Vốn dĩ! Bốn đại1 đều không, năm uẩn2 chẳng có. Do không dấy vọng, vọng thành sắc, sắc tự chân không, nên vọng từ không, không hiện vọng, vọng sinh các sắc. Đã trái không sinh không hóa, nên mãi có hóa có sinh. Không sinh hóa thời không hóa không sinh; có hóa sinh nên có sinh có hóa. Hoặc sinh thánh hiền, ngu trí; hoặc hóa vẩy cánh, lông sừng. Luôn luôn dạt đắm ở bến mê, mãi mãi nổi chìm trong biển khổ. Lờ mờ mù mịt, nào biết nào hay; lo lắng vội vàng, chẳng tỉnh chẳng ngộ. Hết chỉ buông lòng trôi khắp, đều không xỏ mũi kéo về.
1 Bốn đại: Địa đại, Thủy đại, Hỏa đại, Phong đại.
2 Năm uẩn: Sắc uẩn, Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn, Thức uẩn.
Khiến đến qua lại sáu đường1, xuống lên bốn núi. Bốn núi là: sinh, lão, bệnh, tử. Nay lần lượt trình bày bốn núi để lại đời sau:
Kệ bốn núi
Tranh vanh bốn núi vạn cây tùng
Liễu ngộ đều không vạn vật không
Ba cẳng lừa kia2 mừng vướng đó
Cỡi lên thẳng tới đỉnh non bồng.
---o0o---
Núi thứ nhất là tướng sinh: Vì sai một niệm, nên hiện nhiều bề. Gởi hình hài nhờ tinh huyết mẹ cha, nuôi thai nghén nhờ âm dương hai khí. Trong tam tài3 người đứng giữa, đối vạn vật loài rất thiêng. Chẳng kể kẻ trí người ngu, đều thuộc trong bào thai nghén; hỏi chi một người trăm họ, cùng về lò bễ (trời đất) nấu nung. Hoặc mặt trời nêu thánh chúa giáng sinh, hoặc các sao ứng tôi hiền xuất hiện.
1 Sáu đường: Trời, Người, A tu la, Địa ngục, Ngã quỷ, Súc sinh.
2 Ba cẳng lừa kia: Dịch ở chữ “Lư nhi tam cước”. Xuất xứ từ câu chuyện: Có vị tăng hỏi Dương Kỳ thiền sư: Thế nào gọi là Phật? Thiền sư đáp: “Con lừa ba cẳng nhảy tung tăng” (Tam cước lư nhi để lộng hành). Vậy lư nhi tam cước là nhân cách hóa cho linh tính, Phật tính hay bản lai diện mục.
3 Tam tài: Thiên, địa, nhân.
Văn bút quét ngàn quân chiến địa, võ lược thu trăm trận công lao. Trai khoe ném quả1 bởi dáng tươi, gái cậy nghiêng thành2 vì vẻ đẹp. Thoạt cười, người mất nước; cười tiếp, kẻ nghiêng thành. Tranh đẹp khoe danh, ganh hay giành lạ. Xem ra vẫn vòng luân hồi, rốt cuộc cũng đường sinh hóa. Tướng sinh người ấy, năm là mùa xuân. Ba dương mở thêm vận thái3, muôn vật rực rỡ màu tươi. Một trời trong sáng, nơi nơi liễu thắm hoa hồng; muôn dặm phong quang, chốn chốn oanh kêu bướm lượn.
1 Ném quả: Sách Tấn, truyện Phan Nhạc. Nhạc người rất đẹp trai, lúc thiếu thời, thường ôm đàn đi dạo đường phố Lạc Dương; phụ nữ gặp đều vây quanh, ném quả vào đầy xe. Người sau nói về vẻ đẹp của thiếu niên phần nhiều dùng điển này.
2 Nghiêng thành: Dịch ở chữ “Khuynh quốc khuynh thành”. Sách Hán chép: Phương bắc có một giai nhân tuyệt đẹp mà vẫn ở một mình. Nở nụ cười đầu làm nghiêng thành người, nụ cười tiếp làm nghiêng nước người (nhất tiếu khuynh nhân thành, tái tiếu khuynh nhân quốc).
3 Ba dương mở thêm vận thái: Dịch ở chữ “Tam dương hanh thái” cũng gọi “Tam dương giao thái”. Vì tam dương thuộc quẻ Càn có ba hào dương. Quẻ Càn thuộc tháng Giêng, lại giao với quẻ Thái. Thái là quẻ hanh thông, ví có “Càn” ở dưới “Khôn” ở trên, âm dương giao hòa, nên vạn sự hanh thông. Tam dương hanh thái cũng là lời chúc đầu xuân.
Kệ rằng:
Trời đất1 nấu nung vạn vật thành
Bản lai không mống cũng không manh
Bởi sai có niệm quên vô niệm
Nên trái không sinh chịu hữu sinh
Mũi lưỡi tham hương say đắm vị
Mắt tai ưa sắc chuộng âm thanh
Phong trần khách nọ lang thang mãi
Ngày vắng quê hương muôn dặm trình.
---o0o---
Núi thứ hai là tướng già: Hình dung thay đổi, khí huyết suy vi. Dáng gầy tuổi cao, ăn uống mắc nghẹn. Mái xanh má đỏ, đổi thành tóc bạc da gà; ngựa trúc áo hoa, lại thêm gậy cưu2 xe cói3. Ví khiến Ly Lâu4 mắt sáng, nhìn sắc không rành; dẫu rằng Sư Khoáng1 tai thông, nghe tiếng chẳng biện. Tiều tụy như liễu bồ thu tới, xác xơ tựa hoa cỏ xuân qua. Trời chiều sắp gác non đoài, nước chảy rót về Đông hải. Tướng người già ấy, mùa hạ trong năm. Trời nóng nứt đá, làm muôn vật đều khô; nắng gắt chảy vàng, khiến trăm sông hầu cạn. Hoa tàn liễu rạc, trong vườn bờ lạch há giữ lâu; bướm lượn oanh bay, dưới lá đầu cành đâu nhộn mãi.
1 Trời đất: Dịch ở chữ “Chân tể”, nghĩa là tạo vật, chủ tể của trời đất (danh từ Đạo giáo).
2 Gậy cưu: Gậy của người già, đầu gậy có khắc hình chim cưu.
3 Xe cói: Lấy cỏ bọc bánh xe để người già ngồi cho êm.
4 Ly Lâu: Tên người, cũng gọi là Ly Chu, người thời vua Hoàng Đế, có con mắt sáng, nhìn xa ngoài trăm bước, mà thấy từng mẩy lông.
Kệ rằng:
Con người kiếp sống tựa phù âu
Thọ yểu an bài lọ phải cầu
Cảnh giục nương dâu trời ngả tối
Thân như bồ liễu tạm qua thâu (thu)
Chàng Phan2 ngày ấy còn xanh tóc
Lã Vọng3 năm nay đã bạc đầu
Cuồn cuộn sự đời trôi chẳng đoái
Vầng ô gác núi nước xuôi trào.
---o0o---
1 Sư Khoáng: Tên một nhạc sư đời Tấn, thời Xuân Thu, tên chữ là Tử Dã, có thể nghe tiếng nhạc mà biết được cát, hung.
2 Chàng Phan: Tức Phan Nhạc đời Tấn.
3 Lã Vọng: Còn gọi là Thái Công Vọng Lã Thượng. Lã Thượng người đất Đông Hải thời nhà Chu, vốn là họ Khương, trước đó được phong Lã, nhân thể gọi là Lã Thượng, tên chữ là Tử Nha, hoặc Thái Công Vọng, quân sư vua Văn Vương đánh Trụ, diệt nhà Ân, có đại công bình định thiên hạ.
Núi thứ ba là tướng bệnh: Tuổi cao già yếu, tật ngấm cao hoang; bốn chi mỏi mệt, mạch lạc khó thông; trăm đốt rã rời, lạnh nóng chẳng thuận. Tính chân thường đã mất, nguồn điều sướng cũng sai. Đứng ngồi khó khăn, co duỗi đau khổ. Mạng tựa ngọn đèn trước gió, thân như bọt nước trên ao. Tâm sinh bóng quỷ lô nhô, mắt thấy hoa không lốm đốm. Hình hài gầy yếu, ai là Biển Thước1 thuốc hay; dáng vóc suy vi, ai kẻ Lư Nhân2 chữa khỏi. Bạn bè luống công thăm viếng, anh em uổng sức phù trì. Bệnh nặng thì nhiều tháng chẳng lành, cảm xoàng cũng hàng tuần chưa khỏi. Tướng bệnh người ấy, mùa thu trong năm. Gặp lúc sương muối vừa rơi, tới kỳ cỏ cây đều héo. Xum xuê rừng rậm, gió thu một trận thấy lơ thơ; biêng biếc non xanh, giọt móc mới sa thêm trơ trụi.
1 Biển Thước: Tên một danh y thời vua Hoàng Đế.
2 Lư Nhân: Cũng gọi là Biển Thước, một thầy thuốc giỏi, trị bệnh chẩn mạch, thấy suốt được ngũ tạng, họ Tần tên là Việt Nhân. Thầy thuốc ở đất Lư, nên đời gọi là Lư Y hoặc Lư Nhân.
Kệ rằng:
Âm dương họa phúc vốn xoay vần
Reo rắc tai ương tới thế nhân
Đại để có thân thì có bệnh
Nhược bằng không bệnh cũng không thân
Thuốc tiên nào thấy ai còn mãi
Lương dược xem ra cũng hết xuân
Sớm nguyện lánh xa ma cảnh giới
Quay về tâm đạo dưỡng thiên chân.
---o0o---
Núi thứ tư là tướng tử: Bệnh khi trầm trọng, mệnh mới cáo chung. Tuổi thọ mong hưởng hạn trăm năm, thân thể bỗng thành trong giấc mộng. Thông minh trí tuệ, khó tránh đại hạn đến ngày; sức mạnh oai hùng, sao chống vô thường khi tới. Vợ trinh thiếp thuận, bỗng thành đặc biệt đau thương; anh kính em hiền, vội phải trọn đời xa cách. Vật mình lăn đất, vỗ trán kêu trời. Tường vẽ nhà rộng để làm chi, chứa ngọc chất vàng dùng gì nữa. Dạ đài1 tối mịt, luống nghe gió bấc vi vu; tuyền hộ2 then cài, chỉ thấy mây sầu ảm đạm.
1 Dạ đài: Tức là mộ địa, mả, tha ma.
2 Tuyền hộ: Cũng là phần mộ.
Tướng tử người ấy, mùa đông trong năm. Càn Khôn ứng Thái Tuế1 trọn vòng, nhật nguyệt hướng Huyền Hiều2 hội tụ. Âm tinh cực thịnh, khắp trời mưa tuyết lại bay mù; dương khí dần tan, nơi chốn nước ngưng thêm buốt lạnh.
Kệ rằng:
Dồn dập cuồng phong khắp mọi nơi
Ngư ông say tứ mặc thuyền trôi
Bốn bề mây phủ màu đen kịt
Một dải sóng gầm tiếng trống hồi
Xoay chuyển ỳ ầm xe sấm động
Tung bay sầm sập trận mưa rơi
Tạm thời bụi cuốn chân trời sáng
Đêm vắng trăng theo bóng nước soi.
---o0o---
1 Thái Tuế: Sao Thái Tuế, cũng là tên riêng của Mộc Tinh, cứ 12 năm xoay quanh mặt trời một vòng.
2 Huyền Hiều: Sao Huyền Hiều, ở phương bắc gồm một chòm sao: Hư, Nguy, Nữ, Tú. Sao Hư ở chính bắc, phương bắc màu huyền nên gọi là Huyền Hiều. Hiều cũng gọi là hào, có ý nghĩa hư hao, ngôi sao xấu. Lần lượt 12 sao ứng vào 12 tháng, là những tháng nhật nguyệt tụ hội. Sao Huyền Hiều ở tháng Tý tức tháng 11, tháng trọng đông.
NÓI RÕ VỀ SẮC THÂN
Mọi người lắng nghe! Thân làm gốc khổ, chất là nghiệp nhân. Nếu tự lấy đó làm thực, tức là nhận giặc làm con. Người nên xem lại kỹ càng. Ngay sắc thân này, cái ngày chưa vào bào thai, ở đâu mà có? Phải chăng đều do nơi khởi động của vọng niệm, tụ hội của mọi duyên, hợp thành của ngũ uẩn. Thể mạo tạm sinh ra, hình dung mượn mà có. Quên chân, quên gốc; hiện ngụy, hiện hư. Hoặc gái hoặc trai, hoặc tốt hoặc xấu. Hết thảy thả lòng trôi khắp, đều không lui bước quay về. Rong ruổi trên đường tử sinh, bỏ mất bản lai diện mục1. Chỉ giương mắt nhận ngoại cảnh, chẳng ngoảnh đầu đoái nội tâm. Khi lại, sinh là hóa sinh; nơi đến, trong mộng nói mộng. Nhấp nhô cuồn cuộn, vội vã loay hoay. Lấy huyễn làm chân, trái Không theo sắc. Bộ xương khô điểm hoa cài ngọc, túi da bẩn ướp xạ xông hương. Cắt the lụa bọc túi máu tanh, chế hột chuỗi đeo thùng phân thối. Trang điểm bề ngoài tuy vậy, cội rễ bên trong đều nhơ.
1 Bản lai diện mục: Cũng gọi là “bản lai nhân”. Tâm tính bản lai đầy đủ của mỗi người, do thiên nhiên tự có, không phải con người tạo ra.
Chẳng biết tự thẹn việc này, lại cứ đắm yêu thế mãi. Tất cả mọi người: giống hệt cơ quan con rối, đều nhờ sợi chỉ kéo lôi. Lúc buông lúc thả giống chết rồi, kéo lại kéo đi như sống thật. Tự gây muôn điều so sánh, đều bởi sáu giặc1 tranh công. Chẳng lo già, bệnh chết kề; chỉ tham rượu, sắc, của cải. Tranh nhau sừng sên đầu nhặng, cam chịu khóa lợi xiềng danh. Ban ngày nhọc sức cầu may, trong đêm trở thành mơ mộng. Chứa góp nghiệp nhơ như giếng, không dè tóc bạc tựa sương. Một mai mắc phải bệnh nguy, trăm năm trở thành giấc mộng. Tâm can đau đớn, lại tựa oán thù. Da thịt suy vi, hệt như ngã quỷ. Chỉ muốn cầu thân mệnh thọ, không hay hại vật sát sinh. Hầu mong kiếp sống tựa tùng cao, chẳng biết tứ chi như nhà dột. Hồn phách tuy về ngã quỷ, thi hài còn ở nhân gian. Tóc, lông, răng, móng chưa hao mòn; nhớt, dãi, bọt, hơi đà tuôn chảy. Thối nát thì trôi máu trôi mủ, ô uế thì xông đất xông trời. Đen sạm chẳng dám nhìn, tím xanh thật dễ sợ. Đều cùng chết cả, bất luận nghèo giàu. Hoặc quàn trong nhà, thời trùng đẻ dòi sinh; hoặc bỏ ra đường, thời chó nhai quạ rỉa.
1 Sáu giặc: Tức sáu căn là nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý; tiếp xúc với sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp làm rối loạn thân tâm, nên gọi là giặc.
Người đời đều bịt mũi mà bước, con hiếu phải lấy lồng để che. Nhặt cốt thu hài, chôn thây lấp xác. Quan quách đốt một mồi dã hỏa, nấm đất táng muôn dặm hoang sơn. Thuở xưa tóc mượt má hồng, ngày nay tro tàn xương trắng. Khi mưa thảm ánh mây ảm đạm, lúc gió sầu bóng nguyệt lờ mờ. Đêm tàn thời quỷ khóc thần sầu, năm chầy thời trâu quần ngựa xéo. Đom đóm lập lòe trong cỏ rậm, tiếng trùng rền rĩ ngọn bạch dương. Bia đá văn ghi nửa phủ rêu, tiều phu mục đồng làm lối tắt. Dù người văn chương cái thế, hay kẻ tài sắc khuynh thành. Đến kỳ đâu có khác đường, rốt cuộc cùng chung một nẻo. Mắt bị sắc lôi về rừng kiếm, tai theo tiếng dẫn đến núi đao. Chóp mũi ngửi hít khói hôi tanh, đầu lưỡi ngậm nuốt viên sắt nóng. Thân sợ nước đồng sôi gội tắm, ý ghê vạc lửa nấu chua cay. Trăm cái xuân thu ở nhân gian, chỉ một đêm ngày trong địa ngục. Ai người thông minh lanh lợi, kíp nên sớm liệu đoái xem. Vươn mình nhảy thoát hố tử sinh, búng tay xé toang màn ân ái. Chẳng nề trai, chẳng nề gái, đều cùng khứng tu; dù rằng trí, dù răng ngu, hết đều có phận. Ví chưa đạt tâm Phật ý Tổ, hãy nương nhờ trì giới tụng kinh. Tới Phật cũng không, Tổ cũng không; còn giới nào trì, kinh nào niệm. Ở huyễn sắc cũng gọi chân sắc, chỗ phàm thân cũng tựa pháp thân. Phá sáu giặc làm sáu thần thông, hòa tám khổ1 làm tám tự tại. Tuy nói như thế, nhưng người người đã vương cái thân này, bỏ được thật muôn vàn khó. Này các người! Duy cái sắc thân này, làm thế nào để thoát, nên hãy nghe đây:
Kệ rằng:
Vô vị chân nhân khối đỏ ngầu2
Hồng hồng trắng trắng chớ lòe nhau
Ai hay mây cuốn trời quang đãng
Xanh biếc bạt ngàn rặng núi sâu.
