Các nén vàng đa dạng hơn nhiều. Xét về cân nặng, các nén vàng cũng đồng đều hơn: chẳng hạn, trường hợp các nén loại 40 lạng triều Minh Mạng, mà Sở Đúc Tiền Paris sở hữu 4 mẫu hiện vật, đã ghi nhận là giữa nén nặng nhất (1533,01g) với nén nhẹ nhất (1530,61g), chỉ có 0,16% khác biệt. Cùng với sự đều đặn về trọng lượng còn có độ tin cậy về tuổi kim loại được ghi chú chính xác trên nén vàng: cửu tuế chỉ “9 phần mười độ tinh luyện”, hay bát tuế chỉ “85% độ tinh”, hay thất ngũ tuế: “75% độ tinh”. Vẫn trên cơ sở những nén vàng niên hiệu Minh Mạng, để tính toán cân nặng độ tinh theo mỗi lạng được thông báo, người ta có được những con số như 28,7g cho loại 75%, 30,67g cho loại 80%, 32,6g cho loại 85% và 34,5g cho loại 90%, như thế loại lạng tinh luyện là 38,33g. Nếu cũng cân đong tính toán như vậy với loại lạng niên hiệu Thiệu Trị, cũng có được những kết quả tương tự như trên: 32,7g cho loại lạng 85% độ tinh, 28,6g cho loại 75%, 26,8% cho loại 70%, như vậy vẫn tương ứng với loại lạng tinh luyện là 38,33g. Với những nén thời vua Tự Đức, có một sự sụt giảm nhẹ về chất lượng: loại lạng 85% độ tinh chỉ còn ở mức 32,2g vàng tinh luyện, như thế dẫn đến việc loại lạng có độ tinh xuống còn 37,8g. Tóm lại, sự đều đặn về chất lượng như vậy cho thấy sự công kỹ trong chế tác cùng với sự chặt chẽ trong việc kiểm tra kiểm soát trong các công xưởng hoàng gia thuộc Nội vụ phủ.
Việc nghiên cứu lượng tính các nén vàng dễ dàng hơn nhiều vì “Bảng tổng kết” liên quan chính xác hơn nhiều so với bảng dành cho các nén bạc. Tuy vậy, đối với những nén nhỏ loại 1,2,3,4 và 5 tiền (xếp loại 13 trong “Bảng tổng kết”), đã không có sự phân biệt giữa các vùng phát hành, do đó không cho phép chỉ ra được tỉ lệ chính xác của những việc chế tác liên quan đến [triều đại] mỗi vị trong số ba vị hoàng đế nêu trên, chúng tôi đã xếp riêng chúng ra theo một bảng khác. Thêm vào đó, trong xếp loại 13 (số 13a, 13b, 13c, 13d, 13e, 13f và 13g), loại 13a gồm những nén loại 1 lạng mà không thể xác định nó thực sự tương ứng với cái gì, vì rằng có một bảng tổng kê khác chỉ ra rằng loại 13a là một loại nén thời vua Minh Mạng cỡ một phần mười của lạng, tương ứng với 1 tiền. Cũng theo bản danh sách này, 13b được cho là tương ứng với 5 tiền thời vua Thiệu Trị! Nếu chúng ta chấp nhận giả thuyết này thì phải liệt kê tổng kết các nén loại 5 tiền thời vua Minh Mạng và vua Tự Đức vào đâu? Ngoài ra, trong “Bảng tổng kết”, có những sai sót rõ rệt: chẳng hạn, đối với hạng 13f, loại nén nhỏ loại 2 tiền, đếm có 143 mẫu với tổng trọng lượng là 111,7g, trong khi đó, loại 2 tiền cân đúng khoảng 7,6g725 thì tổng trọng lượng tương ứng lẽ ra phải là 1,086 kg. Đã có những sai sót tương tự cho hai loại nén nhỏ loại 3 tiền (13d và 13e).
725 Hai nén nhỏ loại 2 tiền thời vua Tự Đức, cân nặng 7,62g và 757g (Ibidem vol.II, n°V297-V298)
Nén tiền thời vua Minh Mạng
Theo “Bảng Tổng kết”, chúng ta có thể lập ra bảng sau đây về các “Nén vàng thời vua Minh Mạng”:

Như thế, đại thể, tổng trọng lượng của 24.830 lạng vàng tương ứng với khoảng 950 kg vàng, thêm vào đây là phần [phía Pháp] đã trao trả lại cho hoàng đế [An Nam, là Đồng Khánh], tổng cộng tất cả ước tính lên đến 1900 kg vàng. Bảo tàng Tiền cổ còn lưu trữ 26 nén vàng thời vua Minh Mạng.