, bàn ghế bằng gỗ chế tác đẽo gọt tinh tế từ một nhà sản xuất của thành phố cảng Marseille, những đồ dùng bằng pha lê hay sứ, áo quần đắt tiền, đồ dùng bằng bạc, v.v.685 Nhiều đồ dùng do Pháp sản xuất có đóng dấu niên hiệu hoàng triều và tất cả được mua từ Pháp, chủ yếu là từ thủ đô Paris.”686

685 Rapport de Rheinart du 28 février 1889, cité dans Charles Fourniau, Annam-Tonkin 1885-1886, p. 145-146, dans Nguyên Thê Anh, Monarchie et fait colonial au Viêt-Nam […]; op.cit. p. 149.

686 François Thierry, “Le trésor de Huê…” (p. 184-185)

Vua Khải Định “hội nhập” với một loạt kiến trúc “để đời” như cung An Định, điện Kiến Trung, lầu Tứ Phương vô sự, tượng toàn thân đặt hàng tại Pháp để an vị vào lăng… Nhưng chính toàn bộ công trình xây lăng cho mình, theo ngẫu hứng “Đông Tây hội ngộ”, lại thực sự ấn tượng, để lại cho hậu thế một tòa kiến trúc hết sức độc đáo, người xem luôn bất ngờ, thắc mắc:

“năm 1920, hoàng đế bắt đầu cho xây dựng lăng tẩm của bản thân: nơi đây ngài sẽ thỏa thích theo đuổi những sở thích kiến trúc cá nhân. Lăng gồm một cung cho nơi điện thờ và một nơi cho lăng mộ, là một tòa kiến trúc bằng béton pha lẫn phong cách bản địa với những yếu tố [ngoại lai ngoại nhập] như phong cách roman, phong cách byzantin, phong cách Tân Cổ điển, phong cách “Tân Nghệ thuật” [cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX]. Toàn bộ lăng tẩm có thể làm du khách ngỡ ngàng, phân vân không biết sắp bước vào một loại kiến trúc trông như nhà ga, theo thời gian đã ngả màu xám xịt, hay đâm ra tò mò hiếu kỳ khi sẽ được chứng kiến những cánh cửa kính nhiều màu sắc phong cách nước Nhật, chiêm ngưỡng những bức tượng bằng đồng, những trang trí bằng men sứ Trung Hoa, hay những yếu tố chi tiết theo phong cách Corinthe [của Hy Lạp cổ đại]”687

687 François Thierry, “Le trésor de Huê…” (p. 217)

Vua Bảo Đại, về phần mình, là “tấm gương hội nhập”688 hoàn toàn vào lối sống theo phong cách thượng lưu phương Tây, lại có cung cách tiêu pha của các bậc đế vương phương Đông, không phân biệt quốc khố với “tư khố”689, vừa cho xây cất những biệt dinh rải khắp “đế chế An Nam”, vừa mua sắm dinh cơ lâu đài ngay trên đất Pháp:

688 Về phương thức người Pháp “lập trình” (“programmation”) đối với những vị sẽ lên ngôi trong bối cảnh thuộc địa hóa, với ba trường hợp Maroc, Campuchia và Việt Nam, xem bài “Monarchies coloniales et décolonisations comparées dans l’Empire français: Bao Dai, Norodom Sihanouk et Mohammed V”, của Christopher E.Goscha (bản dịch tiếng Pháp của Agathe Larcher, Presses universitaires de Rennes n°12/2017). Theo bài này, phải chăng vua Bảo Đại đã gặp khó khăn e ngại khi tiếp xúc với chính “thần dân” nước mình?

689 François Thierry, “Le trésor de Huê…” (p. 247-248)

“Trong tác phẩm hồi ký, Bảo Đại đã dài dòng và nhiều lần nhấn mạnh ông phải thường xuyên chú ý đến chi tiêu, rằng ông chẳng có của cải gì riêng tư, rằng tất cả thuộc về vương triều. Nhưng, theo dòng trang viết, có thể nhận ra nhiều điểm mâu thuẫn […] Cho đến 1945, đúng là chính quyền bảo hộ đã chỉ cung cấp cho hoàng đế An Nam một khoảng tiền chi tiêu cá nhân không lớn […]. Trong thời gian du học tại Pháp, trong khoảng từ năm 1926 đến năm 1932, triều đình Huế đã bố trí cho vị hoàng đế trẻ tuổi một biệt thự sang trọng tại đại lộ Lamballe [quận 16 Paris!]. Tại kinh thành Huế, hoàng đế có nơi ở là hoàng cung, nơi đây đã được tôn tạo hiện đại, cùng với cung An Định. Bảo Đại còn sở hữu dinh cơ ở Cam Lộ, hai biệt dinh ở bờ biển: biệt thự “Agaves”, Xương Rồng, ở Cầu Đá, phía nam thành phố Nha Trang và một biệt thự tại Quy Nhơn, có nơi neo đậu chiếc du thuyền của hoàng đế, có tên là Hương Giang690. Trong thời gian từ năm 1933 đến năm 1938, hoàng đế An Nam cũng đã cho xây một biệt dinh sang trọng tại Đà Lạt và một dinh cơ để đi săn tại Buôn Ma Thuột. Và cuối cùng, tại Pháp, hoàng đế đã mua lâu đài Thorenc, tọa lạc giữa hai thành phố Cannes và Le Cannet, đồng thời vẫn nắm giữ biệt thự tư gia tại đại lộ Lamballe. Câu hỏi đương nhiên được đặt ra là: nguồn tiền từ đâu để mua sắm tất cả đất đai dinh thự như vậy?”691