---o0o---
1 Tám khổ: Sinh, Lão, Bệnh, Tử khổ, Ái biệt ly khổ, Oán tắng hội khổ, Cầu bất đắc khổ, Ngũ ấm thịnh khổ.
2 Vô vị chân nhân khối đỏ ngầu: Vô vị chân nhân là con người chân thật, không nương vào đẳng cấp, vượt cả phàm, thánh, mê, ngộ, trên, dưới; tức là người chân giải thoát. Người chân giải thoát này không phải tìm đâu xa, mà ở ngay nơi sắc thân này, tức là khối thịt đỏ ngầu (chỉ cho nhục thể và tâm trạng). Lâm Tế thiền sư thượng đường nói: “Trên khối thịt đỏ, có một vô vị chân nhân, thường thường ra vào từ cửa mặt của mọi người và các ông. Người chưa chứng cứ được hãy xem xem”.
VĂN KHUYÊN PHÁT TÂM BỒ ĐỀ
Ôi! Vật quý nhất đời chỉ là vàng ngọc vậy. Song xét tới chỗ quan trọng, chỗ luyến tiếc, lại không thể sánh bằng thân mạng. Ví như có nhà giàu sang, được người vời làm đại tướng, dùng vàng làm áo giáp hộ thân, đến lúc lâm chiến, khi gươm đao tiếp nhau, có lúc phải bỏ áo giáp kéo gươm mà chạy, chỉ mong bảo toàn tính mạng, áo giáp bằng vàng kia, đâu còn đoái hoài đến. Liền biết, cái quý trọng của vàng cũng không đủ so sánh với thân mạng chính là nghĩa đó. Người đời nay không thế, lại quý vật mà khinh thân. Họ không biết thân này có ba điều khó gặp. Những gì là ba? Trong vòng lục đạo, duy con người là quý. Đến khi nhắm mắt qua đời, tối tăm mờ mịt, chẳng biết chỗ đi về đâu. Hoặc vào đường địa ngục, A tu la hay ngã quỷ, súc sinh, chẳng được làm người, đó là điều khó gặp thứ nhất. Đã được làm người, hoặc lại sinh vào chốn man di, tắm cùng khúc sông, ngủ cùng giường nệm, tôn ti lẫn lộn, trai gái sống chung, chẳng đượm gió nhân, không nhuần thánh hóa, đó là điều khó gặp thứ hai. Tuy được sinh nơi văn hóa nhưng sáu căn chẳng đủ, bốn thể không toàn, mù điếc ngọng câm, gù khom khập khiễng, miệng mũi hôi thối, thân hình nhớp nhơ, thấy chẳng cùng gần, chúng không thích tới. Tuy ở chỗ văn minh cao độ, nhưng khác gì ngoài chốn hoang vu, đó là điều khó gặp thứ ba. Nay đã được làm người, được sinh nơi trung tâm văn hóa, lại sáu căn đầy đủ, thật đáng quý thay. Phàm người ở đời, chỉ bon chen đường danh lợi, thương tổn tinh thần, mệt nhọc thể xác, bỏ phần cao quý nơi thân mạng mình, theo cái đáng khinh nơi của cải nọ, chẳng khác gì như kẻ ăn bánh quên vợ, ngậm cơm quên mép1. Tuy nói thân này là quan trọng, nhưng vẫn chưa quan trọng bằng chí đạo. Nên Khổng Tử nói: “Buổi sớm được nghe đạo, chiều có chết cũng vui”2. Lão Tử nói: “Ta sở dĩ có cái lo lớn, vì ta có thân”3. Đức Thế Tôn khi cầu đạo thì bỏ thân cứu hổ. Há chẳng phải đều là chỗ khinh thân trọng đạo của ba bậc thánh nhân đó sao? Than ôi! Cái quan trọng của thân mạng còn nên bỏ để cầu đạo Vô thượng Bồ đề, nữa là phần đáng khinh nơi vàng bạc của báu mà lại luyến tiếc ư!
1 Ăn bánh quên vợ, ngậm cơm quên mép: Đều là những tỷ dụ, ám chỉ cho kẻ ngu, chỉ ham cái lợi nhỏ trước mắt, mà bỏ mất cái lợi ích quan trọng.
2 Buổi sớm được nghe đạo, chiều có chết cũng vui: Sách Luận Ngữ, thiên Lý nhân, Đức Khổng Tử nói: “Triêu văn đạo, tịch tử khả hỹ”.
3 Ta sở dĩ có cái lo lớn, vì ta có thân: Đạo Đức Kinh, ngài Lão Tử nói: “Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vị ngô hữu thân”.
Ôi! Trong ấp mười nóc nhà, còn có người trung tín1, lẽ nào tất cả ở đời, há lại không có người thông minh sáng suốt hay sao? Hãy nghe theo lời ấy, nên chăm lo tu học, chớ có nghi ngờ. Trong kinh nói: “Một khi mất thân người, muôn kiếp khó trở lại”. Thật đau đớn xiết bao! Thế nên Khổng Tử nói: “Người mà không chịu làm, ta chẳng biết làm sao được”.
Ôi! Xét cho rõ: Trăm năm ánh sáng, trong một sát na; bốn đại huyễn thân, đâu hay lâu đặng. Trọn ngày ruổi rong nghiệp thức2, quanh năm đắm đuối trần lao3. Không biết một tính viên minh, chỉ theo sáu căn tham dục. Giàu sang nhất mực, khó tránh hai chữ vô thường; công danh nhất đời, chẳng thoát một trường đại mộng. Tranh nhân tranh ngã, rốt cuộc thành không. Khoe giỏi khoe hay, đều là chẳng thật.
1 Trong ấp mười nóc nhà, còn có người trung tín: Lấy câu trong sách Luận Ngữ: “Thập thất chi ấp, thượng hữu trung tín”.
2 Nghiệp thức: Nghiệp thức là hoặc của căn bản vô minh. Tâm nguyên của bản giác vốn không có tướng động từ lúc đầu, nhưng thình lình bị lay động bởi bất giác, đó là nghiệp thức.
3 Trần lao: Phiền não của năm dục, sáu trần làm ô nhiễm nơi thân tâm thanh tịnh mà phải khổ, nên gọi là trần lao. Năm dục: Tài, sắc, danh, thực, thụy; sáu trần tức là sáu cảnh: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Gió lửa tiêu tan bao già trẻ, núi khe giũa nát mấy anh hùng. Mái xanh chưa mấy, tóc bạc vội lấn dần; kẻ mừng vừa đi, người viếng len chân tới. Một bao máu mủ, chuỗi năm luyến tiếc ân tình; bảy thước xương khô, rông rỡ tham lam của báu. Thở ra khôn bề thở lại, ngày nay khó đợi ngày mai. Sông yêu chìm nổi chẳng lúc ngơi, nhà cháy nấu nung ngày nào hết. Chẳng nguyện xa lìa lưới nghiệp, chỉ vì chưa có công phu. Diêm La Vương bỗng chốc lại đòi. Thôi tướng công1 nào cho thêm hạn. Ngoảnh lại người thân đều chẳng thấy, cuối cùng nghiệp báo tự mình mang. Quỷ vương ngục tốt, mặc sức khảo tra; rừng kiếm núi đao, vô phương chống đỡ. Hoặc giam trong vòng vây sắt, hoặc ở dưới núi Ốc tiêu2. Chịu vạc dầu thời muôn chết ngàn sinh, phải chém chặt thời một dao hai khúc. Đói nuốt sắt nóng, khát uống đồng sôi. Mười hai giờ cam chịu đắng cay, năm trăm kiếp chẳng thấy hình dạng. Chịu hết tội nghiệp, lại vào luân hồi. Mất hẳn dáng người thuở xưa, đổi ra thân hình hiện tại.
1 Thôi tướng công: Chỉ quỷ sứ canh ngục.
2 Dưới núi Ốc tiêu: Ở đáy biển có núi rất lớn gọi là Ốc tiêu. Dưới núi Ốc tiêu có địa ngục A tỳ, lửa thường nung đốt, núi thường nóng chảy.
Đội yên ngậm sắt, mang lông đeo sừng. Lấy thịt nuôi người, đem thân trả nợ. Sinh bị khổ đau dao thớt, sống gặp tai vạ lửa sôi. Chồng chất oán thù, cùng nhau rỉa thịt. Khi đó mới hối, học đạo không nền. Chi bằng gấp rút đảm đương, chớ để đời này lỡ dở.
Thích Ca Văn Phật, bỏ hoàng cung đến thẳng Tuyết Sơn; cư sĩ Bàng Công1 đem gia tài hết dìm biển cả. Chân Võ2 chẳng lên ngôi báu, chỉ lo tu hành; Lã Công3 đã chuộng thần tiên, còn siêng tham vấn. Tô học sĩ4 thường thân Phật Ấn;
1 Cư sĩ Bàng Công: Tức là Bàng Uẩn, hiệu là Đạo Huyền, người huyện Hành Dương, Trung Quốc, vốn theo Nho nghiệp, tư chất thông minh, sau tham thiền ở Thạch Đầu Hy Vận, hoát nhiên liễu ngộ, và đắc pháp ở ngài Mã Tổ Đạo Nhất.
2 Chân Võ: Đời nhà Hán, Thái tử vua nước Trịnh Lạc, khi sinh ra có nhiều điểm lạ, lớn lên có chí trừ khử tà ma, vượt biển Đông gặp thiên thần trao cho bảo kiếm. Chân Võ tu luyện ở núi Đông Hải 42 năm thành công, ngay ban ngày bay lên không, được vâng mệnh Thượng Đế trấn thủ phương bắc. Vốn tên là Huyền Võ sau đổi là Chân Võ.
3 Lã Công: Tức là Lã Đồng Tân, người Kinh Triệu đời Đường. Chính tên là Nham, tên chữ là Đồng Tân, lại gọi là Lã Tổ, hiệu là Thuần Dương Tử, một người trong bát tiên của Đạo giáo.
4 Tô học sĩ: Tức Tô Thức, tên chữ là Tử Chiêm, hiệu là Đông Pha cư sĩ, người Mi Sơn, đời Tống. Viếng chùa Kim Sơn ở Tô Châu, gặp Phật Ấn Liễu Nguyên thiền sư, vấn đáp về thiền đạo, phục tài cao của Phật Ấn, liền cởi đai ngọc để tại chùa Phật Ấn kỷ niệm.
Hàn Văn Công1 còn lễ Đại Điên. Bùi Công đoạt hốt ở Thạch Sương2; Phòng Tướng hỏi pháp nơi Quốc Nhất3. Diệu Thiện4 chẳng kén phò mã, thành Phật không ngờ; Lục Tổ5 vừa gặp khách hiền, nghe kinh đốn ngộ.
1 Hàn Văn Công: Tức Hàn Dũ, người Xương Lê đời Đường, đậu Tiến sĩ. Vì dâng biểu can vua Hiến Tông rước Xá lợi Phật vào cung, nên bị đày đi Triều Châu. Ở đây, Hàn Dũ có viết thư mời Đại Điên thiền sư chùa Linh Sơn ở phía tây Triều Châu để tranh luận về đạo cùng nhau đi lại nhiều lần, sau quy y Đại Điên.
2 Bùi Công: Tức Bùi Hưu, một người học Phật đời Đường, họ Bùi, tên Hưu, tên chữ là Công Mỹ, đậu Tiến sĩ, giao du cùng ngài Khuê Phong Tông Mật, thông đạt Kinh Hoa Nghiêm, sau đắc pháp ở ngài Hoàng Nghiệt Hy Vận thiền sư. Đoạt hốt: Các quan đại thần xưa, khi triều vua tay thường cầm cái hốt ở tay đế tâu bạch, hay thụ mệnh, ngoài ra dùng để ghi chép những sự kiện cho nhớ. Vậy đoạt hốt có nghĩa là, Bùi Hưu bị đoạt mất chí khí ở ngài Thạch Sương. Thạch Sương: Tức Thạch Sương Khánh Chư, cao tăng đời Đường, thuộc họ Thanh Nguyên, tham thiền ngài Quy Sơn, thấu được áo chỉ, trụ ở núi Thạch Sương, châu Đàm, được vua Đường Hy Tông ban áo cà sa gấm.
3 Phòng Tướng: Tức Phòng Huyền Linh, tên hèm là Văn Chiêu, 18 tuổi đậu Tiến sĩ, giúp Đường Thái Tông dấy nghiệp, làm chức Tể tướng, được phong tước Lương Quốc Công. Quốc Nhất: Tức Đạo Khâm thiền sư, người huyện Côn Sơn thuộc Tô Châu, được Đường Đại Tông vời vào cung hỏi đạo, ban cho hiệu “Quốc Nhất thiền sư”.
4 Diệu Thiện: Tức Diệu Thiện công chúa, tiền thân của Bồ tát Quán Thế Âm. Nam Sơn Tuyên luật sư thường hỏi thiên thần về duyên khởi của Đức Quán Âm. Thiên thần thưa: Về kiếp quá khứ xưa kia có vua Trang Vương, phu nhân tên là Bảo Ứng sinh được ba gái. Con lớn là Diệu Duyên, con thứ là Diệu Âm, con út là Diệu Thiện. Diệu Thiện chỉ chuyên việc tu hành, không lập phò mã (cũng tương tự như sự tích chùa Hương Tích Việt Nam).
5 Lục Tổ: Tức Tổ Huệ Năng, tổ thứ sáu của Thiền tông đời Đường, cũng gọi là Đại Giám Huệ Năng. Ngài họ Lư, mồ côi cha từ lúc ba tuổi, nhà nghèo, phải đi kiếm củi nuôi mẹ. Một ngày mang củi vào chợ bán, nghe người đọc Kinh Kim Cương, liền nảy ý chí xuất trần nhập đạo.
Đạo thiền nếu không thú vị, thánh hiền sao chịu quy y. Hoa Lâm1 cảm hai cọp theo hầu, Đầu Tử2 có ba chim báo sáng. Lý trưởng giả3 giải kinh mà thiên trù dâng cỗ; Tu Bồ Đề tĩnh tọa mà Đế Thích tung hoa4. Đạt Ma một dép về tây5; Phổ Hóa rung chuông bay bổng6.
1 Hoa Lâm: Tức Hoa Lâm thiền sư.
2 Đầu Tử: Tức Đầu Tử Nghĩa Thanh thiền sư.
3 Lý trưởng giả: Trưởng giả họ Lý hay trưởng giả họ Trần, ám chỉ người giải kinh hay mà được chư thiên cúng dường thức ăn.
4 Tu Bồ Đề: Một vị trong thập đại đệ tử của Phật, giải không bậc nhất. Một hôm tôn giả Tu Bồ Đề ngồi thiền định, chư thiên mưa hoa tán thán. Tôn giả hỏi: “Trong không mưa hoa tán thán đó là người nào?”. Chư thiên nói: “Tôi là trời Đế Thích”. Tôn giả nói: “Ngươi cớ chi tán thán?”. Đáp: “Tôi trọng tôn giả khéo nói Kinh Bát Nhã”. Hỏi: “Ta chưa từng nói một chữ trong Kinh Bát Nhã, tại sao ngươi tán thán?”. Đế Thích thưa: “Tôn giả không nói, tôi cũng không nghe. Không nói không nghe, là chân Bát nhã”.
5 Đạt Ma: Tức Bồ Đề Đạt Ma. Tổ thứ 28 Thiền tông ở Ấn Độ, đệ nhất tổ ở Trung Quốc. Ngài sang Trung Quốc thời đại Nam Bắc triều, ở chùa Thiếu Lâm. Khi mất táng ở núi Hùng Nhĩ. Theo truyền thuyết nói: Có sứ giả Trung Quốc đi sứ Ấn Độ, trên đường về, gặp Đạt Ma chỉ đeo một chiếc dép, đang trở về Ấn Độ. Khi về báo với vua Lương, vua sai đào mộ Đạt Ma xem, thấy trong mộ chỉ có một chiếc dép.
