Các nén bạc xuất xứ từ kho báu triều đình Huế được tướng De Courcy thu giữ, còn lại bốn nén: 2 với niên hiệu Minh Mạng, 2 với niên hiệu Tự Đức722. Là những nén bạc loại 10 lạng, cân nặng khoảng 385 gram, có tuổi là 991°/oo, tương đương 382,4 bạc loại tinh. Điều đáng tiếc là khi thiết lập phân loại hiện vật, đã không có sự phân biệt giữa các mẫu723: tỉ lệ giữa số nén niên hiệu Minh Mạng và số nén niên hiệu Tự Đức sẽ chẳng còn có thể xác định được. Tương tự như vậy, sẽ chẳng thể nào biết được tất cả các nén bạc thời Tự Đức, tương tự như hai nén còn lại, có được ghi là vào năm 1880 và được đúc ở tỉnh Sơn Tây hay không, và, ngoài ra, có hay không những nén không có ghi chú gì cả, vì đây là điều rất thường xảy ra vào thời kỳ đó. Theo “Bảng tổng kết thẩm định giá trị các kim loại vàng và bạc thuộc kho báu kinh thành Huế724”, số lượng nén bạc về phần phía Pháp lên đến 38.106 nén; toàn bộ, phần của Pháp [lưu trữ] cộng với phần trả lại cho vua Đồng Khánh, như thế lên đến 76.212 nén, mỗi nén là 10 lạng, vị chi gần 30 tấn bạc.
722 François Thierry, Les Collections monétaires […] op.cit. vol.II, n°V83, V84, V239 et V240. Tất cả các nén bạc thuộc bộ sưu tập của Bảo tàng Tiền cổ thuộc Sở Đúc Tiền Paris không xuất xứ từ kho báu triều đình Huế.
723 Nguồn như trên, tập II, Bảng tổng kết, bản 94.
724 Nguồn như trên, tập II, Bảng tổng kết, bản 91-94.