• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Kho báu Kinh thành Huế sau ngày Thất thủ Kinh đô
  3. Trang 79

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 78
  • 79
  • 80
  • More pages
  • 82
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 78
  • 79
  • 80
  • More pages
  • 82
  • Sau

Các đồng tiền thưởng

Tất cả các đồng tiền thưởng của kho báu đều bằng vàng. Chẳng hề gặp đồng tiền thưởng nào bằng bạc, vốn được biết rất thông dụng, được nhiều lần sử dụng để ban thưởng726. Những đồng tiền thưởng được lưu giữ thường có ở mặt phải dòng chữ “tiền tệ thông dụng dưới triều vua…” chẳng hạn như “Minh Mạng thông bảo”, “Thiệu Trị thông bảo”, “Tự Đức thông bảo”. Hiếm khi gặp trường hợp chỉ ghi duy nhất niên hiệu như Minh Mạng, Thiệu Trị hay Tự Đức. [Trang trí] mặt trái rất đa dạng, ở mỗi loại có thể có nhiều dạng khác nhau. Các đồng tiền thưởng thuộc kho báu Huế, được lưu trữ ở Bảo tàng Tiền cổ, gồm 14 đồng tiền thưởng thời vua Minh Mạng, 19 đồng tiền thời vua Thiệu Trị, và 47 đồng tiền thời vua Tự Đức. Việc ra quyết định lưu giữ hai mẫu hiện vật cho mỗi loại đã không luôn được tôn trọng. Thật vậy, đôi khi cũng có được hai bản mẫu chính xác cùng đặc tính, nghĩa là được chế tác theo với cùng một loại khuôn rập, nhưng nói chung, thay vì làm như vậy, thường người ta đã chỉ lưu lại hai mẫu tương tự. Đôi lúc, người ta đã lẫn lộn các loại và kết quả là không có được hai mẫu tiền thưởng cùng loại cùng dạng, mà lại là hai đồng tiền thưởng khác loại. Như vậy, có khả năng đã có những loại tiền thưởng được biết đến trước đó và nay không còn trong bộ sưu tập của Sở Đúc Tiền [Paris], là do sơ suất, đã bị gửi đi lò nấu chảy. Sau đây, chúng ta sẽ có ba bảng phân bố các loại tiền thưởng khác nhau theo các triều vua.

726 Xem chương I: Những đồng tiền thưởng bằng bạc thuộc bộ sưu tập Bảo tàng Tiền cổ [tại Pháp] không có xuất xứ từ kho báu triều đình Huế; tương tự như vậy, hai đồng bằng vàng là do đô đốc Courbet (1884) hiến tặng.

Các dạng tiền thưởng theo các mẫu khác nhau

Đồng phi long là một đồng bằng bạc, theo phương thức các đồng tiền bằng bạc của phương Tây (như đồng pesos Mê-Hi-Cô, dollars dùng trong thương mại hay đồng 5 quan): cân nặng 7,2 tiền, tương ứng với một once (ca? 28 grammes). Và từ dạng tiền này người ta đã đúc các đồng bằng vàng. Hai đồng phi long thời Thiệu Trị không phải là hai mẫu cùng đặc tính: trên một mẫu, rồng quay đầu bình thường về phía trái, trong khi trên mẫu kia, rồng đặc biệt quay đầu về bên phải. Dưới triều vua Tự Đức, chỉ có loại một phi long và loại nửa phi long.

Về đồng tiền gọi là “Long Vân khế hội727” với hình mặt rồng tượng trưng cho vị minh quân giữa các thượng thư, Bảo tàng Tiền cổ lưu giữ bốn mẫu của đồng tiền này thời Tự Đức: hai đồng 5 tiền và hai đồng 2,5 tiền. Đồng tiền “triệu dân lại chi” [“muôn dân tin tưởng vào Ngài”728] cũng tồn tại theo hai khuôn mẫu: hai hiện vật theo khuôn mẫu lớn triều vua Thiệu Trị, hai hiện vật loại khuôn mẫu lớn triều vua Tự Đức và một hiện vật theo khuôn mẫu nhỏ cũng dưới thời vua Tự Đức, tất cả đã được lưu giữ.