6 Phổ Hóa: Tức Phổ Hóa hòa thượng ở Trấn Châu, đời Đường, đệ tử của Bàn Sơn Bảo Tích thiền sư, thường giúp Lâm Tế Nghĩa Huyền thiền sư hoằng hóa. Bình thường khi vào chợ, ngài rung chuông và nói: “Đầu sáng lại xua đầu sáng, đầu tối lại xua đầu tối, xua gió xoáy bốn phương tám hướng lại, xua cả hư không lại”.
La Hán tham thiền ở Ngưỡng Sơn hòa thượng1. Nhạc Đế thọ giới ở Tư Đại thiền sư2. Kính Sơn3 đến nay vẫn được Long Vương dâng cúng; Tuyết Phong từ trước hay khiến người gỗ mở rừng4. Đó là những thể nghiệm nhân do, chớ tự sinh nghi ngờ lùi bước. Cáo đồng còn nghe pháp Bách Trượng5, ốc vặn hay hộ Kinh Kim Cương6.
1 La Hán: Tức La Hán Quế Sâm, người Thương Sơn, đời Đường, phái Thanh Nguyên. Ngưỡng Sơn: Tức Ngưỡng Sơn Tuệ Tịch, đắc pháp ở Quy Sơn Linh Hựu thiền sư.
2 Nhạc Đế: Tức thần chúa tể núi Đông Nhạc Thái Sơn. Tư Đại thiền sư: Tức Tuệ Tư đại sư, hiệu là Tư Đại hòa thượng. Tư thiền sư còn gọi là Nam Nhạc Tư Đại thiền sư.
3 Kính Sơn: Tức Vô Chuẩn Sư Phạm, Lâm Tế tông, tham vấn Tú Phong thiền sư, vâng chiếu chỉ ở chùa Kính Sơn, được ban hiệu: “Phật Giám thiền sư”.
4 Tuyết Phong: Tức Tuyết Phong Nghĩa Tồn, hệ Thanh Nguyên đời Đường, pháp tự của Đức Sơn Tuyên Giám. Người gỗ mở rừng: Dụ xa lìa được suy nghĩ phân biệt.
5 Cáo đồng: Theo công án Bách Trượng dã hồ, mỗi khi ngài Bách Trượng thượng đường, thường có một lão tăng đến nghe pháp, rồi theo chúng giải tán. Một hôm không đi, Bách Trượng hỏi: Đứng đó là ai? Lão tăng thưa: Tôi từ thời Phật Ca Diếp đời quá khứ, thường trụ ở núi này, có một học nhân hỏi: “Người đại tu hành, lại phải rơi vào nhân quả chăng?”. Tôi đáp: “Chẳng rơi vào nhân quả”. Do đó tôi bị đọa làm thân cáo đã 500 kiếp. Nay xin hòa thượng thay cho một chuyển ngữ. Bách Trượng nói: “Chẳng mờ nhân quả” (bất muội nhân quả). Lão tăng nghe nói xong đại ngộ.
6 Ốc vặn hay hộ Kinh Kim Cương: Theo điển, Kinh Kim Cương bị rơi xuống nước, cả bầy ốc xúm lại mà đỡ bộ kinh lên cạn.
Mười ngàn cá bơi, nghe hiệu Phật hóa làm thiên tử1; năm trăm dơi lượn, nghe tiếng pháp đều đặng thánh hiền2. Trăn nghe sám được sinh thiên3, rồng nghe kinh mà ngộ đạo4. Vật kia còn hay lãnh ngộ, nữa người sao chẳng hồi tâm. Hoặc có kẻ vùi đầu ăn uống mà uổng một đời, hoặc có kẻ lầm lối tu hành mà không xét lại. Hay đâu, Bồ đề tính giác, ai nấy viên thành; sao biết, Bát nhã căn lành, người người đầy đủ. Hỏi chi đại ẩn tiểu ẩn5, chẳng kể tại gia xuất gia. Không nề tăng tục, chỉ cốt biện tâm. Vốn không gái trai, chẳng nên trước tướng. Người chưa tường còn chia tam giáo6, liễu được thấu đều ngộ nhất tâm. Nếu hay chiếu sáng rọi về, đều được thấy tính thành Phật. Lại nữa, thân người dễ mất, Phật pháp khó nghe. Muốn vượt sáu ngả mãi xoay tròn,
1 Mười ngàn cá: Theo điển, mười ngàn con cá do nghe kinh, mà kiếp sau thác sinh làm vua.
2 Năm trăm dơi: Tây Vực ký chép: Bờ Nam Hải có một cây khô, có 500 con dơi ở trong hốc cây, vì ham nghe người đọc kinh, bị lửa đốt nóng mà không hay, nên bị cháy cả, được hóa kiếp thành người, bỏ nhà học đạo, đều thành Bồ tát.
3 Trăn nghe sám: Vợ vua Lương Võ Đế, vì ác nghiệt, chết phải đọa làm kiếp trăn, báo mộng cho vua tụng kinh sám hối, được thác sinh lên trời.
4 Rồng nghe kinh: Theo điển, Bồ tát Văn Thù giảng kinh cho bầy rồng nghe, mà đều giác ngộ.
5 Đại ẩn tiểu ẩn: Đại ẩn, ẩn dật nơi chợ búa. Tiểu ẩn, ẩn dật nơi núi rừng.
6 Tam giáo: Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo.
chỉ có nhất thừa là đường tắt. Nên tìm chính kiến, chớ tin tà sư. Ngộ được chính là chỗ vào, làm xong mới hay thoát tục. Bước bước xéo đạp thật địa, đầu đầu mang đội hư không. Khi dùng thời muôn cảnh đều phô, thu lại thời mảy may hết sạch. Vượt lên chỗ chẳng tương quan sinh tử, thấu tới cơ khó thấu hiểu quỷ thần. Là phàm là thánh, cùng vào một đường; hoặc oán hoặc thân, cùng chung hổng mũi. Thật ngộ như thế, còn trệ nửa đường. Ngưng nói hướng thượng tam huyền1,
1 Ngưng nói hướng thượng tam huyền: Tức hãy ngưng nói con đường hướng thượng, nghĩa là hướng thượng tới chỗ cùng cực, thời cần phải một bước nữa hướng hạ để hóa độ, nên phải cần rõ một bước sau chót (yếu liễu mạt hậu nhất trước).
Tam huyền: Tức tam cú, tam huyền, tam yếu.
Tam cú (ba câu): Tăng hỏi Lâm Tế thiền sư: Thế nào là câu thứ 1? Sư đáp:
Tam yếu ấn khai chu điểm trách,
Vị dung nghĩ nghị chủ tân phân.
(Nói về mặt thật tướng của vô vị chân nhân).
Tăng hỏi: Thế nào là câu thứ 2? - Sư đáp:
Diệu giải khởi dung vô trước vấn,
Âu hòa tranh phụ tiệt lưu cơ.
(Nói về mặt biểu hiện của vô vị chân nhân).
Tăng hỏi: Thế nào là câu thứ 3? - Sư đáp:
Khán thủ băng đầu lộng ổi lỗi,
Trừu khiên đô lai lý hữu nhân.
(Nói về phương diện hành vi của vô vị chân nhân).
Tam huyền, tam yếu: Trong một câu có đủ tam huyền môn. Trong một huyền môn có đủ tam yếu. Có quyền, có thật. Vậy danh từ tam huyền, tam yếu không chỉ rõ số mục nhất định là gì? Có thể số 1 là “có”, số 2 là “không”, số 3 là chẳng phải “có, không”.
Đó là một quá trình tư duy rất thiết yếu và huyền diệu.
cần rõ một bước sau chót1. Hãy nói, tức là hiện nay gọi cái gì là một bước sau chót.
Non xanh thoai thoải nhìn trời rộng,
Sen biếc ngạt ngào đượm nước hương2.
---o0o---
VĂN RĂN SÁT SINH
Ôi! Noãn, thai, thấp, hóa3 tính cùng; thấy, nghe, hiểu, biết điều khác. Chỉ nhân tạo nghiệp chứa oan, nên chịu khác tên riêng hiệu. Trước kia vốn nhân luân cùng loại, đời nay chia đàn giống khác nhau. Hoặc bạn bè, là huynh là đệ. Thay đổi áo xiêm đai mũ, biến làm vẩy giáp lông sừng. Chồng quên vợ, vợ quên chồng, bố trái con, con trái bố. Đã thấy đổi đầu thay mặt, dẫn tới khoét ruột chặt chân. Luống mong sợ chết tham sinh, không lời kêu đau nói khổ. Nó giết hắn, hắn giết nó, người ăn họ, họ ăn người. Oan trái lâu dài, chẳng bao giờ hết.
1 Một bước sau chót (Mạt hậu nhất trước): Mạt hậu có nghĩa là cuối cùng, chí cực, nghĩa cùng cực của chí đạo. Nhất trước nghĩa là một bước đi, một nước cờ, hay một câu. Vậy một bước sau chót có nghĩa là một bước, một câu cùng cực của Phật đạo.
2 Hai câu này diễn tả về diệu thú hiện thành của chân như pháp tính. Cũng như câu: “Sơn thị sơn, thủy thị thủy”.
3 Noãn, thai, thấp, hóa: Tức là tứ sinh, bốn loài sinh: Noãn sinh, loài từ trứng mà sinh ra. Thai sinh, loài từ bào thai mà sinh ra. Thấp sinh, loài từ nơi ẩm ướt mà sinh ra. Hóa sinh, loài từ tự nhiên mà hóa sinh ra.
Đời đời báo oán, kiếp kiếp thù nhau. Kẻ quay đầu được đến quê hương, người phóng tâm chìm sâu địa ngục. Sách Nho thi nhân bố đức, kinh Đạo yêu vật hiếu sinh. Phật duy giới sát phải trì, người nên tuân làm chớ phạm.
Kệ rằng:
Cánh, lông, vẩy, giáp mọi hàm linh,
Chết sợ, sống ham, há khác tình.
Từ trước thánh hiền lòng chẳng nỡ,
Đoái nhìn chết chóc với tham sinh.
---o0o---
VĂN RĂN TRỘM CẮP
Ôi! Người làm nhân nghĩa là quân tử, kẻ chuyên trộm cướp ấy tiểu nhân. Quân tử lòng thương giúp côi cùng, tiểu nhân ý tham lam tiền của. Chiếm của kẻ khác, làm của riêng mình. Lờ cả tình người, chuyên lo ích kỷ. Nào biết giàu sang do trời định; chẳng hay tham cầu bởi ý ham. Ăn gan1 đục nhà,
1 Ăn gan: Dịch chữ “bộ can”, thiên Đạo Chích sách Trang Tử có câu: “Khoái nhân can nhi bộ chi”, cắt gan người mà ăn đấy. Đạo Chích, tên là Chích làm nghề ăn trộm, nên có tên là Đạo Chích. Ngày nay ví kẻ ăn trộm là đạo chích.
đào tường khoét vách; Sơn Dương tướng quân1 nối gót, Lương Thượng quân tử2 tập làm. Ngược trời trái đất, dối pháp khinh hình. Còn sống gặp công lý thi hành, chết rồi bị Minh Vương tra khảo. Đâu chỉ chứa vàng chất ngọc, ngay đến một bụi mẩy lông. Ngửi sen ao địa thần còn la3, lấy tiền lời Diêm Vương cũng phạt. Lưới trời lồng lộng, làm thiện thoát làm ác tội mang; phép nước thênh thang, làm công khỏi làm riêng phạm pháp.
Kệ rằng:
Khoét vách đào tường ý hiển sâu,
Trăm phương ngàn kế khổ tìm cầu.
Của người ví được thời nay đó,
Rồi phải muôn đời kiếp ngựa trâu.
---o0o---
1 Sơn Dương tướng quân: Tức tướng quân đất Sơn Dương. Theo quẻ bói của Chu Công, kẻ lập ấp ở đất Sơn Dương, người hiền thì được phồn thịnh, kẻ bất lương thì bị lụn bại; lấy ý này để ám chỉ cho kẻ tướng cướp, nên gọi là Sơn Dương tướng quân.
2 Lương Thượng quân tử: Tức kẻ trộm trên xà nhà. Tên riêng chỉ cho kẻ trộm. Đời Hậu Hán, Trần Thực biết trên xà nhà có kẻ trộm, liền gọi con cháu lại dạy rằng: “Con người bản tính thiện”. Nghĩa là con người bất thiện vị tất vốn ác, vì tập nên thành thói xấu, thành kẻ Lương Thượng quân tử. Kẻ trộm nghe biết rất kinh sợ, liền nhảy xuống đất tạ tội. Trần Thực khuyên bảo cải thiện, sau cả huyện không có một kẻ trộm.
3 Ngửi sen ao địa thần còn la: Theo điển, xưa có vị Tỳ kheo đi qua ao sen dừng lại ngửi, thần đất mắng vị Tỳ kheo là ngửi trộm mùi hoa.
VĂN RĂN GIỚI SẮC
Ôi! Lưng ong tóc mượt, hay khiến tính hoặc tâm mê. Sắc én mày ngài, đưa đến hồn phiêu phách lạc. Mắt đưa đẩy con dao không liếc, ai chẳng nát lòng; lưỡi rung rinh một ống sáo diều, hết đều ngây ngất. Kẻ mê say đoạn nghĩa thầy bạn; người tham đắm đức mất đạo tan. Trên mà phong giáo chẳng còn, dướt tất khuê môn rối loạn. Chẳng kể học lưu thế tục, hay hàng tăng lữ xuất gia. Phép nước sụp đổ ở Tô đài1, giới thể2 chôn vùi nơi dâm thất. Chỉ giương mắt nhìn ngoại cảnh, chẳng quay đầu chiếu nội tâm. Cởi bỏ lụa là quanh mình, vẫn lộ da bì bọc thịt. Độc giác3 gần nữ am hoàn tục, Chân quân xa thán phụ4 thăng thiên.
1 Tô đài: Vua Ngô Phù Sai đời Xuân Thu vì mê Tây Thi trên đài núi Cô Tô mà mất nước.
2 Giới thể: Thật thể của giới. Do nơi biểu hiện của tác lễ, khất giới, bạch tứ yết ma phát được giới thể. Tức tính của Tỳ kheo.
3 Độc giác: Tiếng Phạn gọi là Bích chi Phật (Pratycka-Buddha), một bậc thánh hiện thân tự tu tự ngộ, tức vô sự độc ngộ.
4 Chân quân: Tức chân tiên, chỉ cho các đạo sĩ tu tiên. Thán phụ hay Thán phụ tu: Người đàn bà bằng than. Theo truyền thuyết, Trương Đạo Lăng, tu pháp thuật, luyện đan phù chú, người theo học rất đông. Một hôm Đạo Lăng đẽo than làm thành một người đàn bà rất đẹp để thử môn đồ. Trong số môn đồ nếu người nào đạo tâm chưa kiên cố mà đụng vào thì tay đều bị nhuộm đen. Nên có câu: “Đạo sĩ do hoài thán phụ tu” (Đạo sĩ còn màng thán phụ tu - Tu là xấu hổ).
Người chẳng đắm được năm thần thông1, kẻ đam trước mất phần giới hạnh.
Kệ rằng:
Má trắng môi son điểm phấn hồng,
Nhìn rồi đưa mắt ý mơ mòng.
Chẳng qua một túi da nhơ bẩn,
Cắt đứt ruột người chẳng tốn công.
---o0o---
VĂN RĂN VỌNG NGỮ
Ôi! Thiện ác ở tâm làm gốc, hoạ phúc do miệng gây ra. Nghĩ một câu vang ứng không sai, nói một lời bóng theo chẳng chệch. Quân tử trọng lời như biện2, cổ nhân giữ tiếng tựa bình. Nói ra lấy thẳng làm công, phát ngôn không thiên không lệch. Không nói đây kia tốt xấu, chẳng bàn phải trái người mình. Đâu dám khua lưỡi máy môi, chỉ hay gìn lời giữ miệng.Mang cái nghiệp trong thân đã nặng, song lỗi lầm vạ miệng đứng đầu.
1 Năm thần thông: Gọi tắt là “ngũ thông”: Thiên nhĩ thông, tai nghe khắp mọi cảnh giới. Thiên nhãn thông, mắt thấy khắp mọi cảnh giới. Túc mệnh thông, biết được các kiếp về trước. Tha tâm thông, thấu suốt được tâm niệm của mọi người. Thần túc thông, đầy đủ thần thông biến hóa, bay đi tự tại.