690 Bao Dai, Le Dragon d’Annam, op.cit. p. 92.

691 François Thierry, “Le trésor de Huê…” (p. 241-242)

Chắc chắn những vị hoàng đế Đại Nam sẽ chẳng bao giờ có thể hình dung, một mai đây, những lăng tẩm, đền đài, biệt dinh nơi này nơi kia, tại Kinh thành Huế và rải rác nhiều nơi khác ở Việt Nam, sẽ là nơi tham quan, thu hút nhiều du khách viếng thăm chiêm ngưỡng (và mang lại một nguồn thu nhập đáng kể cho hậu thế…). Những “kho báu di sản” như vậy có đủ bù đắp cho những hoang phí xa hoa của những vị vua lúc hoàng hôn của triều đại phong kiến cuối cùng? Mặt khác, trong “di sản” của những vị quân vương cuối cùng của triều Nguyễn, mà phần chủ yếu thuộc lãnh vực nghệ thuật, kiến trúc hay “phi vật thể” (như âm nhạc cung đình, ẩm thực cung đình), hậu thế khó có thể tìm thấy được những di sản về ý thức hệ hay tư tưởng692, hiểu là những định hướng lớn693 cho đất nước…

692 Nhiều vị vua triều Nguyễn rất giỏi thi phú, xem Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn học Sử lược, chương XV: Văn chương triều Nguyễn (t. 355-358)

693 Về thái độ và những quyết định của vị quân vương vào những thời điểm bước ngoặt năm 1945, xem thêm bài phỏng vấn của nhà sử học Frédéric Mitterrand với cựu hoàng Bảo Đại tại Paris: French interview - Entretien en français Emperor Bao Dai - YouTube (1:26:34)

Xét tận cùng, qua “kê khai tài sản hoàng triều” sơ bộ như vậy, độc giả ngày nay có thể dễ hiểu hơn câu chuyện kho báu triều Nguyễn, hay phải chăng nên gọi là kho báu tại kinh thành Huế sau ngày thất thủ kinh đô: trong kho báu có rất nhiều loại kho lẫm, tài sản, của cải, chìm và nổi, mà ranh giới thể chế, quy định công-tư, không được rõ ràng. Nếu câu chuyện kho báu tưởng chừng như bắt đầu với việc chuẩn bị nổi dậy của các quan đại thần phụ chánh, thực tế, nếu mở rộng biên độ không-thời gian lịch sử, có thể bắt đầu từ những lo toan “tích cốc phòng cơ” của vua Minh Mạng, đúng như niên hiệu trị vì ngài đã chọn, là một vị Minh Quân hết mình lo toan việc nước, vì “xã tắc”, với các hầm chôn giấu của cải ngay dưới nền hoàng cung…

“Người ta cũng đã phát hiện là vua Đồng Khánh đã làm cạn sạch ba trong số những nơi cất giấu của cải có từ thời vua Minh Mạng, nằm khuất dưới nền nhà hay trong tường vách của cung điện: Rheinart theo đó đã lưu ý, đích thân “đã thấy ba viên đá lát nền từ thời Minh Mạng, mỗi viên che đậy một nơi cất giấu 100.000 nén bạc, dành cho những hậu duệ minh tuệ (tổng giá trị của cả ba hầm cất giấu lên đến 450.010 piastres)694”. Và rồi, năm 1899, người ta phát hiện và mở ra bốn nơi cất giấu tương tự, mỗi nơi dưới một tấm gạch nền được chạm khắc, mỗi hầm chứa khoảng 10.000 nén loại 10 lạng bạc695.”696

694 Rheinart, “Journal, […]”, op.cit. p. 196

695 Như thế tương đương khoảng chừng 3,850 tấn, xem Schroeder, Annam, Nghiên cứu về tiền xưa, t. 138. Xem chương 10, Schroeder, trong công trình của mình năm 1905 đã không có các số liệu thông tin được Rheinart công bố vào 1943, và Schroeder chỉ nói đến một nơi cất giấu duy nhất được/bị vua Đồng Khánh phát hiện và tiêu sạch.