727 Xem Tiền thưởng thời Nguyễn (Phần IV): Tiền thưởng đời vua Tự Đức (1848- 1883) | Nghệ Thuật Xưa (nghethuatxua.com)

728 Như trên

Đồng tiền thưởng Song long, có tên như vậy vì hình ảnh hai con rồng trên mặt trái, tồn tại theo ba khuôn mẫu: lớn là 7 tiền, hạng trung là 3,5 tiền, và nhỏ là 2 tiền. Nhưng trong phần còn lại từ kho báu triều đình Huế chỉ có hai hiện vật theo khuôn mẫu lớn thời vua Thiệu Trị, ba hiện vật khuôn mẫu lớn và một hiện vật loại khuôn mẫu trung bình thời vua Tự Đức. Bảo tàng Tiền cổ chỉ còn lưu trữ hai hiện vật khuôn mẫu trung bình (5 tiền) loại “vạn thế vĩnh lại” [“muôn đời mãi mãi tin cậy”] thời vua Tự Đức: mặt trái đồng tiền này có một bài thơ dài ca ngợi công lao, đức độ và hiền minh729. Về những đồng tiền thưởng có hình ảnh rồng, Long Vân, biểu hiện một con rồng uốn mình theo mặt trời được cách điệu, có ba khuôn mẫu: 1 lạng, 5 tiền và 3 tiền hay 2,5 tiền. Về kho báu triều đình Huế liên quan, có một mẫu 3 tiền loại này thời vua Minh Mạng và bốn mẫu thời vua Tự Đức. Về các đồng “sử dân phú thọ”, nghĩa là “đảm bảo cho dân sung túc và trường thọ”, cũng có ba khuôn mẫu, lớn, trung bình và nhỏ, nhưng trong kho báu chỉ có duy nhất loại trung bình 2 tiền.

729 DG: “Thiệu Trị thông bảo & Vạn thế vĩnh lại en or et argent”: Thiệu Trị thông bảo & Vạn thế vĩnh lại en or et argent | Alain R Truong Vietnam (wordpress.com)

Tiền thưởng bằng vàng thời vua Minh Mạng liên quan kho báu triều Nguyễn

a50

Các đồng tiền thưởng tạo thành một chuỗi về trọng lượng

Có một chuỗi các đồng tiền thưởng, với cân nặng có con số [giá trị] sẽ kết hợp với một khái niệm hay ý niệm nào đó: đồng 2 tiền chẳng hạn kết hợp ý niệm Nhị Nghi (“Deux Principes” sic), hay ý niệm Nhị Thắng (“Deux Suprématies” sic); những đồng 3 tiền kết hợp với Tam Thọ (“Trois Longévités” sic); những đồng 4 tiền với ý niệm Tứ Mỹ (“Quatre Perfections” sic); và những đồng 5 tiền với ý niệm Ngũ Phúc730(“Cinq Bonheurs” sic). Cần lưu ý là hai mẫu hiện vật về đồng Nhị Nghi thời Thiệu Trị không đúc bằng vàng mà bằng bạc mạ vàng: phân tích cho thấy độ tinh là 968°/00 bạc và 31°/00 vàng. Theo “Bảng Tổng kết”, trong kho báu triều đình Huế liên quan, đã có 47 mẫu loại tiền này.

730 Xem “Về sưu tập tiền thưởng triều nguyễn tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia”, Nguyễn Đình Chiến và Trương Văn Thắng: nguồn, http://dsvh.gov.vn/Upload/files/5413_Ve%20suu%20tap%20tien%20thuong%20 trieu%20Nguyen%20tai%20Bao%20tang%20Lich%20su%20quoc%20gia.pdf

Loại tiền thưởng “Thập Nhân Nghĩa” (“Dix Convenances”)

Có một trường hợp đặc biệt, là một bộ tiền thưởng từ 1 tiền đến 1 lạng, gồm các đồng tiền thưởng “Thập Nhân Nghĩa”, mỗi tiền thưởng dành cho một trong những đức tính cần thiết trong quan hệ xã hội hay riêng tư theo quan niệm của Khổng giáo. Mỗi loại có cân nặng riêng: 1 tiền, 2 tiền, 3 tiền, 4 tiền, v.v. cho đến 1 lạng. Bộ tiền thưởng này được chế tác bằng vàng và bạc, ra đời vào tuần trăng thứ nhất, năm thứ 22 triều vua Tự Đức (1869) để ban thưởng cho các đại quan văn võ thuộc hoàng gia731. “Mười điều tuân thủ” trong quan hệ giữa người với người, “Thập Nhân Nghĩa”, đặt nền tảng trên “Ngũ Thường” của Khổng giáo, [chỉ ra tương quan đạo lý giữa] cha con, anh em, vợ chồng, người trên kẻ dưới, vua tôi:

731 ĐNTL, phần về vua Tự Đức, chương XL, p. 1

• đáp lại tình phụ tử của cha là sự hiếu thảo của con;

• đáp lại lòng nhân hậu của người anh là sự phục tùng của người em;

• đáp lại sự ngay thẳng trung trực của người chồng là sự nhu thuận của người vợ;

• đáp lại lòng tốt của bề trên là sự tôn kính của kẻ dưới:

• đáp lại lòng nhân từ của quân vương là sự trung thành của quần thần.