2 Như biện: Như thành cái giường, ý nói lời nói ra phải chắc như đinh đóng cột.
Chẳng những người nói vọng ngôn, còn khiến kẻ nghe làm bậy. Lúc sống người đời khinh miệt, chết rồi bị nghiệp kéo lôi. Hoặc kềm sắt kéo lưỡi, cam chịu chua cay; hoặc nước đồng rót miệng, mang dài khổ não.
Kệ rằng:
So vai siểm nịnh1 lưỡi đầu môi.
Vọng ngữ người đời mãi thế thôi.
Nhặt ý cầu vui màng chút lợi,
Sau cùng khó tránh nghiệp luân hồi.
---o0o---
VĂN RĂN GIỚI RƯỢU
Ôi! Người ham rượu đức hạnh chẳng còn, kẻ uống rượu nói năng lầm lẫn. Hơi xông nát ruột, mùi thấu dạ dày. Bại hoại tinh thần, hôn mê tâm tính. Hai thân chẳng đoái, năm nghịch2 chuyên làm.
1 So vai siểm nịnh: Dịch ở câu “Hiếp kiên siểm tiếu”. Trong thiên Đằng Văn Công sách Mạnh Tử có câu: “Hiếp kiên siểm tiếu”. Hiếp kiên là so vai, trạng thái kinh sợ. Siểm tiểu: Cười nịnh, nét mặt hớn hở nịnh bợ.
2 Năm nghịch: Dịch ở chữ “ngũ nghịch”: Giết cha; giết mẹ; giết A la hán; phá hòa hợp tăng; và làm chảy máu thân Phật.
Hoặc huyên náo nơi quán ăn, hoặc say sưa trên đường phố. Chửi trời mắng đất, hủy Phật báng tăng. Thả môi miệng hát ca, trần thân mình nhảy múa. Chẳng biết đến Phật cúng dường, theo phường mũ đen áo lệch. Bỏ thân mạng từ đó mà sinh, mất nước nhà do đây mà có. Ngừa đi thì ngàn lành đều họp, uống vào thời trăm vạ cùng mang. Đại Vũ1 bỏ rượu mà trăm họ reo mừng. Thái Khang2 đắm rượu nên năm em oán trách. Đâu chỉ bậc phong lưu phải giữ, ngay cả người đạt cảnh ngộ cũng phòng. Bao nhiêu rực rỡ trên đời đều bị lu mờ trong rượu:
Kệ rằng:
Men bã một vò rượu nấu thành,
Bao nhiêu người trí mất thông minh.
Chẳng riêng phá giới người tu đạo,
Mất nước tan nhà tự đó sinh.
---o0o---
1 Đại Vũ: Vua thời nhà Hạ, ông bỏ rượu khiến nhân dân trăm họ vui mừng.
2 Thái Khang: Cháu vua Vũ nhà Hạ. Thái Khang có năm người em, nên chữ “ngũ tử” đây dịch là năm em.
BÀN VỀ GIỚI ĐỊNH TUỆ
Ôi! Hết thảy người tu hành đều chán ngán hai đường sinh tử. Bỏ vợ con cha mẹ, xuất gia cầu đạo, phụng Phật làm thầy. Noi theo đường lối của chư Phật, duy ở kinh mà thôi. Trong kinh chỉ nói giới, định, tuệ. Luận Giải Thoát nói: “Giới, định, tuệ là con đường giải thoát”. Giới là nghĩa oai nghi. Định là nghĩa chẳng loạn. Tuệ là nghĩa hiểu biết. Đó là lấy giới trừ ác cấu, định trừ triền cấu, tuệ trừ sử cấu1, nên phải lấy giới, định, tuệ để gieo giống thiện, gây mầm đạo. Giới định tuệ còn chia ra sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Lấy giới làm đầu, định làm giữa và tuệ ở sau. Giới là thiện đầu. Vì có tinh tiến trì giới, mới thành tựu được bất thoái, nên sinh vui mừng. Bởi mừng nên nhún nhảy. Vì nhún nhảy nên thân đứng. Bởi thân đứng lại nên vui. Bởi vui nên tâm không định. Đó là sơ thiện. Định làm thiện giữa. Bởi thân đứng nên ngừng. Bởi ngừng nên tâm trụ. Bởi tâm trụ nên biết thấy như thật. Đó là trung thiện. Tuệ làm thiện cuối.
1 Ác cấu, triền cấu, sử cấu: Tức tam cấu là tham, sân, si. Tam cấu cũng gọi là tam hoặc: Kiến tư hoặc, Trần sa hoặc, Vô minh hoặc. Trong đây nói ác cấu, triền cấu, sử cấu là chỉ nói về thập triền, thập sử, phần kiến tư hoặc trong tam giới.
Bởi biết thấy như thật, nên sinh lo chán. Bởi lo chán nên lìa dục. Bởi lìa dục nên giải thoát. Đó là hậu thiện. Cho nên lấy giới trừ bỏ ác thú, định trừ bỏ dục giới, tuệ trừ được hết thảy cõi hữu. Y vào giới, định, tuệ này mà tu, thời đường lối của chư Phật cũng rất gần vậy.
---o0o---
BÀN VỀ THỌ GIỚI
Ôi! Tịnh giới, tiếng Phạn là Ba la đề mộc xoa. Chư Phật trong ba đời, sở dĩ được thành đạo cũng không ngoài giới. Nên nói: “Người có phá giới được gọi là Tỳ kheo, người không phá giới gọi là ngoại đạo”1. Đó là chỉ nghĩa có thọ giới và không thọ giới. Thọ rồi lại phá còn gọi là Tỳ kheo, nữa là người thọ hết thảy tịnh giới mà lại kiên trì được đầy đủ. Đời hiện tại Bồ tát lấy giới để độ sinh, ở tương lai người tu hành do giới mà giải thoát. Trong kinh nói: “Giới như đất bằng phẳng, muôn thiện từ đó sinh.
1 Ý nói, do Phật giáo có chế định giới luật nghiêm khắc mới có hiện tượng phá giới, những người xuất gia mới được phép thọ, và trong quá trình giữ có lúc không trọn vẹn, gọi là phá giới. Ngoại đạo không có giới nên không có khái niệm về giữ giới hay phá giới.
Giới như thầy thuốc hay, chữa được mọi thứ bệnh. Giới như ngọc minh châu, chiếu sáng nơi đen tối. Giới tựa như thuyền bè, chở người qua biển khổ. Giới như tràng anh lạc, để trang nghiêm pháp thân. Có tội nên sám hối, chẳng sám tội thêm nặng. Một khi mất thân người, muôn kiếp chẳng trở lại. Ngày nay tuy an toàn, ngày mai khó giữ được. Nên giữ gìn pháp này, mau qua đường sinh tử. Tôn kính Phật làm thầy, trước y theo giới luật”. Cổ đức có nói: “Qua sông phải dùng bè, đến bờ không cần nữa”. Cổ nhân lấy giới làm thuyền bè, người nay lại chẳng nương vào giới để qua, mà được tới bờ kia, thật không thể có được.
---o0o---
BÀN VỀ NIỆM PHẬT
Ôi! Niệm Phật do tâm khởi. Tâm khởi thiện là thiện niệm. Khởi thiện niệm tất báo thiện nghiệp. Tâm khởi ác là ác niệm. Sinh ác niệm tất ứng ác nghiệp. Như gương hiện ảnh, tựa bóng theo hình. Nên Vĩnh Gia thiền sư nói: “Đâu là vô niệm, đâu là vô sinh”, là nghĩa thế vậy. Người học ngày nay, muốn khởi chính niệm, để tắt ba nghiệp cũng nhờ ở công phu niệm Phật. Niệm Phật để tắt ba nghiệp là sao? Bởi khi niệm Phật, thân chính ngồi ngay, chẳng làm hạnh tà, là tắt nghiệp thân. Miệng tụng chân ngôn, chẳng nói lời tà, là tắt nghiệp khẩu. Ý nghĩ tinh tiến, chẳng khởi niệm tà, là tắt nghiệp ý. Song người trí có ba bậc:
Bậc thượng trí thì tâm tức là Phật, chẳng nhờ tu chứng. Niệm tức là trần, chẳng dung một điểm. Niệm trần vốn tịnh, nên nói như như bất động, tức là thân Phật, thân Phật tức là thân ta, không có hai tướng. Tướng tướng không hai, tịch mà thường còn, còn mà chẳng biết. Đó là hoạt Phật.
Bậc trung trí, tất phải nương vào niệm Phật, chú ý chuyên cần, niệm niệm không quên, tự nhiên thuần thiện. Niệm thiện đã hiện, niệm ác liền tiêu. Niệm ác đã tiêu, duy còn thiện niệm. Bởi niệm ý niệm, niệm niệm tất diệt. Khi niệm đã diệt, ắt về chính đạo. Tới khi mệnh chung, được vui Niết bàn. Thường, lạc, ngã, tịnh là đạo của chư Phật.
Bậc hạ trí thì miệng chuyên niệm lời Phật, tâm muốn thấy tướng Phật, thân nguyện sinh nước Phật, ngày đêm siêng năng không thoái chuyển. Sau khi mệnh chung, theo thiện niệm đó, được sinh sang nước Phật, được nghe chư Phật tuyên nói chính pháp, chứng đạo Bồ đề, cũng vào quả Phật.
Ba hạng người trên, tuy nông sâu khác nhau, nhưng tới chỗ sở đắc là một. Song lối tu theo thượng trí, nói thời dễ, nhưng làm lại khó. Người đời nay muốn theo mà học, vốn không chỗ bấu víu, hết đều trông bờ mà lui, khó bề đạt được. Lối tu theo trung trí, nếu hay siêng năng tu tập như trên đã nói, thời tức khắc thành Phật. Còn như nghiệp lâu chưa hết mà lâm chung, phải ứng theo quả báo, lại sinh ở đời, hưởng thụ thiện báo. Thiện báo đã hết, mà không tỉnh ngộ, lại rơi vào ác thú. Người tu theo bậc này, cũng rất khó thành tựu. Lối tu hạ trí, lấy niệm Phật làm nấc thang, lấy tinh tiến làm thang, chú ý ở thiện duyên, nguyện sinh sang nước Phật, siêng năng tinh tiến, tâm tính thuần thục, sau khi mệnh chung, theo nguyện của mình được sinh sang nước Phật. Đã sinh sang nước Phật rồi, thời thân đó không bao giờ mất.
Người tu học đời nay, đã được mang thân người, đều có ba nghiệp, lại chẳng lấy môn niệm Phật để cầu sinh sang nước Phật, thời không thể được. Như muốn niệm Phật, tức phải lấy hạ trí làm trước. Tại sao? Vì có chú ý vậy. Ví như có người làm đài ba tầng, mà không cất tầng dưới trước, tất không thể có được.
---o0o---
BÀN VỀ TỌA THIỀN
Ôi! Những người học đạo, chỉ cần thấy tính. Dù có thọ hết thảy tịnh giới, nếu không tọa thiền, sức định khó sinh. Định lực chẳng sinh, tức vọng niệm chẳng diệt, mà muốn thấy tính, quả thật là khó.
Thích Ca Văn Phật vào núi Tuyết Sơn, ngồi định sáu năm. Chim thước làm tổ trên đầu, cỏ mọc xuyên qua bắp vế, thân tâm vẫn tự như Tử Cơ dựa ghế1 ngồi, hình như cây khô, tâm như tro nguội. Nhan Hồi tọa vong2, rời thân thể, bỏ phán đoán, lìa ngu trí, cùng thông với đại đạo. Đó là những cổ đức thánh hiền trong ba giáo, cũng từng lấy ngồi định mà thành tựu.
1 Tử Cơ dựa ghế: Dịch chữ “Tử Cơ ẩn kỷ”. Sách Trang Tử, thiên Tề vật luận chép: Nam Quách Tử Cơ, tựa ghế mà ngồi, ngửa mặt lên trời mà xem hơi thở (ẩn kỷ nhi tọa, ngưỡng thiên nhi hư).
2 Nhan Hồi tọa vong: Nghĩa là ông Nhan Hồi ngồi ngay ngắn, tâm vẳng lặng, quên cả vật và mình, vượt cả tướng sai biệt, tâm cảnh dung thông vô ngại. Thơ Bạch Cư Dị viết: “Hành thiền dữ tọa vong, đồng quy vô dị lộ” (Tọa thiền và tọa vong cùng giống nhau).
Song, đi, đứng, nằm, ngồi cũng đều là thiền, không chỉ ở ngồi. Bởi vì, đi thì phóng bước, đứng lại sinh mỏi, nằm thời mờ tối nhưng yên tĩnh. Yên tĩnh tất mối nghĩ sinh, mỗi nghĩ sinh thì niệm khởi. Muốn tắt mọi niệm, phải tập tọa thiền. Nếu khi ngồi thiền chẳng tắt mọi niệm thời tâm vượn nổi dậy, ý ngựa lông bông. Hoặc do loạn tưởng mà biết tiền trần, hoặc do vô ký mà quên tự tính. Dựa ghế tựa vách, nhắm mắt che con ngươi, ngủ say chảy dãi, cúi đầu khom lưng, tuy mượn danh là tọa thiền, nhưng cũng như người ngồi trong núi đen, hang quỷ. Hoài Nhượng thiền sư nói: “Mài ngói làm gương là nghĩa thế vậy”.
Vả lại, thiền có bốn thứ:
Người làm kế lạ, vui cao chán thấp mà tu là ngoại đạo thiền.
Người chính tín nhân quả, cũng vui chán mà tu là phàm phu thiền.
Người liễu lý sinh không, chứng đạo thiên chân mà tu là Tiểu thừa thiền.
Người đạt nhân, pháp đều không mà tu là đại giáo thiền. Kẻ hậu học đời nay, nên lấy đại giáo thiền làm chính. Đó là tập tọa thiền dứt vọng niệm, chớ sinh ngờ vực.
---o0o---
BÀN VỀ GƯƠNG TUỆ GIÁO
Ôi! Tuệ sinh từ định lực. Nếu tâm định thời gương tuệ sinh, tâm loạn thời gương tuệ diệt. Cũng như gương bằng đồng, trước nhờ ở mài giũa, rồi sau mới bóng sạch chiếu sáng. Nếu chẳng mài giũa thì bụi nhơ phủ mờ, ánh sáng không thể sinh được. Nên biết tuệ do định hiện, định từ tuệ sinh. Định tuệ y vào nhau, hai bên không thiếu một. Nếu mượn danh tọa thiền, tâm chưa được định, mà sinh được gương tuệ, tất nhiên không thể có. Tuy có tuệ tính mà chẳng tập tọa thiền, tự cho mình đã sẵn có tuệ, không cần nương vào tọa thiền. Người tu như thế, tuy sẵn có tuệ, tất nhiên không thể có. Tuy có tuệ tính mà chẳng tập tọa thiền, tự cho mình đã sẵn có tuệ, không cần nương vào tọa thiền. Người tu như thế, tuy sẵn có tuệ, nhưng không có thể của gương. Nếu khi ở định, tâm chưa được định, mà muốn cầu tuệ, ví như phong ba chưa yên, mà muốn tìm thấy bóng trăng. Nếu người tâm đã định, mà sinh tà giải để cầu tuệ, cũng như phong ba đã yên, bóng trăng lắng trong, mà lại khuấy trong nước để tìm bóng trăng, tất không thấy được. Nên tổ sư nói: “Tịch mà thường chiếu, chiếu mà thường tịch”. Lại nói: “Tịch tịch, tỉnh tỉnh là vô ký. Tỉnh tỉnh, tịch tịch là loạn tưởng. Tỉnh tỉnh tịch tịch, tịch tịch tỉnh tỉnh là thuốc. Vô ký, loạn tưởng là bệnh”. Nếu thân có bệnh, nên phải mượn thuốc để đối trị. Thân đã bình định, thì cần gì phải chữa. Nếu hay tập được như thế, thời định tuệ thành tựu.
---o0o---
BÀI TỰA SÁCH THIỀN TÔNG CHỈ NAM
Trẫm trộm nghĩ: Phật không chia nam bắc, đều có thể tu cầu. Tính đều có trí ngu, cùng giúp phần giác ngộ. Đó là, phương tiện dụ dẫn quần mê, đường tắt tỏ nẻo sinh tử, là đại giáo của Đức Phật ta. Làm cán cân cho hậu thế, làm khuôn phép cho tương lai, là trọng trách của bậc tiên thánh. Nên Lục Tổ nói: “Bậc thánh nhân xưa cùng với đại sư không khác”. Thời biết, giáo pháp của Đức Phật ta, lại nhờ vào thánh nhân xưa để truyền ở đời. Nay trẫm sao lại chẳng lấy cái trách nhiệm của tiên thánh làm trách nhiệm của mình. Đem giáo lý của Đức Phật làm giáo lý của mình vậy ư!