696 François Thierry, “Le trésor de Huê…” (p. 180)

Để rồi, cuối cùng, tất cả có thể (tạm thời) kết thúc với con cháu vị vua cuối cùng của triều Nguyễn, qua các vụ đấu giá báu vật “triều Nguyễn” ở nước ngoài, đặc biệt tại thủ đô Paris…

“Trong số những lô của cải được đấu giá như thế, rõ ràng có một thứ xuất xứ từ kho báu triều Nguyễn thời vua Minh Mạng, ở lô đánh số 58 cho đấu giá một nén bạc 10 lạng (nặng 385,35 g), có dòng chữ “Minh Mạng, Quý Tỵ, nội thảng”, nghĩa là “năm Quý Tỵ, triều vua Minh Mạng (1833), thuộc kho báu triều đình”, vật hoàn toàn tương ứng với những chỉ dẫn lần khám phá hố chôn thứ hai, được khai quật vào ngày 5 tháng 8 năm 1899: của cải trong hố chôn được chính quyền bảo hộ phân chia cho các thành viên của hoàng tộc, đúng theo di nguyện của vua Minh Mạng697. Một số của cải nêu trên trong cuộc đấu giá rõ ràng có tính chất thuộc về thể chế triều đại (“caractère dynastique” sic) như các tấm khánh698, các niên giám hay các đồng tiền thưởng699 bằng bạc; trong khi một số khác thuộc sở hữu [đương nhiên] của một “hoàng đế đương chức đương vị” (“propriété de l’empereur ex officio” sic), chứ không thuộc về hoàng đế với tư cách cá nhân (“non pas à l’empereur comme individu” sic).”700

697 Xem chương 10, François Thierry, Catalogue des monnaies numismatiques – Supplément, op.cit. n°406

698 Một ví dụ về “kim khánh” các vua Tự Đức và Đồng Khánh ban tặng cho người Pháp: cf. “Les distinctions honorifiques annamites” par Đặng Ngọc Oánh, in BAVH 1915-4 (p. 392-396).

699 Về các loại tiền thưởng nói chung: “Les distinctions honorifiques annamites” par Đặng Ngọc Oánh, in BAVH 1915-4 (p. 391-405).

700 François Thierry, “Le trésor de Huê…” (p. 247)

Kho báu, rõ ra, không chỉ là chuyện nén vàng, nén bạc, mà còn gián tiếp gợi ra chân dung của những người liên quan hay nắm quyền định đoạt kho báu… Từ những “kho báu” khác nhau đến cung cách tiêu pha, từ mỗi hoàn cảnh nắm quyền bính đến “tiếp biến văn hóa” (acculturation), đặc biệt với những ảnh hưởng phương Tây, có thể cảm nhận một số câu chuyện có vẻ như thiên về cá nhân, cá tính của mỗi vị quân vương vương triều xứ Đại Nam thời bảo hộ. Chỉ là những “con bài”701 được người Pháp702 tính toán cho mỗi thời kỳ, cho một đất nước đã mất chủ quyền? Từ thời điểm vua Khải Định lên ngôi, xứ An Nam như có “một triều đình trông như sân khấu tuồng”703, đặc biệt với phong cách trang phục “đông-tây cổ-kim giao duyên” của vua Khải Định. Đến mức nhà yêu nước Phan Chu Trinh phải lên án trong “Thất điều thư” gửi cho vua Khải Định vào 1922, kể ra bảy tội của vua:

701 “Remplacer “notre roi””, in François Thierry, “Le trésor de Huê…” (p. 188-199)

702 “Người ta [phía Pháp] hoan nghênh nhiều việc mới mẻ: cho về vườn quan phụ chính Nguyễn Hữu Bài cùng các vị thượng thư đã lỗi thời lỗi nhịp; thành lập một chính phủ do ông Phạm Quỳnh lãnh đạo, vốn là một con người ca ngợi liên minh với nước Pháp vì một nước Việt Nam hiện dại; chỉ định một người Công giáo là ông Ngô Đình Diệm vào vai trò chủ tịch hội đồng cải cách. Nhưng tất cả nhanh chóng bị tắc nghẽn: giới chức cầm quyền Pháp tỏ ý rõ ràng với hoàng đế [Bảo Đại] là: nếu người ta đồng ý cho những cải cách, chủ yếu chính là nhằm không có gì phải [cải tổ] thay đổi cả.”, in François Thierry, “Le trésor de Huê…” (p. 232)

703 “Cour d’opérette” (sic), in François Thierry, “Le trésor de Huê…” (p. 215)

“Sự đam mê kỳ lạ như thế đối với quần áo phụ kiện đã nhanh chóng lôi cuốn sự chú ý của giới đối kháng triều đình Huế: giới này nói hoàng đế trông như “một con rối ăn mặc đẹp, an vị trên một ngai vàng vô công rỗi nghề704”. Năm 1922, trong một văn bản đã trở nên nổi tiếng, có tên là “Thất Điều thư”, Phan Chu Trinh kể ra bảy tội hàng đầu của hoàng đế Khải Định: điều thứ năm chính là lối ăn mặc kỳ quặc khác thiên hạ của hoàng đế705.