Thập Nhân Nghĩa theo đó sẽ là sự Thương mến, sự Hiếu thảo, tính Nhân từ, sự Phục tùng, tính Trung trực, đức Vâng lời, sự Thiện tâm, sự Cung kính, lòng Nhân ái và sự Trung thành (l’Affection, La Piété filiale, la Bonté, la Soumission, la Droiture, l’Obéissance, la Bienveillance, la Déférence, l’Humanité et la Loyauté, sic). “Bảng Tổng kết”, lập ra vào thời điểm [các cơ quan phía Pháp] tiếp nhận kho báu, đã không được chính xác để theo đó có thể phân loại các dạng tiền thưởng, với số lượng của mỗi dạng trong toàn bộ [các mẫu hiện vật tiếp nhận]. Ngày nay, bộ sưu tập chỉ còn lưu giữ hai tiền thưởng loại 1 tiền “Thương mến”, hai tiền thưởng loại 2 tiền “Hiếu thảo”, hai tiền thưởng loại 3 tiền “Nhân từ”, một tiền thưởng loại 4 tiền “Phục tùng”, và một tiền thưởng loại 8 tiền “Cung kính”, điều này cho thấy chỉ thị quyết định dành ra hai mẫu hiện vật cho mỗi loại tiền đã không được chấp hành đúng theo câu chữ, hay có khả năng là những người được giao phó nhiệm vụ rất tinh tế này, đã không đủ khả năng [trình độ] để đảm nhiệm công việc phân biệt các mẫu hiện vật theo từng đôi, có hay không những đặc tính hoàn toàn tương tự, tương ứng như nhau. Đương nhiên, ngoại trừ trường hợp kho báu triều đình Huế, vào thời điểm bị [phía Pháp] thu giữ, vốn đã không có những bộ tiền đầy đủ.

Tiền thưởng thời vua Thiệu Trị trong kho báu liên quan

a51

Tiền thưởng nhỏ loại 1 tiền

Ngoài ra còn có một nhóm tiền thưởng với những ghi chú hay họa tiết khác nhau, hay ghi chú kèm theo họa tiết, nhưng về nguyên tắc có cùng một giá trị là 1 tiền, cân nặng khoảng 3,8 gr. Còn có đồng Bát Bửu, đồng Vạn Thọ, hay vạn thọ như ý, và các đồng “Sept Régulateurs”, thất chính732 (sic).

732 Bốn đồng “Thất chính” là một trường hợp mẫu mực về phương pháp lựa chọn trước khi đưa những gì không lưu giữ vào lò nung chảy: các mẫu số V97 và V98 thực sự là những mẫu đôi hoàn toàn tương tự đồng nhất về đặc tính, vì xuất xứ từ cùng những khuôn đúc chạm. Nhưng các mẫu số V99 và V100 là khác nhau, vì trên mẫu V100, họa tiết ở mặt trái đảo ngược lại so với họa tiết trên mẫu V99, và một con số đã được khắc thêm vào sau khi đúc.

Loại tiền dao động về trọng lượng

Có những tiền thưởng mà trọng lượng không cố định, không thuộc hệ thống truyền thống tính theo lạng, cũng không thuộc hệ thống peso. Một số tiền thưởng chỉ có duy nhất một khuôn mẫu, nhưng lại có những dao động về trọng lượng rất lớn, và hình như không có trọng lượng [chính thức hay] hợp pháp. Đó là trường hợp các tiền thưởng loại Tam Đa, loại Ngũ Bảo, loại Phú thọ đa nam, nghĩa là “giàu sang, lão thọ và nhiều con trai”, và cuối cùng là các đồng quan bằng vàng, nghĩa là các tiền thưởng đúc theo với hình dáng và ghi chú của các đồng tiền thông dụng.