Vả lại, trẫm khi còn trẻ thơ, ở tuổi hiểu biết, hễ được nghe lời dạy của thiền sư, thời trầm tư mặc tưởng, hồn nhiên thanh tịnh, lưu tâm ở nội giáo, tham cứu ở Thiền tông, quên mình tìm thầy, tinh thành mến đạo. Tuy cái ý hồi tâm hướng đạo đã manh nha, nhưng cái cơ cảm xúc vẫn chưa đạt được.
Vừa lúc 16 tuổi, Thái hậu từ giã cõi đời, trẫm thường nằm rơm gối đất, lệ huyết tuôn rơi, ruột đau như cắt. Ngoài nỗi buồn khổ ra, chưa rảnh rỗi làm việc khác. Chỉ khoảng vài năm sau, Thái Tổ Hoàng Đế1 lại kế tiếp yến giá (qua đời). Mến tiếc mẹ chưa khuây, xót thương cha càng thiết. Thê thảm bồn chồn, khôn nguôi lòng dạ. Trẫm nghĩ công cha mẹ đối với con, nuôi nấng vỗ về, chăm sóc đủ thứ, dù có thân nát xương tan cũng chưa đủ để báo đền công ân đó trong muôn một.
1 Thái Tổ Hoàng Đế: Tức Thái Tổ nhà Trần. Trần Thừa được tôn làm Thái Tổ. Con Trần Thừa là Trần Cảnh, tức Trần Thái Tông.
Hơn nữa, trẫm nghĩ Thái Tổ Hoàng Đế, rất gian nan việc mở nền dựng nghiệp, rất quan trọng việc trị nước giúp đời, đem đại khí trao cho trẫm khi còn thơ dại, ngày đêm nơm nớp lo sợ, đứng ngồi không yên1. Trẫm tự nhủ rằng: “Trên đã không cha mẹ để nương nhờ, dưới sợ chẳng đủ đáp lòng mong ngóng thành thật của lê dân, vậy biết làm thế nào đây?”. Trẫm suy nghĩ: “Chi bằng hãy lui về chốn núi rừng, tìm hiểu Phật giáo, để tỏ rõ việc lớn của sinh tử, để báo đáp đức cức cù lao, chẳng cũng tốt lắm sao”!
Bởi thế, chí trẫm đã quyết định. Năm thứ 5, niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình vào đêm mồng 3 tháng 4 năm Bính Thân (1236), trẫm mặc áo thường đi ra cửa cung, bảo tả hữu rằng: “Trẫm muốn ra ngoài thành du ngoạn, lắng nghe tiếng nói của dân, xem chí nguyện của dân, ngõ hầu mới biết được sự gian nan của họ”. Lúc đó tả hữu theo bên trẫm chẳng quá bảy tám người. Vào giờ Hợi đêm ấy, trẫm một mình một ngựa cất bước ra đi.
1 Đứng ngồi không yên: Dịch câu: Bất hoàng khải sử. Khải sử nghĩa là chiếc chiếu có vị trí quỳ, nơi đứng, nơi ngồi, dịch ý là đứng ngồi không yên.
Sang sông đi về phía đông, trẫm mới thật tình bảo cho những người theo hầu biết. Họ rất ngạc nhiên đều ứa hai hàng lệ. Giờ Mão ngày hôm sau, đi đến bến đò Đại Than núi Phả Lại, trẫm sợ có người biết, phải lấy áo che mặt qua sông, rồi theo đường núi mà đi. Núi hiểm suối sâu, trèo lội chật vật, ngựa mệt mỏi không thể tiến bước, trẫm phải bỏ ngựa, vịn vào vách đá mà đi mãi tới giờ Mùi mới đến sườn núi Yên Tử. Sáng hôm sau, trẫm leo thẳng lên đỉnh núi, tham kiến Trúc Lâm đại Sa môn Quốc sư1. Quốc sư chợt thấy mừng rỡ, ung dung bảo trẫm rằng:
“Lão tăng ở nơi núi rừng, xương cứng dáng gầy, ăn quả cây, nếm lá ngọt, uống nước suối, vui cảnh rừng, tâm tựa mây trôi, theo gió mà đến. Nay Bệ hạ bỏ cái thể nhân chủ, nghĩ đến cảnh núi rừng, hẳn có điều mong cầu chi mà đến đây vậy!”. Trẫm nghe lời Quốc sư nói, bỗng nhiên nước mắt giàn giụa, thưa với Quốc sư rằng:
1 Trúc Lâm đại Sa môn Quốc sư: Có thể là Phù Vân Quốc sư, trụ trì chùa Hoa Yên lúc bấy giờ (theo Nguyễn Lang).
“Trẫm tuổi còn thơ dại, vội mất song thân. Đứng một mình trên đám sĩ dân, không chỗ nương tựa. Lại nghĩ tới sự nghiệp của đế vương đời trước, hưng phế, thịnh suy bất thường, nên trẫm nay vào núi đây, chỉ mong cầu làm Phật, chẳng cầu vật gì khác”.
Quốc sư đáp: “Trong núi vốn không có Phật, Phật chỉ có trong tâm. Tâm vẳng lặng mà biết, đó gọi là Chân Phật. Nay Bệ hạ nếu ngộ được tâm ấy, thời tức khắc thành Phật, không phải nhọc công tìm đâu xa”.
Bấy giờ, Trần Công1 là thúc phụ của trẫm, em họ đấng tiên quân, được tiên quân ký thác con côi, sau khi tiên quân từ giã cõi đời và quần thần mà băng, được trẫm phong chức Thái sư tham chính việc nước. Nghe tin trẫm ra đi, Thái sư bèn sai tả hữu chia ngả đi khắp nơi để tìm tung tích. Tất cả mọi người đã tìm đến núi này, đã cùng gặp nhau.
Trần Công thống thiết nói: “Bầy tôi chịu lời ủy thác của đấng tiên quân, thờ Bệ hạ làm chủ thần dân, dân trông chờ mong đợi ở Bệ hạ, như con đỏ mong cha mẹ.
1 Trần Công: Tức Trần Thủ Độ, em họ Trần Thừa.
Nữa là hiện nay bậc cố lão trong triều đình, đều là những người trong họ hàng thân thích. Lê dân sĩ thứ đều cùng vui mừng quy thuận. Ngay như đứa trẻ bảy tuổi, tám tuổi cũng đều biết Bệ hạ làm cha mẹ dân. Vả lại, Thái Tổ bỏ bày tôi ra đi, đất trên nấm mồ chưa khô, lời di chúc còn vẳng bên tai. Mà nay, Bệ hạ lại giấu hình tích trong núi rừng, ẩn cư để thỏa chí riêng mình. Cứ theo ý thần, Bệ hạ làm kế tự tu có thể được, nhưng còn quốc gia xã tắc thì sao? Xem ra, lấy lời nói suông để chỉ bảo người sau, chi bằng lấy thân mình vì thiên hạ làm trước. Bệ hạ nếu không nghĩ lại, bọn thần cùng mọi người, xin cùng chết ngày nay, quyết chí không quay trở về”.
Trẫm thấy Thái sư và các cố lão quần thần không có ý định bỏ trẫm. Trẫm bèn đem lời nói đó thưa với Quốc sư. Quốc sư nắm tay trẫm và nói: “Phàm làm đấng nhân quân, phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý mình. Nay thiên hạ muốn đón Bệ hạ về triều, Bệ hạ không thể không trở về được. Song, việc tham cứu nội điển, xin Bệ hạ luôn luôn để tâm, chớ quên”.
Bởi thế, trẫm cùng mọi người lại trở về kinh, miễn cưỡng bước lên ngôi báu. Trong khoảng thời gian mười mấy năm, phàm gặp cơ hội việc nước nhàn rỗi, trẫm thường tụ tập các bậc kỳ đức để tham thiền hỏi đạo và nghiên cứu các kinh điển đại giáo. Trẫm thường đọc Kinh Kim Cương, có lần đọc đến câu: “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm” (không nên trụ trước nơi nào, mới sinh được tâm chân chính), vừa lúc bỏ quyển trầm ngâm, bỗng nhiên tự ngộ. Trẫm đem chỗ ngộ đó mà làm ra bài ca này, đề tên là Thiền tông chỉ nam. Năm ấy, Quốc sư từ núi Yên Tử về kinh, trẫm thỉnh ở chùa Thắng Nghiêm, chủ trì việc khai ván in các kinh. Trẫm lấy tác phẩm ấy đưa Quốc sư xem. Quốc sư xem xong, ba lần tán thán rằng: “Tâm của chư Phật hết ở trong sách này, sao không đem khắc ván in với chư kinh để dạy kẻ hậu học?”.
Trẫm nghe nói thế, liền sai thợ viết lối chữ chân phương (khải thư) sắc truyền khắc ván đem in. Sách này không những riêng để chỉ chỗ mê lầm cho đời sau, mà còn muốn nối theo cái công truyền bá rộng của bậc thánh nhân đời trước. Nhân thế tự làm bài tựa này.
---o0o---
BÀI TỰA KINH KIM CƯƠNG TAM MUỘI
Trẫm nghe! Bản tính nhiệm màu, chân tâm vẳng lặng. Thành hoại đều dứt, chẳng phải tính trí hay xét ngọn nguồn. Tan hợp đều không, đâu thể mắt tai xem nghe tường tận. Có, không xóa hết; đạo, tục san bằng. Đứng riêng một mình, không chi sánh được. Đó là then chốt của tự tính Kim cương vậy.
Khốn nỗi! Chúng sinh đã lâu: Vì huân tập ô nhiễm; thức thần dao động, bởi sóng gió thấy nghe. Noi hạnh xấu làm theo ấy nhiều, xoay ánh tuệ để soi lại ít. Bèn khiến, bốn phương đổi chốn, mê mất ngả về; lối rẽ sai đường, mơ hồ chính đạo. Gốc ngọn chẳng rõ, chân vọng khó phân. Vàng ròng đem tạp khoáng nấu chung, trăng sáng lẫn bụi trần cùng hiện. Quê, mê ngả về nơi “hà hữu”1; mặt, quên mất cả vẻ bản lai. Trên đường Niết bàn khó tiến lên, trong hố tử sinh cam lùi bước. Nên đấng Năng Nhân (Phật) thầy ta, hiện vô sinh từ nhẫn, thương mọi khổ trầm luân.
1 Hà hữu: Rút gọn ở câu “vô hà hữu chi hương”, nghĩa là quê hương nơi không có. Tức nơi tịch diệt vô vi. Trang Tử nói: “Vô hà hữu chi hương, quảng mạc chi dã”. Đó là cái nghĩa không vô. Tam giới vạn pháp đều không.
Bốn hoằng thệ nguyện để lòng, ba nghĩ1 đắn đo càng thiết. Pháp thân lắng, báo thân hiện sao lành ứng ở triều Chu. Tượng pháp tới, chính pháp qua, người vàng mộng trong cung Hán. Ma Đằng, Pháp Lan truyền đến; Tây Trúc, Chấn Đán mới thông. Chữ Phạn phiên thành, văn Hoa rực rỡ. Thay thế lá bối, lấy lụa chép kinh. Bể giáo phô mọi ngọc châu. Trời nghĩa điểm bao sao sáng. Hoặc muốn thêm chỗ chưa đúng, hoặc đem vá chỗ chưa bằng. Đường nước Y Ngô nối tung, lối mòn sa mạc tiếp gót. Lối gần vượt biển, dốc chí tới Hoa. Từ Hán bắt đầu, tới nay mở rộng. Thiên, viên, bán, mãn, đều không thiếu trong tráp ngà; đốn, thực, tiệm, quyền, muôn có thừa trong rương báu. Kinh Kim Cương Tam Muội, há không phải là giáo viên, mãn, đốn, thực đó sao? Nếu không thế, sao lại lấy vô sinh pháp yếu, dùng phương tiện thần thông.
1 Ba nghĩ: Dịch ở chữ “tam tư”. Sách Luận Ngữ chép: “Tam tư nhi hậu hành”, ý nói làm việc gì cũng phải đắn đo, nghĩ đi xét lại nhiều lần rồi mới làm.
Tu Bồ Đề hỏi xuất thế nhân, Đức Như Lai gieo vô thượng quả. Muốn ngăn chặn có sinh có diệt, trước phải bày vô tướng vô sinh. Thấy sinh niệm ở vọng niệm mà mờ, dấy thủy giác nơi bản giác để tỏ. Chuyển mọi tình thức, vào Úm-ma-la (vô cấu thanh tịnh thức). Mê đầu chẳng đoái tự thân, thõng tay dẫn về thật tế1. Hoặc vin ngoại trần duyên có, nên nói chân tính vốn không. Đến lúc ba tướng2 chẳng quan, ắt hẳn bốn thiền nào có. Hòa các vị thành vô thượng vị, nắm mọi dòng làm bất nhị lưu. Chuyển xoay biến kế vọng tâm, tiếp vào Như Lai tạng thức. Thâu tóm mọi pháp, hiển rõ nhất tâm. Nhân chấp mà mê, như nước Thục, nước Man cùng giữ chặt; bởi sai biết sửa, như nước Tề, nước Lỗ đều đổi thay.
1 Thõng tay dẫn về thật tế: Dịch ở câu: “Thùy thủ đạo quy thật tế”, nghĩa là tiếp dẫn về nơi chân thật cứu cánh, tức là về nơi bản thể của bình đẳng nhất như.
2 Ba tướng (hữu vi): Tướng sinh, Tướng trụ, dị, Tướng diệt. Ba tướng: Cũng là ba thứ tự tính: Biến kế sở chấp tính, Y tha khởi tính, Viên thành thật tính.
Trẫm, vin vào đức làm chủ đất nước, dựa vào pháp để cai trị dân. Lo nghĩ gian nan, quên cả sớm tối. Việc tuy có hàng vạn, giờ rảnh lấy khoảng thừa. Siêng việc quý giờ, học thêm tiến ích. Chữ nghi ngờ chưa biết rõ, đêm đến khuya vẫn còn xem. Để đọc sách Nho, lại ngẫm kinh Phật. Kinh này mới thấy, cảm tựa nhiều đời. Tìm lý ẩn, đào nghĩa cao sâu; chín lần nghĩ, ba hồi xét lại. Nghiên ngẫm nghĩa lý, trau chuốt văn hoa. Muốn hiến lời vàng, giúp cho hậu học. Lạm dùng vằn báo thấy một, dẫn dắt đàn khỉ giận ba1. Bởi thế, trẫm viết điều chứa trong lòng, lại thân làm văn chú giải. Tìm lời nhiệm màu non Thứu Lĩnh, xét nghĩa uẩn áo đáy Long Cung. Vá vào giống hạt bụi trên đường chân như, giảng ra tựa giọt nước trong nguồn chính giác. Phát huy ý thâm diệu, khai xiển tông chân thừa.
1 Đàn khỉ giận ba: Dịch ở chữ “Thư chúng nộ tam”. Theo điển sách Trang Tử, thiên Tề vật luận chép: Xưa có ông Thư Công (chủ đàn khỉ) chia thức ăn cho khỉ. Ông nói: “Sáng cho ba chiều cho bốn”, đàn khỉ đều giận. Lại nói: “Thế sáng cho bốn chiều cho ba”, đàn khỉ đều mừng. Sáng ba chiều bốn, sáng bốn chiều ba, số lượng bằng nhau, mà đàn khỉ hoặc giận hoặc mừng. Đó là chúng không biết được nghĩa danh với thật chỉ là một.
Khiến người vừa mở văn xem, liền nhận rõ nghĩa. Phá thành trì kiên cố tà đảng, làm đội quân mưu lược nghĩa đồ1. Vọng kiến mênh mang, dần biết quay về sao Bắc Đẩu; đường mê khúc khuỷu, chợt biết hướng theo kim chỉ nam. Nguyện vì người học có chỗ nương, mới thấy lòng trẫm không sẻn tiếc.
Nay tựa.
---o0o---
1 Làm đội quân mưu lược nghĩa đồ: Dịch câu “Tác nghĩa đồ tôn trở chi sư”. Tôn là vò rượu, trở là cái kỷ đựng đồ tế, dĩa đựng thịt, ám chỉ cho yến tiệc. Trong yến tiệc có bàn tính mưu lược, mà phá được định quân ngoài ngàn dặm. Văn bia chùa Đầu Đà chép: “Cố năng sử tam thập thất phẩm hữu tôn trở chi sư, cửu thập lục chủng vô phiên ly chi cố”. Chú rằng: “Nghĩa đồ tinh nhuệ, cố mưu sâu trong yến tiệc”. Lại chú rằng: Kinh Đại Phẩm, tam thập thất phẩm nói: Các phẩm này là yếu chỉ của Phật pháp, mà các Tỳ kheo vâng làm để hàng phục chỗ cố chấp của ngoại đạo. Cũng như Yến Tử ở trong bữa tiệc mà ngăn chặn được quân Tấn. Vì Tấn muốn đánh Tề, liền sai sứ sang Tề. Nước Tề đặt tiệc khoản đãi. Trong bữa tiệc, sứ nước Tấn nói vui rằng sẽ làm loạn Tề. Thái sư Yến Tử biết ý. Khi sứ Tấn trở về liền bảo: “Nước Tề không thể đánh được”. Do đó Tấn lui quân. Khổng Tử nghe biết liền nói: “Bất xuất tôn trở chi gian, chiết xung thiên lý chi ngoại giả, Yến Tử chi vị dã”, nghĩa là trong bữa yến tiệc mà hay ngăn chặn được quân địch ngoài ngàn dặm, chính Yến Tử đã làm được vậy.