704 Nguyễn Thế Anh, Monarchie et fait colonial au Viêt-Nam, op.cit. p. 269.

705 Ngô Văn Việt, Việt-nam 1920-1945, Paris, Nautilus, 2000 [1996], p. 40; Nguyễn Thế Anh, Monarchie et fait colonial au Viêt-Nam, op.cit. p. 255, n.24

Xây cất cung điện và chi tiêu cho phẩm phục, rồi thêm những lễ này lạc nọ liên miên (kỵ giỗ tổ tiên, sinh nhật các hoàng thái hậu, lễ hội theo âm lịch, đại lễ theo truyền thống, v.v.) làm tiêu tốn ngân sách triều đình vốn đã èo uột.”706

706 François Thierry, “Le trésor de Huê…” (p. 217-218)

Với tác phẩm của F.Thierry, độc giả sẽ tiếp cận lối xem xét “lịch sử thời đoạn dài” (histoire à longue durée707 ou temps long) đa chiều, đa diện, chân dung các nhân vật cũng như các yếu tố cấu thành sự kiện như được bổ sung thêm nhiều “pixel” hơn, độ phân giải “màn hình lịch sử” cao hơn, để nhãn quan người sau nhận rõ hơn về những sự thể hay sự kiện chỉ còn lưu giữ qua ký ức mờ nhạt, hay trong sự tĩnh lặng của các viện bảo tàng… Đồng thời chỉ ra, ngược về trước, mức độ giới hạn của phương thức viết sử đặt để trên thời khắc, thời điểm, cá nhân cụ thể, hành động nhất định, nhân-quả hình tuyến và tức khắc (linéaire et immédiate), để tô vẽ, dựng nên cả toàn cảnh bức tranh Lịch Sử708… Ngoài ra, một lần nữa, còn phải kể đến những ảnh hưởng “hư hư thực thực” len lỏi vào lối viết biên niên của những sử quan còn trong mặc định “trung quân ái quốc”, vẫn phải lấy “triều sử” làm “quốc sử”, vẫn phải lấy “điềm trời” làm thiên mệnh của một triều đại, của cả một đất nước: dù đã là thập niên đầu của thế kỷ XX, sau hơn nửa thế kỷ tiếp xúc với văn minh phương Tây (nếu tính từ thời điểm sứ thần Phan Thanh Giản Tây hành vào năm 1863), nhưng cách kiến giải vận hội lịch sử vẫn theo công thức “Thiên tử là Thiên mệnh”, “điềm trời là vận nước”… Khi ghi chép về tình hình Bắc Kỳ, vào lúc quân Pháp với quân Tàu đang gầm ghè với nhau, sử quan cũng không quên các chỉ dấu thiên văn, thủy văn:

707 Một khái niệm được sử gia Fernand Braudel đề ra vào năm 1949, chính thức qua công trình “Histoire et Sciences sociales: La Longue durée” (1958), cf. Braudel Fernand. Histoire et Sciences sociales: La longue durée, in Annales. Economies, sociétés, civilisations. 13 année, N. 4, 1958. pp. 725-753: https://doi.org/10.3406/ahess.1958.2781 https://www.persee.fr/doc/ahess_0395-2649_1958_num_13_4_2781

708 Theo cách viết cùa F.Braudel, “L’histoire traditionnelle attentive au temps bref, à l’individu, à l’événement, nous a depuis longtemps habitués à son récit précipité, dramatique, de souffle court”: “Lịch sử theo lối [viết] truyền thống chú ý nhiều đến thời đoạn ngắn, đến cá nhân và sự kiện, từ lâu làm cho quen dần với lối tường thuật vội vã, thiên về hành động, và nhịp ngắn hơi”

“Tháng 7, biển Bình Thuận có tiếng kêu như súng lớn, (tiếng vang suốt ra Bắc Kỳ). Khi bấy giờ nước Tàu nghe tỉnh Hà Nội có việc, Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam đều đem đại binh đóng giữ các nơi dọc biển Tàu […] quan Pháp nghe binh Tàu đóng nhiều, cũng đem thêm tàu binh tới đậu tại Sơn Tây, Hưng Hóa và Bạch Hạc […] Tháng 8, ngày Quý Hợi sao sa có tiếng như sấm. Sao cờ (sao phướn) mọc ở phương đông. (Nửa canh năm mọc ở phận dã sao Dực, sao Chấn, từ dưới mà lên, dưới sắc đỏ trên sắc trắng, dài như tấm lụa, hơn một tháng mới vắn lần, đi đến sao Thiên Lang thời lặn”709.

709 Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu, Quyển VI, chủ biên: Tổng tài Quốc sử quán Cao Xuân Dục, 1908, Nhà xuất bản Nhóm Nghiên cứu Sử Địa Việt Nam, 1972 (bản điện tử 2001, t. 209)

Mở đầu giai đoạn Phế Đế, phế vua Dục Đức, lập vua Hiệp Hòa, sử gia không quên “vạn vật tương cầu”:

“Năm Quý Vị [Tỵ?] hiệu Tự Đức thứ XXXVI (1883), tháng 6, ngày Mậu Thìn, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết phế Ngài Dục Đức mà lập Ngài [Hiệp Hoà]. Khi ấy có quan Ngự sử Phan Đình Phùng can ngăn việc ấy, phải bị Tường và Thuyết bắt giam vào ngục Cẩm Y, rồi cách chức cho về nguyên tịch.

