Bộ sách này có thể gọi là kinh “Khóa Hư” vì nó đúc kết cả một đời thực nghiệm về chân lý sống của tác giả. Tác giả là một vị vua khai sáng ra triều đại nhà Trần, oanh liệt nhất trong lịch sử dân tộc, ba phen đánh đuổi quân xâm lăng Mông Nguyên - đội quân từng chinh phục thế giới từ Á sang Âu “đi đến đâu cỏ không mọc lên được đến đó”.
Nhà vua đã trải qua quãng đời thăng trầm, bố mẹ mất sớm, một mình phải đối mặt với rất nhiều biến động triều chính. Do đấy mà An Sinh Vương Trần Liễu, nổi loạn và Trần Thái Tông bỏ cung điện trốn vào núi Yên Tử, tìm cầu Phật giáo để giải thoát. Đây chính là lời Trần Thái Tông viết:
“Bấy giờ ý chí của trẫm đã nhất quyết. Đêm mồng 3 tháng 4 năm Bính Thân, tức năm thứ năm niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình (1245), trẫm nhân mặc áo mỏng thường đi ra cửa cung, bảo tả hữu: “Ta muốn đi chơi, nghe trộm lời dân để xem nguyện vọng của dân chúng, ngõ hầu biết được sự khó nhọc của họ”. Lúc ấy đi theo bên trẫm bất quá bảy tám người. Đến đêm vào giờ Hợi, một mình một ngựa cất lẻn ra đi. Khi đã qua sông Nhị, liền hướng phía đông mà tiến mới thật tình bảo cho tả hữu biết. Họ kinh ngạc, đều ứa nước mắt khóc. Sáng hôm sau vào giờ Mão thì đến bến Đại Than chân núi Phả Lại. Trẫm e có kẻ nhận biết, nên phải lấy vạt áo che mặt mà qua sông, rồi theo đường tắt lên núi. Đến tối, vào nghỉ trong chùa Giác Hạnh đợi sáng lại đi. Trèo lội vất vả, núi hiểm, suối sâu, ngựa mệt không tiến được nữa. Trẫm bèn bỏ ngựa, vịn vách đá mà đi. Đến giờ Mùi mới tới Yên Tử. Qua hôm sau, trèo thẳng lên đỉnh, vào ra mắt Quốc sư Trúc Lâm là vị đại Sa môn ở đây.
Thấy trẫm, Quốc sư (Phù Vân) mừng hớn hở thong thả nói: “Lão tăng ở núi rừng lâu, xương cứng, thể gầy, nhai hạt dẻ, uống nước suối, vui thú cảnh rừng, nhẹ như mây nổi nên theo gió đến đây. Nay nhà vua bỏ địa vị nhân chủ, nghĩ đến cảnh quê mùa rừng núi, hẳn có ý tìm hỏi điều gì mới tới đây?”.
Trẫm nghe sư nói, hai hàng nước mắt tự nhiên khôn cầm, nhân mới đáp: “Trẫm còn thơ ấu, sớm mất hai thân; bơ vơ đứng trên sĩ dân, không nơi nương tựa. Nghĩ lại sự nghiệp của đế vương đời trước thịnh suy không thường, cho nên vào núi chỉ cầu làm Phật không cầu chi khác!”. Sư đáp: “Núi vốn không có Phật. Phật ở nơi tâm người, tâm lặng mà biết ấy là chân Phật. Nay nếu nhà vua giác ngộ được tâm thì lập tức thành Phật không phải cầu tìm khó nhọc ở bên ngoài vậy” (Thiền tông chỉ nam tự).
Đoạn vấn đáp trên đây lời nói tự sự chính xác thành khẩn, không cho phép ta nghi ngờ không phải Trần Thái Tông đã bỏ ngôi để vào núi cầu Phật tìm giải thoát cho nỗi lòng ưu phiền bi đát. Sử gia Ngô Thời Sỹ đã nhận định:
“Vua Thái Tông... (soạn) sách Khoá hư lục mến cảnh sơn lâm, coi sống chết như nhau, tuy ý tứ gần với đạo Phật không tịch, mà chí thì rộng xa cao siêu cho nên bỏ ngôi báu như trút dép nát vậy” (Việt sử tiêu án Q.III).
Thái độ hỷ xả của nhà vua thực là tinh túy của tôn giáo thực hiện.
Vì Tể tướng Thủ Độ và toàn thể quần thần yêu cầu và nhất là lời khuyên chính đáng của Quốc sư: “Phàm làm đấng nhân quân phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn và tâm thiên hạ làm tâm. Nay thiên hạ muốn đón nhà vua về cung, nhà vua không về sao được?”.
Và Trần Thái Tông phải trở về gượng gắng lên ngôi. Và ngài đã giác ngộ khi đọc Kinh Kim Cương đến câu: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” (Nên có cái tâm không chấp vào đâu cả). Chính với cái tâm minh ấy mà nhà vua đã nhất quán tam giáo: “Vị minh nhân vọng phân tam giáo, liễu đắc thể đồng ngộ nhất tâm!” (Chưa ngộ, người lầm chia tam giáo; tỏ rồi, đồng thể cùng một tâm).
Không những Thái Tông có tinh thần khai phóng. Ngài còn khoan nhân đại độ, đã khoan thứ cho Trần Liễu nổi loạn, anh em ôm nhau khóc trước mũi kiếm của Trần Thủ Độ, nên về sau Dụ Tông có thơ ca tụng:
Đường Việt khai cơ lưỡng Thái Tông
Đường xưng Trinh Quán, ngã Nguyên Phong
Kiến Thành tru tử, An Sinh tại
Miếu hiệu tuy đồng đức bất đồng.
(Nhà Đường, nước Việt mở nước có hai vua Thái Tông, nhà Đường xưng là Trinh Quán, ta xưng là Nguyên Phong; Kiến Thành, em Thế Dân bị anh giết còn An Sinh là anh Thái Tông vẫn sống và được phong ấp. Tuy miếu hiệu hai vị vua của hai đất nước có tên giống nhau song đức độ của họ khác nhau).
Sau khi trình bày “Vietnamese Humanism” (ở Đại học Hawaii năm 1957, có đăng ở Hawaii University Press, October 1959, January 1960), tôi có đưa cho D.T. SUZUKI danh tiếng về “Zen” Nhật Bản, ông ta đã hết sức ca tụng bộ sách Khóa Hư và tác giả của nó nhất lại là một nhà vua.
Sách Khóa hư được Hòa thượng Thanh Kiểm chùa Vĩnh Nghiêm dịch lại đầy đủ, chú giải minh bạch, (xứng) đáng là bộ kinh (hiếm hoi) của Phật giáo Việt Nam hiếm hoi của Tông giáo thực hiện, một tập đại thành triết học tôn giáo thế giới.
Nay tựa
NGUYỄN ĐĂNG THỤC
Sài gòn, ngày 4 tháng 6 năm 1992