• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Kho báu Kinh thành Huế sau ngày Thất thủ Kinh đô
  3. Trang 78

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 77
  • 78
  • 79
  • More pages
  • 82
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 77
  • 78
  • 79
  • More pages
  • 82
  • Sau

Các nén vàng thời vua Tự Đức

Vẫn căn cứ vào “Bảng Tổng kết” và có tính đến những gì đã được đề cập trước đó, có thể lập ra bảng kê sau đây:

Nén vàng thời Tự Đức

a48

Như thế, tổng số 565 lạng tương ứng với khoảng 21 kg vàng. Theo đó, có thể ước chừng 42 kg vàng là toàn bộ lượng vàng nén thời Tự Đức, trong kho báu triều đình Huế vào năm 1885. Bảo tàng Tiền cổ lưu trữ 16 nén vàng thời vua Tự Đức.

Những nén vàng không thể xác định (non attribuables sic)

a49

Nếu cộng thêm vào con số 668 nén vàng trên đây, tượng trưng cho 2075 tiền, phần tương đương trao trả cho hoàng đế An Nam, chúng ta sẽ có 4150 tiền, tương đương hơn 15 kg vàng.

Theo với số lượng nén được xác định thật rõ ràng, chiếm đến 98,8% toàn bộ phần của phía Pháp, có thể nhận ra là:

- số nén vàng thời Minh Mạng lên đến 1390 nén (tương đương 73,11% của tổng trọng lượng);

- số nén vàng thời Thiệu Trị là nhiều hơn: 3005 mẫu, nhưng chỉ chiếm 25,25% tổng trọng lượng;

- cuối cùng, số nén vàng thời vua Tự Đức là 557 nén, nhưng chỉ tương đương 1,64% [của tổng trọng lượng hiện vật]

Nếu phân bố các nén không xác định theo cùng các tỉ lệ như vậy, sẽ có:

- thời vua Minh Mạng, tổng trọng lượng sẽ là 23.133,4 lạng, tương đương khoảng 961,35 kg vàng;

- thời vua Thiệu Trị: 8675,8 lạng, tương đương khoảng 331,84 kg vàng;

- thời vua Tự Đức: 571,8 lạng, tương đương khoảng 21,87 kg vàng.

Về phần của phía Pháp, tổng cộng lên đến hơn 1,3 tấn vàng. Nếu chấp nhận [giả định] là việc phân chia kho báu là cân đối [cho hai bên, Pháp và hoàng đế An Nam, bằng nhau], chúng ta có thể ước chừng kho báu khoảng 2,6 tấn vàng, thêm vào đó là 18 kg các đồng tiền thưởng và đồng roupie.

Nén vàng thuộc kho báu triều đình nhà Nguyễn có hai dạng: dạng hình hộp chữ nhật hoàn chỉnh và dạng nén hình chữ nhật. Các nén vàng (barres d’or sic), có hình dáng tương tự như các nén bạc, được dùng cho dự trữ, cỡ 10 hay 40 lạng: chỉ có thể hãn hữu tìm thấy những nén như thế trong kho báu của triều đình, ở kho tàng của hoàng gia, thuộc của cải tài sản của vài vị đại thần hay những vị đại thương gia. Vàng xuất hiện thông thường nhất dưới dạng nén loại 10 lạng. Các nén vàng ở dạng hộp, có khắc dấu, rất ấn tượng nhưng hiếm gặp: trên tổng số 1390 nén vàng thời Minh Mạng, chỉ thấy 248 mẫu loại này.

Các nén vàng được chế tác xuất hiện từ thời vua Minh Mạng. Trang trí tương tự như nhau cho tất cả các cỡ, từ 30 đến 100 lạng: khung có họa tiết sóng lượn với hoa lá cho mặt phải và mặt trái, tô điểm hình rồng tầm châu rực lửa trong mây ở các cạnh, mặt trên và mặt dưới có hình mặt trời ló dạng trong mây. Phong cách trang trí rất thanh thoát đặc biệt trên các nén loại 50 và 100 lạng, mà một số được mài giũa lại: chẳng hạn có thể ghi nhận tư thế đầu rồng thoái lui so với thân một cách thanh thoát, một đặc điểm sẽ không còn thấy trên các nén vàng xuất hiện muộn hơn, như những nén của thời Thiệu Trị, song song theo đó trang trí hoa lá sóng lượn được thay thế với hình ảnh “lưỡng long đối đầu [tranh châu]”.