Ngày Ất Hợi, làm lễ tấn hôn [?] tại đền Thái Hòa. Khi các quan đương sắp hàng lạy, có một con chim đậu trên ngọn cây trước đền kêu bốn tiếng lớn. Đến khi đọc di chiếu, lại có một đoàn dê đi qua cầu Kim Thủy. Người ta cho là điềm không tốt.”710

710 Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu, Quyển VI, chủ biên: Tổng tài Quốc sử quán Cao Xuân Dục… (bản điện tử 2001, t. 211)

Chuyện là hiển nhiên, nếu nhắc lại phần hành sử quan, ngoài việc chép sử, còn phụ trách chuyện thiên văn, chiêm tinh, làm lịch. Lối tư duy đã đi vào vô thức như vậy, chịu mặc định của Tam giáo, đặc biệt theo với không khí thần bí, lễ tục huyền ảo của Lão Trang, có đã thực sự thuộc về quá khứ, không để lại dấu vết nào trong tiềm thức con người bản địa ngày hôm nay, khi tình cờ đối mặt với những hiện tượng tinh tú nhật nguyệt, những nắng mưa thất thường của thiên nhiên, những vận động dị thường của muôn loài?

Đáng tiếc là vũ trụ Hán hóa cũng có những “tượng đài sử quan” vĩ đại như trường hợp Tư Mã Thiên, nhưng hiếm có sử quan Việt nào đã kế thừa tiếp bước, có công trình xứng tầm với một kinh nghiệm phương Bắc độc đáo như vậy. Nhượng Tống, trong bản dịch Sử ký Tư Mã Thiên của ông vào năm 1944, đã đưa ra nhận xét về một giai đoạn “sử nhà”, nhưng thật đáng tiếc là ông đã không đi vào chi tiết những trường hợp nào để hậu thế học hỏi:

“gần đây ở ta có nổi lên cái phong trào lịch sử, những sách thuộc về loại ấy soạn ra vô số, vậy mà phần nhiều đều là những cuốn sử mà người ta viết hình như hoàn toàn không có chút thưởng thức về Sử học! Nhất là chỗ lựa lọc tài liệu, nó tỏ ra rằng tác giả tay thì vơ quàng, vơ bậy, mắt thì nhắm lại, mà chân thì không bước đi đến đâu! […] tôi thực không ngờ nhà viết sử ngót hai ngàn năm trước ta, trong sự lựa lọc tài liệu lại có cái băn khoăn “khoa học” đến thế! Ước gì các tay cầm các cây “sử bút” ở nước ta ngày nay, nếu không hiểu thế nào là phương pháp sử học hiện đại, hãy lấy một chút băn khoăn của lão Long Môn [chỉ Tư Mã Thiên]?”711

711 Nhượng Tống, “Sử ký Tư Mã Thiên”, Nhà xuất bản Văn học, 2021 (t. 36)

Trước đó, cũng đã xuất hiện những nhà chép sử thử tìm một quan niệm mới và khác về “sử nhà” nhằm thoát khỏi nỗi ám ảnh “Bắc sử”. Vào năm 1914, sử gia - đại thần Hoàng Cao Khải (1850- 1933), khi đề cập đến “sử đạo-tập” là “sử-ký noi theo, sử-ký được sao chép lại của kẻ khác, không phải do tác giả tự-ý biên-soạn”, đã viết:

“Trong những ngày nước Trung Hoa đặt ách thống trị lên đầu, lên cổ dân tộc ta, thì Sử ký của nước ta chẳng qua là một biến bản của Bắc sử mà thôi! […] Những việc trọng yếu thì lại ghi chép một cách quá đơn giản, không được rõ ràng. Chẳng hạn như đời Hậu Hán, Bắc sử có chép đến cách thức ăn mặc của nước ta. Đời nhà Đường, Bắc sử cũng ghi chép cả phép đinh và điền của nước ta, thế mà sử ký của nước ta lại không hề nói động đến những việc ấy. Sử ký nước ta lúc bây giờ chỉ đăng tải những việc như quan Đô hộ nọ thuyên chuyển đi nơi khác, quan Đô hộ kia đi làm công vụ ở nơi nào mà thôi. Mà những việc như thế, theo lệ, lại được viết một cách trịnh trọng, viết những chữ lớn. Ôi! Nước ta có sử ký như thế, nào có khác gì con người có tai, mắt, chân, tay, mà không có tinh thần. […] xét những việc được ghi chép trong sử lúc ấy lại không ngoài mấy việc như lễ tế Giao [tế Trời], lễ cúng thờ các miếu, ngày sinh nhật Hoàng đế, ngày Thái hậu từ trần… Cho đến những ngày nhựt thực, những lúc sao sa, những vụ động đất, những nơi núi lở, đều thấy chép đầy cả sử sách. Còn như những vấn đề trọng yếu có liên quan mật thiết đến quốc kế, dân sinh, thì lại không hề khảo cứu đến. […] Theo lệ cũ của nước ta, thì sử-thặng của một triều đại phải đợi đến sau ngày thay họ đổi ngôi mới được công bố cho thiên hạ biết. […] Thậm chí người Pháp sang Việt-nam ta đến nay đã 50 năm. Đất Nam Kỳ bị họ chiếm cứ. Trung và Bắc Kỳ thì họ bảo hộ, gốc gác và ngọn ngành của sự tình ấy thế nào, nếu đem hỏi dân ta, thì dân ta thở than mà trả lời ấp úng như người ngồi trở mặt vào vách, không hay biết gì. Ôi! Đành rằng dân ta e ngại những sự thực của Bản Triều để đến nỗi không được đọc quốc sử.”712

712 Hoàng Cao Khải, “Việt Sử yếu”, bản dịch của Hồng-Liên Lê Xuân Giáo: “Việt Nam Sử yếu”, Tủ sách Cổ văn, Ủy ban Dịch thuật, Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn hóa xuất bản 1971, t. 13-15 (bản điện tử); xem thêm bài phỏng vấn TS Chương Thâu về quan niệm viết sử của Hoàng Cao Khải: “Đánh giá lại” Hoàng Cao Khải (thanhnien.vn).