TỰA KHOA NGHI SÁU THỜI SÁM HỐI
Tiện đi lại trên sông, đường bộ là thuyền xe; rửa bụi nhơ cho thân và tâm là lễ sám. Muốn rửa thân tâm mà không nhờ lễ sám, khác gì muốn tiện lợi đi lại, lại không dùng thuyền xe. Thế nên, công dụng của lễ sám rất lớn. Kinh Đại Tập nói: “Như chiếc áo dơ bẩn trăm năm, có thể giặt sạch trong một ngày”. Nên mọi nghiệp bất thiện chứa góp trong trăm ngàn kiếp, nhờ sức thần của Phật, thuận theo duyên lành, có thể tiêu trừ hết chỉ trong một ngày, một khắc.
Ôi! Chúng sinh bản lai giác tính, thanh tịnh viên minh. Lắng như thái hư, không một hạt bụi. Bởi bọt vọng khởi, cõi uế hiện thành. Năng, sở nương nhau; Phật, ta hai ngả. Tính, căn riêng rẽ; ngu, trí chia đường. Chỉ bảo một môn, khó thể ngộ nhập. Nên Đức Phật ta, hoằng tứ nguyện lớn, phương tiện mở nhiều pháp môn, chỉ nẻo đường về, ứng bệnh cho thuốc. Biết huyễn cấu của chúng sinh, từ vọng mà có. Khuyên họ một niềm siêng năng quy y lễ sám. Khiến thân tâm thanh tịnh, tròn sạch như xưa. Gió lặng sóng dừng, bụi hết gương sáng. Vì, tâm xưa làm ác, như mây che mặt trăng; tâm nay làm lành, như đuốc tan bóng tối. Ôi! Công dụng của lễ sám, thật quả là lớn, đâu chỉ có thế!
Trẫm, nhờ ơn cao siêu chiếu cố, hưởng ngôi vị chí tôn. Việc dân gian nan, triều chính bề bộn. Bên ngoài phấn hoa dụ dỗ, bên trong trùng bọ muốn ham. Miệng chán vị ngon, thân mang vàng ngọc. Nghe nhìn theo sắc thanh sai khiến, ăn ở có đài các yên vui. Lại nữa, phép người suy vi, thói đời bạc bẽo. Người học mờ mịt, gốc thiện mỏng manh. Ngày thời căn trần tiếp xúc, lưới nghiệp kéo lôi; đêm thời thụy cái đậy che, dây oan ràng buộc. Ngày đêm phan duyên, đều là những tội lỗi gây tai gieo họa. Trẫm lấy điều ấy, canh cánh trong lòng. Thương cảm xen nhau, bỏ ăn quên ngủ. Nhân lúc việc triều chính nhàn rỗi, xem các kinh sách và mọi nghi văn, soạn thành pháp lợi mình lợi người, để chỉ bảo cho đời. Tìm kiếm rồi suy ngẫm, hễ có nghiệp chứa chất, đều do sáu căn gây ra. Bởi thế, Thích Ca Văn Phật, khi đạo chưa thành; trước vào Tuyết Sơn, sáu năm tu khổ hạnh, dáng là vì sáu căn vậy. Phỏng theo ý ấy, trẫm lấy sáu căn chia làm sáu thời, mỗi thời lễ sám một căn.
Thân chế ra nghi văn gọi là “Khoa nghi sáu thời lễ Phật sám hối”. Văn thời lời văn rộng, nói thời lời nói xa. Vì văn nhiều thì sám hối trễ nải, nói xa thì ngờ vực nảy sinh, nên không tạo bóng bẩy cho đầy pho sách, khiến người đọc tụng đều vui, thấy nghe dễ hiểu. Ngõ hầu, những người có lòng tin, có thể ngày đêm, phát chí thành, lấy khoa nghi này làm nghi thức lễ sám. Như vậy thời chẳng phụ cái nguyện lợi mình lợi người của trẫm. Người có mắt sáng sau này, xin chớ lấy nghi văn chế nhạo. Tuy nhiên như thế, nhưng:
Bởi hoa nở sớm ven ngõ tía,
Nên có oanh vàng đậu liễu xanh.
---o0o---
TỰA VĂN LỄ SÁM BÌNH ĐẲNG
Ôi! Pháp tính như như, không vướng mảy may niệm lự; chân nguyên vẳng lặng, bản lai chẳng gợn nhiễm ô. Bởi chợt dấy vọng duyên, hiện thành huyễn thể. Theo nghiệp thức chuyển, quên mất viên ngọc sáng tròn; mất gia tài kia, bởi buông sáu căn tham dục. Nếu có chứa đựng tịnh pháp, ắt phải rửa sạch vọng trần. Phát khởi tâm bình đẳng nhất chân, đảnh lễ thể pháp thân vô tướng. Đến được trong ấy, tự tha thọ dụng giao hòa; hướng bên đó cầu, bản lai diện mục tự hiện. Tuy nhiên như thế, gươm chưa tuốt khỏi vỏ báu, chốn loạn khó yên; thuốc chưa rót khỏi bình vàng, căn bệnh khó khỏi. Trẫm dành giờ rảnh, muôn việc còn dư, xem nghĩa thậm thâm ba tạng. Gặp pháp môn này, chỉ thẳng con người làm Phật. Dù là minh nhãn, ngại gì trên gấm thêm hoa. Nếu là tri âm, chính nên tiến bước.
---o0o---
NÓI RỘNG MỘT ĐƯỜNG HƯỚNG THƯỢNG1
Bàn Sơn thiền sư2 để lại lời dạy rằng: “Một đường hướng thượng, ngàn thánh chẳng truyền. Người học
1 Nói rộng một đường hướng thượng: Nói rộng (phổ thuyết): Trái với “độc tham”. Nghĩa là nói về yếu chỉ chính truyền của Phật, tổ và bàn rộng tới các kinh luận, chứng tích của các thiền sư xưa nay, để chỉ bảo cho kẻ hậu học. Một đường hướng thượng (nhất lộ hướng thượng) nói về nghĩa tối thượng. Cực tắc của hướng thượng, ta không thể đem ngôn ngữ suy tư để diễn tả.
2 Bàn Sơn thiền sư: Tức Bàn Sơn Bảo Tích thiền sư đời Đường, pháp tự của Mã Tổ.
nhọc hình, như vượn bắt bóng”. Khiến người học khắp nơi, đều hướng con đường ấy, tham cứu thiền ý1. Thử hỏi tất cả mọi người, thiền ý làm thế nào tham được? Nếu quả tham được ý ấy, lại giống như một gã si2. Đầu lại thêm đầu, đuôi nối đuôi nữa. Bỏ bụi trong mắt, thêm bướu trên thân. Nói đến thời môi miệng méo xiên, ngó thấy thời mắt ngươi rơi rụng. Cụ già vàng mặt (Phật), liếc mắt dòm bên; thầy tăng mắt xanh (tổ Đạt Ma), chau mày đứng cạnh. Mã Tổ treo phất3, Thủ Sơn giấu bề4.
1 Thiền ý: Ý cùng cực thiền, không dấu vết, không tự tính, bất khả đắc. Hoặc gọi là tư tưởng thiền.
2 Gã si (Si nhi): Chỉ kẻ ngu, chẳng biết tìm trí tuệ ở tự mình, tức tự Phật, lại cứ đuổi theo ngoại cảnh, tìm Phật bên ngoài, chẳng khác gì như kẻ si, đầu lại thêm đầu.
3 Mã Tổ treo phất (Mã Tổ quải phất): Phất là một dụng cụ đuổi ruồi muỗi. Xưa Đức Phật chế cho hàng đệ tử dùng, có cán làm bằng tre hay gỗ. Phất làm bằng lông ngựa hay dây gai. Sau này các thiền sư dùng phất để mỗi khi thượng đường thuyết pháp. Mã Tổ, tức Mã Tổ Đạo Nhất đời Đường, pháp tự của Nam Nhạc Hoài Nhượng. Mỗi khi có học nhân tới tham vấn, Mã Tổ dựng phất để biểu thị thiền cơ. Đây nói treo phất tức gác cái phất lại. Có ý nghĩa là không cần tới. Các câu sau ý nghĩa tương tự.
4 Thủ Sơn giấu bề (Thủ Sơn tàng bề): Bề tức trúc bề. Các thiền sư dùng để tiếp dẫn học đồ. Trúc bề dài khoảng ba tấc, làm bằng tre, hình khom cánh cung, sơn son. Thủ Sơn, tức Thủ Sơn Tỉnh Niệm thiền sư đời Đường, dòng Lâm Tế. Khi thượng đường, Thủ Sơn dựng cây trúc bề (cây thước) thị chúng rằng: “Này tất cả mọi người. Nếu gọi là cây thước thời phải (khẳng định), nếu chẳng gọi là cây thước thời trái (phủ định). Vậy tất cả mọi người gọi là cái gì?”. Giấu bề có nghĩa không cần tới trúc bề.
Triệu Châu xé rách thiên sam1, Vân Môn vứt bỏ hồ bính2. Đức Sơn buông gậy3, Lâm Tế nuốt lời4. Dấu vết Phật Phật, Tổ Tổ đều mờ; gan mật kẻ kẻ, người người đều mất. Châm không chỗ thấu, dùi cũng chẳng vào. Đầu đồng tiến tới không đường, trán sắt lao vào chẳng thủng. Lửa đá xẹt mà chẳng kịp, điện chớp loáng còn chậm xa. Tĩnh ngộ vào chốn chìm say, động mê xéo đường sinh tử. Ví khiển, Linh Sơn phó chúc, chỉ là nơi chốn rườm rà; Thiếu Thất đan truyền, cũng là ổ hang rắc rối.
1 Triệu Châu xé rách thiên sam (Triệu Châu liệt phá bố sam): Triệu Châu tức Triệu Châu Tòng Thẩm, thiền sư đời Đường, dòng phái Nam Nhạc. Theo công án, một vị tăng hỏi Triệu Châu: “Muôn pháp trở về một, một về chốn nào?”. Sư đáp: “Ta ở Thanh Châu làm một áo vải nặng bảy cân” (Ngã tại Thanh Châu tác nhất lãnh bố sam trọng thất cân). Bố sam tức là áo thiên sam bằng vải. Thiên sam là một thứ áo lót cộc tay, treo từ trên vai phía trái xuống, bọc che hai bên nách. Xẻ rách áo thiên sam, nghĩa là không cần đến áo thiên sam.
2 Vân Môn vứt bỏ hồ bính (Vân Môn quyên khước hồ bính): Vân Môn tức là Vân Môn Văn Yển thiền sư, khai sáng tông Vân Môn. Theo công án, có vị tăng hỏi Vân Môn: “Thế nào là lời bàn siêu Phật, việt Tổ?”, Vân Môn đáp: “Hồ bính”. Hồ bính là một thứ bánh làm bằng bột và vừng.
3 Đức Sơn buông gậy (Đức Sơn khí bổng): Đức Sơn, tức Đức Sơn Tuyên Giám thiền sư, pháp tự của Long Đàm Sùng Tín. Mỗi khi học đồ tới tham học, hỏi đạo, ngài đều dùng gậy để chỉ bảo hướng dẫn về ý chỉ thiền.
4 Lâm Tế nuốt lời (Lâm Tế thôn thanh): Lâm Tế tức Lâm Tế Nghĩa Huyền thiền sư, tổ sáng lập Lâm Tế tông. Học đồ mỗi khi đến tham thiền hỏi đạo, ngài thường dùng tiếng “thét” để tiếp dẫn.
Mặc dù cơ dương tựa chớp, tiếng thét ứng cơ. Lời diễn chảy trôi, thoại đầu lưu loát. Tham đi tham lại, ngày lâu tháng dài. Chút vương miệng nói trơn tru, sao thoát thân nằm hang ổ.
Này mọi người! Đến chỗ ấy rồi, chẳng được buông qua một bước. Xô người học đưa mắt nhìn vách đá treo leo, càng khó tiến bước. Ta ngày nay vì tất cả các người! Chẳng khỏi vuốt râu miệng hùm, đầu sào tiến bước. Chốn nói thời như gió bay tùng réo, chốn im thời tựa trăng chiếu đầm trong. Khi đi, nước cuốn mây bay; khi đứng, núi yên non vững. Lời lời là Thích Ca hoạt kế, câu câu là Đạt Ma gia phong. Buông ra thời tám chữ mở tung, thu lại thời một môn đóng chặt1. Ở trong hang quỷ, cũng là Di Lặc lâu đài; trụ dưới núi đen, chẳng khác Phổ Hiền cảnh giới. Nơi nơi là đại quang minh tạng, cơ cơ là bất nhị pháp môn. Mặc cho sáng lại tối đi, quản gì mây che trăng khuất.
1 Buông ra thời tám chữ mở tung, thu lại thời một môn đóng chặt: Dịch câu “Phóng chi tắc bát tự đả khai, bả chi tắc nhất môn tuyệt hố”. Câu trên có nghĩa là nhất phóng tức phóng ra, buông ra. Câu dưới có ý nghĩa là nhất thu, bắt lại. Hướng thượng tới cảnh giới tuyệt đối bình đẳng cùng cực có nghĩa thu lại, thu lại thời một môn đóng chặt. Khi hướng hạ độ sinh có nghĩa buông ra, buông ra thời tám chữ mở tung. Vậy tám chữ đây, ám chỉ cho tám hướng, mười phương hay nhiều phương hướng, không chỉ giới hạn ở số tám.
Trên tay ngọc sáng, xanh ánh xanh, vàng ánh vàng; gương xưa đương đài, Hồ hiện Hồ, Hán hiện Hán. Dù ngay huyễn thể, hết là pháp thân. Chẳng nhọc trên đỉnh phóng quang, vốn đủ lục thông diệu dụng. Cung điện Ma Vương lật đổ, tâm can ngoại đạo mở toang. Biến trái đất làm cõi nước vàng son, khuấy sông dài cho trời người nước sữa. Trong hổng mũi pháp luân thường chuyển, dưới lông mày bảo sát hiện ra. Gái đá trong nước múa điệu Bà sa, người gỗ thổi kèn hát bài khoản đãi1. Hoặc gặp trường bận rộn, hoặc được chốn thảnh thơi. Hoặc thõng tay (xuống núi) giúp đời, hoặc quay đầu đồng nội. Khi biếng nhác ngủ mây gối đá, lúc thích hứng vịnh gió ngâm trăng. Rong chơi nơi quán rượu phòng trà, cười đùa giữa đường hoa ngõ liễu. Hoa vàng tua tủa, đều là Bát nhã tâm; trúc biếc xanh xanh, hết là chân như lý. Vén cỏ hiện bản lai diện mục, xới đất dứt đường rẽ tử sinh. Quay đầu ngựa sắt cưỡi rong về, xỏ mũi trâu đất đi lùi bước2.
1 Gái đá nhảy múa (thạch nữ khởi vũ): Là người gái khắc bằng đá nhảy múa. Người gỗ thổi kèn (suy địch mộc nhân), đều dụ cho phần diệu dụng thiên chân vô tác, xa lìa mọi hình thức phân biệt.
2 Ngựa sắt, trâu đất (thiết mã, nê ngưu): Ngựa làm bằng sắt, trâu nặn bằng đất, đều dụ cho cảnh giới giải thoát vô ý thức, xa lìa mọi phân biệt.
Chẳng lấy muôn pháp làm bạn, ai bảo một vật hãy còn. Phật cũng không, tâm cũng không; chân cũng được, giả cũng được. Ngoài cửa tam yếu, tha hồ thét hai làm ba; chữ thập đầu đường, mặc sức gọi mười làm chín. Sáo không lỗ tấu vô sinh khúc, đàn không dây gảy khoái hoạt ca1. Nơi nơi kia đều là tri âm, chốn chốn nọ há dung tai lắng. Chỉ một đường hướng thượng này, ngần ngại nói thế nào đây! Chà! Lửa ấy chưa từng đốt miệng! Nghe cho kỹ, nghe cho kỹ! Ví bằng nghe được lời ấy, ắt phải tai điếc ba ngày. Nếu nghe chẳng được, mau nên chạy qua. Còn ngần ngại gì!