Về Hoàng Cao Khải, F.Thierry viết: “Vua Thành Thái chưa từng đề cập vấn đề độc lập, điều mà Hoàng Cao Khải sẽ làm, dẫu vị này được xem như là một cộng tác viên đắc lực [của phía Pháp]. Năm 1910, với tất cả sự thận trọng cần thiết, Hoàng Cao Khải không ngần ngại nói rõ quan điểm của mình và nêu ra sự độc lập như một “quyền” (“Le trésor de Huê”, p. 199)

Câu kết của trích dẫn đã phần nào nói lên tâm trạng của một sử gia, có tầm cỡ chính trị đương thời, về tương quan giữa sử nhà với dân ta, và nỗi e ngại sự thực triều đình nhà Nguyễn. Hơn thế, Hoàng Cao Khải phải chăng muốn từ việc chép sử nói đến việc đọc sử? Và đọc sử như là một công cụ hay phương thế thúc đẩy ý thức quốc gia hay nhận thức về dân tộc (conscience nationale)? Trước đó, ông viết:

“Sử là dư luận chung của một nước, chẳng phải tư phổ của một gia đình hay một dòng họ […] dân trí ta chưa được khai thông một ngày là vì dân ta không có cái học quốc sử. Đây có phải là dân ta không ưa đọc quốc sử chăng?”713

713 Hoàng Cao Khải, “Việt Sử yếu”… 1971, t. 12

Biến cố 23 tháng 5 năm Ất Dậu, cùng những sự kiện trước đó và sau đó, được kiến giải qua nhiều vũ trụ, qua nhiều lăng kính: của sử quan còn hãm mình trong vũ trụ Hán hóa, của sử gia đầu thế kỷ XX còn gò bó tù túng714 trong thế giới bảo hộ thuộc địa, sử gia Tây học tiếp cận với những công cụ tư duy hiện đại cho phép mở rộng trường quan sát… Điểm lại tuần tự các diễn ngôn, trong chừng mực có thể, cho phép người đọc ngày nay nhận ra vị thế, lựa chọn và giới hạn của ngòi bút chép sử: người chép sử sống trong một dòng, một nhánh lịch sử nhất định, cũng không thoát khỏi bối cảnh lịch sử715 quy định. Vị trí, tư thế quan sát đã có tính quyết định hơn cả đối tượng được quan sát: diễn ngôn không những chỉ ra một góc cạnh của đối tượng, mà còn bộc lộ cả cách nhìn, góc nhìn của chủ thể quan sát…

714 Sử gia muốn bộc bạch thân phận một dân tộc, và của chính bản thân, khi viết ra như sau: “Người Việt Nam vì hoàn cảnh, vì tình thế bắt buộc phải im hơi lặng tiếng, nhưng lòng ái quốc mỗi ngày một nồng nàn, sự uất ức đau khổ mỗi ngày một tăng thêm”? (Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nhà xuất bản Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2005, t. 560)

715 Louis Raymond, Nguyên Thê Anh, l’historien sur le fil, juillet 2021, cf.indomem- oires.hypotheses.org

Khi bước đầu dấn mình vào một tác phẩm liên quan đến một biến cố bước ngoặt trong “sử nhà”, khoảng cách thời gian, gần một trăm năm mươi năm sau, tưởng chừng như có thể tạo điều kiện, như là về tư liệu, để người dịch vượt qua những nan giải của câu chuyện chất chứa thị phi thuộc về một quá khứ xa xăm. Thế nhưng, ngược lại, dòng thuật chuyện, dòng sự kiện, theo dòng con chữ, như được hồi sinh hồi lực, trở nên sống động, như là chuyện ngày hôm qua ở chốn kinh thành Huế. Thành quách, cung điện, chốn ngai vàng vẫn còn đó, vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt: hình bóng những nhân vật một thời lẫy lừng như vẫn còn vương vấn, ẩn khuất ở mỗi góc sân điện bệ rồng, mỗi khoảng trời cung cấm, mỗi thoáng đền đài lăng tẩm… Chân dung ẩn hiện của mỗi nhân vật lại không thể nào được lột tả trọn vẹn theo câu chữ, theo với chính kiến hay định kiến của mỗi ngòi bút. “Sử ngôn”, hiểu là những diễn ngôn về các biến cố xảy ra trong quá khứ, tương tự như những bức chân dung những thế kỷ trước vào buổi đầu của kỹ thuật nhiếp ảnh, như thể chỉ có thể đậm nhạt theo hai màu đen trắng, như rạch ròi hàm nghĩa hai diện trắng-đen, thiện-ác, tốt-xấu phân minh. Thế nhưng qua những diễn giải lớp chồng lớp, liên hồi biến hóa, đối nhau theo năm tháng, các bức chân dung như trải qua những kỳ “phẫu thuật”, thêm hay bớt phần thẩm mỹ, để người đời sau - người đọc sử có thể “chân diện mạo” mà “chân diện mục” tấn tuồng lịch sử qua các triều đại.