Chốn chốn dương xanh kham buộc ngựa,
Nhà nhà có lối đến Trường An.
Trở về dưới nguyệt người thưa vắng,
Một ánh trăng soi đại địa hàn2 .
---o0o---
1 Sáo không lỗ (một khổng địch), đàn không dây (vô huyền cầm): Dụ cho thuyết pháp không lệ thuộc vào ngôn ngữ, lìa mọi tình thức.
2 Đại ý bài thơ nói: Người người đều có bản lai diện mục (Phật tính) nên người người đều có lối đến Trường An. Trở lại được có rất ít người. Nhưng một khi đã trở về được, thì một ánh trăng soi đại địa hàn, tức chứng ngộ được nhất chân thế giới.
LỜI1 VẤN ĐÁP TRONG MÔN NHÂN
Một ngày nọ vua (Trần Thái Tông) thăm chùa Chân Giáo. Vị tăng Đức Thành đời Tống hỏi: “Đức Thế Tôn chưa rời cung Đâu Suất đã giáng xuống Vương cung; chưa ra khỏi thai mẹ, đã độ người hoàn tất, đó là nghĩa thế nào?” - Vua đáp: “Ngàn sông có nước ngàn trăng chiếu, muôn dặm không mây muôn dặm trời”. Tăng hỏi: “Chưa rời cung, chưa ra đời, đã được chỉ bảo. Còn, đã lìa cung, đã ra đời, việc ấy như thế nào?” - Vua đáp: “Mây sinh đỉnh núi đều màu trắng, nước đến Tiêu, Tương2 một vẻ trong”. Tăng nói: “Mưa tạnh sắc núi rạng, mây quang trong động sáng”, vậy thế nào là ẩn hiện nhất như?” - Vua đáp: “Ngoại trừ con thật của nhà ta, ai dám hướng vào trong nơi đó”. Tăng nói: “Xưa nay không khác lối, người đạt cùng nẻo đường, Bệ hạ há bảo duy Thế Tôn đắc đạo ư?” - Vua nói: “Mưa xuân không cao thấp, cành hoa có ngắn dài”.
1 Lời: Dịch ở chữ “ngữ lục”. Ngữ lục: những lời nói thiết yếu của chư tổ tập hợp lại thành sách, nên gọi là ngữ lục.
2 Dòng nước sông Tiêu ở Trung Quốc rất trong và quá sâu, khi sông Tương và sông Tiêu hợp lại với nhau gọi là Tiêu Tương đều trở thành trong suốt.
Tăng hỏi: “Người người vốn tự người người đủ, kẻ kẻ nguyên lai kẻ kẻ tròn, tại sao Thế Tôn lại vào núi tu đạo?” - Vua nói: “Kiếm vì bất bình mở hộp báu, thuốc nhân trị bệnh rót khỏi bình”. Tăng nói: “Trong mắt đừng để bụi, trên thịt chớ khoét ung, còn phần người học đạo, có chỗ tu chứng chăng?”
- Vua nói: “Nước chảy xuôi non đâu có ý, mây tuôn qua núi vốn không tâm”. Tăng im lặng. - Vua nói: “Chớ bảo vô tâm nói là đạo, vô tâm còn cách một trùng quan”. - Tăng nói: “Tâm đã không, gọi cái gì làm trùng quan”. - Vua lại nói: “Nước chảy xuôi non đâu có ý, mây tuôn qua núi vốn không tâm”. Tăng không đáp.
---o0o---
NIÊM - TỤNG - KỆ1
(Dưới đây gồm 43 chương)
1 - Cử: Thế Tôn chưa rời Đâu Suất đã giáng Vương cung, chưa ra thai mẹ đã độ người xong.
Niêm:
Gươm giáo chưa vung,
Tướng quân đã lộ.
1 Niêm, tụng, kệ tức là Cử, niêm, tụng.
Tụng:
Sớm tối độ người vẻ rộn ràng;
Nhẹ gót thung dung không xen cách
Chẳng cần thuyền mảng với phù nang1.
***
1 Phù nang: Phao nổi, nhờ phao nổi này để qua sông, biển.
2 - Cử: Đức Thế Tôn lúc mới sinh, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất. Trên trời dưới đất, duy “Ngã” độc tôn.
Niệm:
Bao chim lại tổ lạc đường về.
Tụng:
Muốn hóa quần sinh phải hiển tung;
Bảy bước chỉ trời cùng chỉ đất,
Bao người con Phật mất gia phong.
***
3 - Cử: Thế Tôn nâng hoa ám chỉ, Ca Diếp nở mặt mỉm cười.
Niêm:
Nghĩ bàn tiến bước cách thiên san.
Tụng:
Ca Diếp sáng nay được tới nhà;
Nếu bảo đó là truyền pháp yếu,
Về nam xe bắc1 lối càng xa.
***
4 - Cử: Ngoại đạo hỏi Phật: “Chẳng hỏi có lời, chẳng hỏi không lời”.
Niêm:
Ai dám hướng vào trong nơi đó.
Tụng:
Ngôn ngữ nào vương ở chốn này;
Chẳng có trong đời nòi ngựa tốt,
Do đâu biết được tiện nghi này.
***
1 Về nam xe bắc (Bắc viên thích Việt): Quay càng xe về hướng bắc lại đi lùi lại hướng nam để đến đất Việt, phương hướng trái nhau nên càng đi càng xa.
2 Cửa lao: Lao quan, cửa trần lao bền chắc, dù có hiểu biết phân biệt tới đâu chăng nữa, cũng không thể lãnh hội được con đường hướng thượng.
5 - Cử: Thế Tôn bước lên toà pháp, Văn Thù đánh kiền chùy bạch chúng rằng: “Nghe kỹ pháp của Pháp vương. Pháp của Pháp vương như thế”.
Niêm: Đàn cầm không chỉ tấu dương xuân1,
Tụng:
Sừng giác nhưng đuôi vẫn hiện ra;
Sao tựa sáo kia không lỗ hổng,
Vì người trỗi khúc hát hòa ca.
***
6 - Cử: Vua nước Kế Tân tuốt gươm, bảo Tôn Giả tổ thứ 24 rằng: “Sư được uẩn không chăng”? Sư đáp: “Đã được”. Hỏi: “Lìa sinh tử chăng”? Đáp: “Đã lìa”. Hỏi: “Có thể cho ta cái đầu chăng”? Đáp: “Thân còn chẳng có, nữa là đầu ư”! Vua liền chém đầu, sữa trắng vọt ra, tay vua tự rơi.
1 Không chỉ tấu dương xuân: Không chỉ có nghĩa đàn không dây. Dương là mùa xuân, chế khúc hát cho đàn cầm gọi là khúc “Dương xuân”.
2 Tỳ hà: Vết xấu, lời nói sai lầm.
Niêm:
Tựa như chém làn gió xuân.
Tụng:
Lửa lùa ánh sáng chẳng hề chi;
Báo tin sớm ấy xa mây nước,
Biết được riêng ai tốt nghĩ suy.
***
7 - Cử: Đạt Ma đại sư đến chùa Thiếu Lâm, thành Lạc Dương, chín năm ngồi quay mặt vào vách.
Niêm:
Dương mắt nhìn,
Đừng ngồi ngủ.
Tụng:
Chim bằng vỗ cánh tới Nam Minh1,
Muôn dặm noi theo luống nhọc hình;
Đêm trước chỉ tham vui yến tiệc,
Sáng nay chẳng tỉnh lúc bình minh.
***
1 Nam Minh: tức Nam Hải.
8 - Cử: Đệ nhị tổ xin Đạt Ma an tâm. Đạt Ma bảo: “Đem tâm lại đây để an cho”. Thưa: “Con tìm tâm rồi mà không thể được”. Đạt Ma bảo: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi đó”.
Niêm:
Hài nhi ba tuổi chơi trống bỏi,
Cụ già tám chục mặc áo hoa.
Tụng:
Tâm đã không tâm hướng chỗ nào,
Người câm ngái ngủ nói chiêm bao;
Lão tăng lại nói an tâm được,
Cười ngất bàng quan1 tự biết sao.
***
9 - Cử: Văn Thù thấy người nữ ngồi nhập định gần Phật. Văn Thù xuất định không được, Phật sai Võng Minh2 xuất được.
Niêm:
Đứa con oan trái,
Mất gia phong ta.
1 Bàng quan: Người đứng bên cạnh nhìn, không có quan hệ với sự việc.
2 Võng Minh (Jatiniprabha): Tức Võng Minh Bồ tát, hoặc gọi là Võng Minh Đồng Tử Bồ tát, một trong 16 vị tôn giả đời Hiền kiếp, một trong năm vị tôn giả ở năm phương trong Kim cương giới Mạn trà la của Mật tông.
Tụng:
Đều cùng xuất định có sơ thân,
Định ấy xem ra chửa chính chân;
Nếu đấng hóa công không hậu bạc,
Luật về1 mặt đất khắp dương xuân.
***
10 - Cử: Mã Tổ nói: “Từ sau loạn Ngũ Hồ2 30 năm, chưa từng thiếu tương muối”.
Niêm:
Mặc dù chẳng phạm tơ hào,
Cũng là cầm bánh dính tay.
Tụng:
Thuở xưa từng bạn khách bê tha,
Quán rượu thường ngay cạnh nách nhà;
Ví dẫu khoe khoang người lanh lợi,
Giữa đường mất áo chịu thôi mà.
***
1 Luật về: Luật có nghĩa là trần thuật sự biến hóa về thời tiết của trời đất. Luật được chia ra Âm luật và Dương luật, sáu luật thuộc dương, sáu luật thuộc âm, hợp thành 12 luật để phối hợp với sự biến hóa về thời tiết của 12 tháng trong một năm, nên tháng xuân tới, gọi là dương xuân.
2 Loạn Ngũ Hồ: Dịch ở chữ “Hồ loạn”, còn có ý nghĩa là lờ mờ. Sách Hồ loạn bí thư chép: “Cái ngày loạn Ngũ Hồ, quân người Hán rút đi vội vàng không được hoàn bị”. Người nay cho những việc làm vội vàng cẩu thả, gọi là “Hồ loạn”. Ý Mã Tổ nói: Từ 30 năm nay ta nói ngược nói xuôi, nhưng chưa từng phạm lỗi lầm.
11 - Cử: Bách Trượng trở lại thăm Mã Tổ. Mã Tổ thét một tiếng. Bách Trượng đại ngộ.
Niêm:
Dẫu rằng ngàn mũi dùi nhọn,
Không kịp một nhát mai cùn.Tụng:
Trục xe, lối viết chửa hòa đồng1,
Bốn phía rối bời tựa lũ ong;
Mã Tổ một lần vung kiếm báu2,
Từ đây đường lối được truyền thông.
***
12 - Cử: Quốc sư3 một ngày ba lần gọi thị giả. Thị giả ba lần dạ. Sư nói: “Hầu bảo ta phụ4 ngươi, lại là ngươi phụ ta”.
1 Trục xe, lối viết chửa hòa đồng: Kích thước khuôn khổ của chiếc xe và lối viết trong sách vở chưa được thống nhất, ý nói thiên hạ chưa thống nhất.
2 Kiếm báu: Dịch từ chữ “Thái A kiếm”. Âu Dương Tử và Can Tương nước Ngô đục núi lấy sắt nung, đúc thành ba thanh bảo kiếm: Long Uyên, Thái A, Công Bố.
3 Quốc sư: Tức Nam Dương Tuệ Trung Quốc sư ( - 775), pháp tự Lục Tổ Huệ Năng, người phủ Thiệu Hưng, Việt Châu (tỉnh Chiết Giang), Trung Quốc, được phong tên hiệu “Đại Chứng thiền sư”.
4 Phụ: Cũng đọc là cô phụ, có nghĩa là trái ngược nhau.
Niêm:
Như người uống nước,
Tự biết nóng lạnh.
Tụng:
Thấp cao xướng họa xứng cùng hai,
Ý ấy nương đâu sánh vắn dài;
Gan ruột phơi bày cho đến hết,
Việc này duy chỉ tự lường thôi.
***
13 - Cử: Đại Quy1 nói: “Có câu không câu, như dây leo cây”. Sơ Sơn2 hỏi: “Cây đổ dây khô, câu về nơi nao?”. Đại Quy phá cười ha hả.
Niêm:
Nước chảy xuôi ra biển,
Trăng lặn gắn với trời.
Tụng:
Gió táp yên rồi im sóng vỗ,
Hướng ngoài nhọc xác uổng công phu;
Khối ngờ cười vỡ tan trăm mảnh,
Ngọc đá từ đây rõ dị thù.
***
1 Đại Quy: Tức Đại Quy An hòa thượng. Quy thượng đường viết: “Hữu cú vô cú, như đằng ỷ phụ”.
2 Sơ Sơn: Tức Sơ Sơn Bố Đan thiền sư, pháp tự Động Sơn Lương Giới thiền sư.
14 - Cử: Bách Trượng1 nói: “Như thế nào là chẳng vì người nói pháp thâm sâu?”. Nam Tuyền2 đáp: “Chẳng là tâm, chẳng là Phật, chẳng là vật”.
Niêm:
Ngàn thánh tìm dấu chúng chẳng được,
Toàn thân ẩn ở đại hư không.
Tụng:
Trước đài công án chẳng thiên vì,
Đối diện xem xem hiểu được chi;
Phật pháp ngôi nào đều chẳng trụ,
Hoa lan như cũ ngủ đêm về.
***
15 - Cử: Nam Tuyền nói: “Tâm chẳng là Phật, trí chẳng là Đạo”.
Niêm:
Uống cạn lẽ huyền vi,
Đường về trăng chiếu sáng.
1 Bách Trượng: Tức Bách Trượng Hoài Hải (720 - 814), người huyện Trường Lạc, Phúc Châu, Trung Quốc, pháp tự của Mã Tổ Đạo Nhất, được ban tên hiệu “Đại Trí thiền sư”.
2 Nam Tuyền: Tức Nam Tuyền Phổ Nguyện (748 - 834), người huyện Tân Hương, Trịnh Châu, Trung Quốc, pháp tự của Mã Tổ Đạo Nhất phái Nam Nhạc.
Tụng:
Muôn tiếng lắng chìm sao Đẩu chuyển1,
Áng mây chẳng gợn khắp bầu trời;
Gậy lê luống tựa trên lầu ngắm,
Đêm vắng im lìm lặng lẽ trôi.
***
16 - Cử: Sau khi Lâm Tế2 ra đời, chỉ lấy gậy và tiếng thét để khai thị đồ chúng. Hễ thấy tăng mới nhập môn liền “thét”.
Niêm:
Giờ Ngọ ngày 5 tháng 5 viết,
Miệng đỏ lưỡi độc hết tiêu trừ.
Tụng:
Nhập môn liền thét để đề tê,
Muốn dẫn cháu con tỉnh giấc mê;
Chẳng có sấm xuân vang một tiếng,
Cỏ cây sao nảy khắp muôn bề.
***
1 Muôn tiếng lắng chìm sao Đẩu chuyển: Dịch câu “Vạn lại thanh trầm Đẩu bính di”. Vạn lại nghĩa là muôn tiếng vang động. Đẩu bính di nghĩa là khi sao Bắc Đẩu chỉ về góc đông nam thì vạn vật nhất tề thanh khiết.
2 Lâm Tế: Tức Lâm Tế Nghĩa Huyền ( - 867), pháp tự tổ Hoàng Nghiệt Hy Vận, khai sáng Lâm Tế tông.
17 - Cử: Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo”.
Niêm:
Lạnh nói rằng lạnh,
Nóng nói rằng nóng.
Tụng:
Ngọc trắng nào vương rìu búa đẽo,
Hoài công nạo gọt để cầu tân;
Quê hương đến được đâu cần lối,
Vách đá buông tay chẳng ngại ngần.
***
18 - Cử: Triệu Châu1 nói: “Mọi người bị 12 thời2 sai khiến, lão tăng sai khiến được 12 thời.
Niêm:
Cậy thế lừa dối người,
Thật không nơi căn cứ.
Tụng:
Lão tăng với cả mười hai thần,
Mãnh hổ ác long khiến chúng thuần;
Sắt luyện thành vàng ai muốn biết,
Chẳng nghe việc ấy ở nhân gian.
***
1 Triệu Châu: Tức Triệu Châu Tòng Thẩm (778 - 897), người Tào Châu, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc, pháp tự của Nam Tuyền Phổ Nguyện, thọ 120 tuổi, được ban pháp hiệu “Chân Tế đại sư”.