Người dịch hết sức ý thức đang đi vào một cánh rừng trúc đan xen chằng chịt, đầy rủi ro bất trắc. Thêm nữa, từ góc độ chuyên môn hết sức hạn hẹp (là dịch thuật), cũng không hề muốn tự quyền dễ dãi với ký ức của/về “những người đi trước”, cũng không thể tự cho phép tùy tiện với một loại diễn ngôn hết sức đặc biệt: diễn ngôn về lịch sử716. Dịch giả Jacqueline Carnaud nêu lên mối tương quan giữa công trình nghiên cứu của sử gia và công việc “chuyển tải” của dịch giả, nhất là trách nhiệm nhào nặn diễn ngôn phía người dịch:

716 Cf “Traduire le texte historique”, Actes des 24è Assises de la Traduction littéraire (Arles 2007, p. 92-129)

“Tôi hết sức ấn tượng về tính chất vô cùng đa dạng của các văn bản [có chủ đề] lịch sử. Lịch sử không những là một trường học thuật bao la, mà còn bao gồm những văn bản với bản chất rất khác biệt. […] mọi người đều đồng ý là sử gia, trong cách tiếp cận các “sự thể sự việc”, đã vận dụng những phương pháp điều tra đặc thù, sử gia có trong tay những công cụ [nghiên cứu] hiệu quả đã qua thử thách, ứng dụng những tiêu chí khách quan được công nhận, và triển khai những phạm trù hay khái niệm nằm trong khuôn khổ giới hạn thuận lý thuộc về thời đại của sử gia. Như thế, người dịch các văn bản lịch sử, các văn bản lịch sử tầm cỡ uyên bác, bó buộc phải am tường những phương pháp đang triển khai trong ngành sử học: các phương thức tiếp cận khác nhau, khi thì bổ sung cho nhau, khi thì đối chọi nhau, ngay bên trong nội bộ ngành sử học, hay như các loại hình [chủ đề] nghiên cứu sử học khác nhau ngày nay đang được triển khai. Dịch giả, do vậy, phải có khả năng định vị văn bản cần phải dịch trong muôn vàn cách tiếp cận hay phương pháp nghiên cứu khác nhau [của sử học], nghĩa là phải đặt để một văn bản [sử học] trong một bối cảnh nào đó. […] Do đó, theo tôi, nhiệm vụ của người dịch là nhận dạng ra nan đề [của văn bản sử học cần phải dịch], nếu cần thì phải mở rộng việc đọc các tư liệu liên quan đến chủ đề của văn bản. Lý do? Để [dịch giả] nắm bắt chính xác vị trí của tác giả văn bản, để rồi, trong quá trình dịch thuật, không rơi vào nguy cơ dịch chuyển vị trí tác giả trong cục diện đối chứng [nghiên cứu] học thuật. Thậm chí, do vô ý vô tình, có thể thẳng thừng đưa đẩy tác giả [cùng với văn bản] vào một vị thế đối lập hay ngược lại [so với ý đồ thực sự của tác giả]. Thật vậy, tất cả thử thách của một văn bản lịch sử, và là lý do văn bản hiện hữu, chính là luận điểm văn bản đề ra nhằm bảo vệ trong bối cảnh một nan đề nhất định. […] Theo tôi, một trong những bổn phận tiên quyết của dịch giả chính là đảm bảo chính xác cho sử gia, và văn bản sử học liên quan, vị trí vị thế đã sở đắc trong vũ trụ học thuật của ngành sử học.”717

717 Cf “Traduire le texte historique” in Actes des 24è Assises de la Traduction littéraire (Arles 2007), intervention de J.Carnaud (p. 106-109): “Je suis frappée par la très grande diversité des textes d’histoire. L’histoire, c’est non seulement un champ immense, mais aussi des textes de nature très différente. […] tout le monde s’accorde pour dire que l’historien, dans son appréhension des “faits”, met en jeu des méthodes d’investigation spécifiques, qu’il dispose d’outils efficaces et éprouvés, qu’il utilise des critères d’objectivité reconnus, qu’il manipule des catégories ou des concepts appartenant à l’horizon rationnel de son temps. Le traducteur de textes historiques, de textes historiques savants, doit donc être au fait des méthodes en vigueur dans la discipline, des différentes approches méthodologiques qui tantôt se complètent, tantôt s’opposent, à l’intérieur même de la discipline, des différents types d’histoire qui se pratiquent aujourd’hui. Il doit pouvoir situer le texte qu’il a à traduire dans cette constellation, c’est-à-dire, là encore, le placer dans un certain contexte.[…] C’est alors au traducteur, me semble-t-il, de la cerner, au besoin en élargissant ses lectures sur le sujet traité. Pourquoi? Pour savoir où exactement se situe l’auteur qu’il traduit et ne pas risquer, au cours de son travail, de le déplacer ailleurs dans cette confrontation ou, pire, de le faire carrément passer, sans le vouloir, sans s’en rendre compte, dans l’autre camp. En effet, tout l’enjeu d’un texte d’histoire, sa raison d’être, si l’on veut, c’est la thèse qu’il défend à l’intérieur d’une problématique donnée. L’enjeu du texte peut aussi être, et alors le livre est vraiment grand, non pas le développement d’une thèse à l’intérieur d’une problématique déjà existante, mais la constitution d’une nouvelle problématique, d’une approche révolutionnaire d’un sujet, d’une époque, d’un événement. L’un des devoirs primordiaux du traducteur, selon moi, est de donner, ou peut-être vaudrait-il mieux dire de conserver à l’historien et à son texte exactement la place qu’ils occupent dans leur champ disciplinaire.”

Lời bạt của người dịch, như thế, cũng là lời tự nhủ về những đường biên mong manh giữa những trang sử thi, sử lược, sử liệu, sử văn… Diễn ngôn vướng trong cái bẫy của thời gian hay thời đại: đôi lúc, chẳng nói lên được điều muốn nói, lại chẳng che giấu được điều không muốn bộc bạch… Lại chịu, như đã nói, sự “thẩm thấu” qua lại thường xuyên giữa ngay chính những diễn ngôn xa gần liên quan: đọc tác phẩm của François Thierry cũng là dịp ý thức về sự thẩm thấu, tương tác qua lại rất tinh tế, khó thấy của những diễn ngôn bàn về biến cố năm xưa “23 tháng 5 năm Ất Dậu” tại kinh thành Huế. Diễn ngôn của người dịch cũng không thoát khỏi quy luật của “lưới lời”, nay cũng phải chấp nhận khép mình vào sự phê phán: ngòi bút của người dịch cũng bị quy định nghiêm ngặt bởi trường văn hóa và công cụ ngôn ngữ đương thời tích lũy. Một lần nữa, xin được phép lập lại, tác phẩm gốc muôn đời sống động, văn bản dịch không sao có được cái sức sống viên mãn, để có được đôi chút “tuổi thọ” hay phần nào sự hài lòng của độc giả ngày nay: đã trở nên vô cùng thông thái theo với truyền thông đa phương tiện. Thêm nữa, vốn liếng hành trang tri nhận (bagage cognitif718) của người đọc (sở đắc từ ngày chào đời!), vô cùng và vô hình, sẽ là nguồn năng lượng và động lực cho câu-từ vượt xa cái thân phận chữ đen trên giấy trắng, vốn tự thân hoàn toàn vô nghĩa nếu không may mắn nằm trong tay một người đọc sở đắc một sự thông tuệ thường hằng vận động. Thậm chí, nhiều khi, điều rất đỗi bình thường, con Chữ cái Nghĩa nương nhờ vào người đọc, lại vượt rất xa những đường chân trời (horizon d’attente) trong tầm nhãn quan hay dự phóng của người viết… Cổ nhân da vàng ngàn xưa chẳng đã từng mong ước:

718 Theo như quan niệm của Danica Seleskovitch và Marianne Lederer, những người đặt nền móng, thực hành và lý thuyết, cho trường phái Paris: cf. Danica Seleskovitch, De l’expérience au concept, in Interpréter pour traduire, Danica Seleskovitch et Marianne Lederer (Didier Erudition, coll. Traductologie,1976)

“Nơm là để bắt cá, được cá thì quên nơm.

Bẫy là để bẫy thỏ, được thỏ thì quên bẫy.

Lời là để tỏ ý, được ý thì quên lời.

Làm sao ta có được người quên lời để đàm đạo!” (Trang Tử)

Người dịch rất mong nhận được sự rộng lượng của người đọc./.

Cố đô Huế, xuân 2020 – xuân 2022

Lê Đức Quang

a37

“Đình-Thần chi ấn”, bằng đồng, cân nặng 1,790 kg, chế tác dưới thời vua Tự Đức (vào năm 1876), được Bộ Lễ báo cáo thất lạc (tháng 11/1885) sau sự kiện Thất thủ Kinh đô, được người Pháp trao lại cho Triều đình Huế vào tháng 11 năm 1936: Thượng thư - Đổng lý Ngự tiền Văn phòng Phạm Quỳnh báo cáo tiếp nhận với Hoàng đế Bảo Đại719

719 DG: Nguồn L.Sogny, “(Notuletttes) 1. Un sceau royal retrouvé en France”, BAVH 1-1937, t. 57-62. Đáng chú ý là “Đình thần chi ấn” đã được một gia đình người Pháp (ở vùng Var, miền Nam nước Pháp) phát hiện trong tài sản thừa kế từ một người chú vốn là thương gia đã sinh sống ở thành phố Tourane (Đà Nẵng) vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX: sau khi ấn được L. Sogny xác định nguồn gốc, con cháu người Pháp có nguyện vọng trao trả lại cho triều đình Việt Nam qua trung gian chính quyền bảo hộ.