2 12 thời: Tức 12 chi Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
19 - Cử: Tăng hỏi Lâm Tế: “Thế nào là vô vị chân nhân”? Lâm Tế đáp: “Que gạt phân”.
Niêm:
Bắn chim mất hạt châu,
Bẫy chuột nhơ đồ vật.
Tụng:
Vô vị chân nhân que gạt phân,
Chỉ người con Phật mất bản chân;
Con đường hướng hạ xem cho đặng,
Vào biển trâu bùn mất dấu chân.
***
20 - Cử: Triệu Châu nói: “Đã khám phá ra bà lão ở núi Ngũ Đài”.
Niêm:
Kẻ ác nghe sấm động,
Chẳng dung kịp bịt tai.
Tụng:
Chỗ đến Ngũ Đài đâu chính xác,
Không cần tiến bước được về nhà;
Can qua chẳng động lòng người phục,
Hộp báu cần chi tuốt Thái A.
***
21 - Cử: Triệu Châu nói: “Phật vàng chẳng qua lò, Phật gỗ chẳng qua lửa, Phật đất chẳng qua nước. Chân Phật ngồi trong nhà”.
Niêm:
Núi là núi, nước là nước.
Phật ở nơi chốn nào?
Tụng:
Võng Xuyên đồ1 ấy xếp thành hình,
Ngày trước Vương Duy vẽ nổi danh;
Uổng phí nét son nơi khó tả,
Trong không trăng sáng với phong thanh.
***
1 Võng Xuyên đồ: Bức vẽ phong cảnh Võng Xuyên ở huyện Lam Điền tỉnh Thiểm Tây, do Vương Duy đời Đường vẽ. Vương Duy là nhà vẽ nổi tiếng về sơn thủy mây đá. Vì Vương Duy có một biệt trang ở bên sông Võng, nên ông thường theo phong cảnh của Võng Xuyên mà vẽ, nét vẽ rất độc đáo.
22 - Cử: Triệu Châu nói: “Ta ở Thanh Châu may một chiếc áo vải nặng bảy cân”.
Niêm:
Củ cải Trấn Châu còn khả dĩ,
Áo vải Thanh Châu lại rầu người.
Tụng:
Áo vải một manh thật khác thường,
Triệu Châu chẳng cất giấu trong rương;
So đo trong ấy chia thù lượng,
Cười vỡ nhà bên Mạnh bát lang1.
***
23 - Cử: Tăng hỏi Triệu Châu: “Con chó có Phật tính không”? Triệu Châu đáp: “Không”. Lại hỏi, Châu đáp: “Có”.
Niêm:
Nửa cân tám lạng,
Tám lạng nửa cân.
Tụng:
Hỏi đáp nhịp nhàng giữa hữu vô,
Dưới lời nói ấy diệt hàm hồ;
Một đời tự phụ trang hào kiệt,
Thế cũng vẫn là chẳng trượng phu.
***
1 Mạnh bát lang: Ý nghĩa không xác thực, không biết phép khinh trọng, lẽ sinh tử; để ám chỉ người u mê gọi là Mạnh bát lang.
24 - Cử: Triệu Châu nói: “Nơi có Phật chẳng dừng lại, nơi không Phật gấp chạy qua”.Niêm:
Nước đến thành ngòi,
Gậy lăn hiện vết.
Tụng:
Có không chốn Phật xứ đều quên,
Lời ấy xem ra vẫn chửa tuyền;
Tựa thế sau này hoa nhắc “cử”,
Không rời tấc bước tới Tây Thiên.
***
25 - Cử: Thủ Sơn1 giơ cây trúc bề (thước tre) nói: “Nếu cái này gọi là trúc bề tức “xúc” (khẳng định), chẳng gọi là trúc bề tức “bội” (phủ định). Vậy gọi là gì?”.
1 Thủ Sơn: Tức Thủ Sơn Tỉnh Niệm (926 - 993) người đất Lai Châu, Trung Quốc, pháp tự của Phong Huyệt Diên Chiểu thiền sư, Lâm Tế tông.
Niêm:
Chớ có động tới,
Động tới ba mươi gậy.
Tụng:
Trúc bề phải trái khó phân rành,
Lập tức nâng lên chỉ chúng nhân;
Dẫu chẳng bụi mờ đường phẳng lặng,
Một trường gai góc khó hoàn thành.
***
26 - Cử: Tăng hỏi Động Sơn1: “Thế nào là Phật”? Động Sơn đáp: “Ba cân gai trên vách”.
Niêm:
Gọi một vật lại chẳng đúng.
Tụng:
Hỏi Phật là sao cần biết rõ,
Động Sơn chỉ vách mấy cân gai;
Dẫu rằng gió bụi không can thiệp,
Cũng vẫn còn vương cảnh chỉ người.
***
1 Động Sơn: Tức Động Sơn Thủ Sơ, hiệu là Sùng Tuệ đại sư, pháp tự của Vân Môn Văn Yển, kiến lập pháp tràng ở Động Sơn thuộc Tương Châu.
27 - Cử: Tăng hỏi Hiện Tử hòa thượng1 về ý “Tây lai”. Hiện Tử đáp: “Mâm rượu trước bàn thờ thần”.
Niêm:
Nếu chẳng phải nòi giống sư tử,
Tránh sao khỏi vờn khối đất lăn.
Tụng:
Chặt đứt cội nguồn chẳng chốn nương,
Bảo người trước mắt phải am tường;
Rượu thần nếu bảo là cơ tổ,
Gọi khố làm quần thật đáng thương.
***
28 - Cử: Vô Nghiệp quốc sư2 nói: “Nếu một mảy may ý niệm phàm thánh chưa hết, chưa tránh
1 Hiện Tử hòa thượng: Hòa thượng chỉ mặc một chiếc áo vào mùa đông và hạ; thường ngày đi bắt trai, hến ở bờ sông, biển để sinh sống, nên người đời gọi là Hiện Tử hòa thượng. Theo Ngũ đăng hội nguyên chép: “Hiện Tử hòa thượng, người phủ Kinh Triệu, chẳng rõ là người gì, sư tích rất lạ lùng, chỗ ở không nhất định, mùa đông cũng như mùa hạ, chỉ mặc một manh áo, hằng ngày men theo bờ sông bắt trai, hến để ăn, nên cư dân gọi là Hiện Tử hòa thượng”.
2 Vô Nghiệp quốc sư: Tức Vô Nghiệp thiền sư, pháp tự của Mã Tổ Đạo Nhất. Trong Vô Nghiệp quốc sư quảng lục, ngài Vô Nghiệp chỉ nói: “Mạc vọng tưởng”.
khỏi vào bụng ngựa thai lừa”. Bạch Vân Đoan hòa thượng1 nói: “Ví khiến một mảy may ý niệm phàm thánh đã hết, cũng chưa tránh khỏi vào bụng ngựa thai lừa”.
Niêm:
Đốt núi nên hổ lánh.
Phạt cỏ để rắn kinh.
Tụng:
Lời ấy xem ra chí chẳng minh,
Bỗng dưng phạt cỏ để xà kinh;
Người quen lối đến Trường An nọ,
Chỉ cái vung tay vượt lộ trình.
***
29 - Cử: Huyền Sa2 bảo chúng rằng: “Các bậc lão túc khắp nơi, đều nói tiếp vật độ sinh, chợt gặp ba thứ người bệnh lại, phải tiếp họ như thế nào? Gặp người bệnh mù, nếu giơ chùy dựng phất, họ lại chẳng thấy. Gặp người bệnh điếc, nếu nói Tam muội, họ lại chẳng nghe. Gặp người bệnh câm, nếu dạy nói, họ nói chẳng được”.
1 Bạch Vân Đoan hòa thượng: Tức Bạch Vân Thủ Đoan thiền sư, người Thư Châu, pháp tự của Dương Kỳ Hội.
2 Huyền Sa: Tức Huyền Sa Sư Bị (831 - 908) người Mân Huyện, Phúc Châu, Trung Quốc, thuộc phái Thanh Nguyên.
Niêm:
Khát uống đói ăn,
Rét áo nóng quạt.
Tụng:
Khi buồn ủ rũ thích tươi cười,
Mũi thẳng mày ngang dễ thấy thôi;
Đói khát lạnh nồng theo sở thích,
Sao sinh khác biệt dạ bồi hồi.
***
30 - Cử: Thụy Nham thường gọi chủ nhân ông: “Tỉnh tỉnh đi. Từ đây về sau chớ bị người lừa dối”.
Niêm:
Kêu cho đứt ruột đều vô dụng,
Chi bằng im miệng đợi tàn xuân.
Tụng:
Thụy Nham1 thường gọi chủ nhân ông,
Anh lược cơ chìm vẫn chửa hùng;
Nếu bảo thế gian không địch tướng,
Sao ngày chiến thuật lại hưng long.
***
1 Thụy Nham: Tức Thụy Nham Sư Ngạn, người Mân Huyện, Trung Quốc, thuộc Thanh Nguyên, sau khi tịch được ban tên hèm là “Không Chiếu thiền sư”.
31 - Cử: Tam Thánh1 nói: “Ta gặp người liền ra đời, ra thời chẳng vì người”. Hưng Hóa2 nói: “Ta gặp người thời chẳng ra đời, ra đời thời liền vì người”.
Niêm:
Một con rùa mù mắt,
Nửa cặp ba ba què.
Tụng:
Khát nước tức thời phải uống ngay,
Nói ăn trọn bữa ruột sao đầy;
Đôi bên bén nhọn đừng niêm kín,
Đứt miệng trẻ con ắt có ngày.
***
32 - Cử: Nam Tuyền3 thấy Đặng Ẩn Phong4 tới, chỉ cái tịnh bình nói: “Tịnh bình là cảnh, ngươi chẳng được đụng tới cảnh”.
1 Tam Thánh: Tức Tam Thánh Tuệ Nhiên thiền sư ở viện Tam Thánh, thuộc Trấn Châu, pháp tự của Lâm Tế Nghĩa Huyền thiền sư.
2 Hưng Hóa: Tức Hưng Hóa Tồn Tưởng thiền sư, người đời Đường, thuộc Lâm Tế tông, sau được ban tên hèm là “Quảng Tế thiền sư”.
3 Nam Tuyền: Tức Nam Tuyền Phổ Nguyện (748 - 834), người Trịnh Châu, Trung Quốc, pháp tự của Mã Tổ Đạo Nhất, thuộc phái Nam Nhạc.
4 Đặng Ẩn Phong: Tức Ngũ Đài Ẩn Phong thiền sư, cũng tham thiền nơi Mã Tổ Đạo Nhất, thuộc hệ phái Nam Nhạc.
Niêm:
Nói có hướng chốn nào đụng?
Tụng:
Trong gương không bụi tự lau chùi,
Luống phí công phu uổng sức thôi;
Lặng lẽ nghỉ ngơi tùy chỗ thích,
Chén trà sau lúc bữa cơm rồi.
***
33 - Cử: Thạch Đầu1 nói: “Như thế cũng chẳng được, chẳng như thế cũng chẳng được. Như thế, chẳng như thế đều chẳng được”.
Niêm:
Mọi hiện tượng đều vô thường,
Hết thảy đều là khổ cả.
Tụng:
Chuyện này tương tự nói cùng ngươi,
Cửa núi mây ngang chốc lát thôi;
Cho dẫu mười phần nay cử được,
Hành trình muôn dặm nửa đường thôi.
***
1 Thạch Đầu: Tức là Thạch Đầu Hy Thiên (700 - 790), người Cao Yêu, Đoan Châu, Trung Quốc, pháp tự của Thanh Nguyên Hành Tư, được ban tên hèm là “Vô Tế đại sư”.
34 - Cử: Tăng hỏi: “Thế nào là cảnh của Giáp Sơn1”? Giáp Sơn đáp: “Vượn ẵm con về sau núi biếc, chim tha hoa rụng trước non xanh”.
Niêm:
Cây gậy đem theo mình,
Gặp đâu làm trò đấy.
Tụng:
Núi Giáp cheo leo người vắng bóng,
Xem ra cảnh ấy tuyệt hồng trần;
Tròn đầy mắt tuệ là ai đó,
Giữa Ngọ canh ba trống cứ ngân.
***
35 - Cử: Tăng hỏi Mục Châu2: “Thiền sư một hơi có thể chuyển một Đại Tạng Kinh chăng”? Mục Châu đáp: “Có bánh bao mau mang lại đây”.
Niêm:
Vung tay tới nhà,
Chẳng nhọc cất bước.
1 Giáp Sơn: Tức Giáp Sơn Thiện Hội ( - 884), người Quảng Châu, Trung Quốc, pháp tự của Thuyền Tử Đức Thành, sau kiến thiết thiền viện ở núi Giáp Sơn, được ban tên hèm là “Truyền Minh đại sư”, thuộc hệ phái Thanh Nguyên.
2 Mục Châu: Mục Châu Trần Tôn Túc, húy là Đạo Minh, con họ Trần ở Giang Nam, pháp tự của Hoàng Nghiệt Hy Vận thiền sư, thuộc về phái Nam Nhạc.
Tụng:
Một hơi chuyển được cả tàng kinh,
Hái lá tìm cành chẳng nhọc mình;
Diệu nghĩa vô biên đều hiển hiện,
Sơn tăng chẳng biết đáp sao rành.
***
36 - Cử: Trong hội Lâm Tế1, thủ tọa của hai đường (Đông đường, Tây đường) đều cất tiếng thét. Vị tăng hỏi: “Lại có khách, chủ hay không”? Lâm Tế đáp: “Khách, chủ rõ ràng”.
Niêm:
Cũng là loài vượn nói lăng xăng.
Tụng:
Giữa trời thánh chúa thổi thuần phong,
Văn phạm bản đồ mát mẻ chung;
Cương giới phân chia thành bờ cõi,
Công lao tế thế thiếu viên dung.
***
1 Lâm Tế: Tức Lâm Tế Nghĩa Huyền ( - 867), người Nam Hoa, Tào Châu, Trung Quốc, pháp tự của Hoàng Nghiệt Hy Vận. Khai sáng Lâm Tế tông, được ban tên hiệu “Tuệ Chiếu đại sư”.
37 - Cử: Huyền Sa1 nói: “Nếu bàn là Sự. Ví như chủ một mảnh ruộng đất, trong phạm vi giới hạn đem bán cho mọi người rồi. Chỉ có hạt cây nơi trung tâm, còn thuộc về lão tăng”.
Niêm:
Biển cả chẳng dung thây chết.
Tụng:
Dẫu kẻ rõ ràng người liễu ngộ,
Nơi tâm trút hết nỗi phân vân;
Ty hào trong ấy còn vương mắc,
Vào mắt vàng kia vẫn bụi trần.
***
38 - Cử: Tăng hỏi Tư hòa thượng2 về đại ý Phật pháp. Hòa thượng đáp: “Giá gạo ở Lư Lăng ra sao”?
Niêm:
Bóng trúc quét thềm trần chẳng động,
Vầng trăng xuyên biển nước không ngân.
1 Huyền Sa: Tức Huyền Sa Sư Bị thiền sư, thuộc phái Thanh Nguyên.
2 Tư hòa thượng: Tức Thanh Nguyên Hành Tư hòa thượng ( - 740), người An Thành, Cát Châu, Trung Quốc, pháp tự của Lục Tổ Huệ Năng, vì trụ trì chùa Tĩnh Cư ở núi Thanh Nguyên thuộc Cát Châu, nên có tên là Thanh Nguyên, được vua ban tên hiệu là “Hoằng Tế thiền sư”.
Tụng:
Lời này quả thật bậc thông minh,
Thâu hết căn cơ tiếp hữu tình;
Hỏi chuyện Lư Lăng về giá gạo,
Hoàn toàn chẳng bén tới đồ trình.
***
39 - Cử: Tăng hỏi Văn Thù1: “Vạn pháp trở về một, một đi về đâu”? Văn Thù đáp: “Sông Hoàng Hà chín khúc”2.
Niêm:
Nhân lúc có trăng đẹp,
Thình lình qua Thương Châu.
Tụng:
Hoàng Hà chín khúc đáp sâu xa,
Chẳng thiệp đường dài tự tới nhà;
Mở mắt ban ngày bao kẻ ngóng,
Nào hay chim trĩ vượt Tân La3.
***
1 Văn Thù: Có thể là Văn Thù Tuyên Năng phái Hoàng Long, hoặc Văn Thù Tâm Đạo phái Dương Kỳ, chưa biết rõ.
2 Hoàng Hà chín khúc: Sông Hoàng Hà, con sông lớn thứ hai ở Trung Quốc, dài hơn 8.000 dặm, cứ mỗi ngàn dặm là một khúc, nên gọi là Hoàng Hà chín khúc.
3 Chim trĩ vượt Tân La: Chim trĩ đã bay xa, ý nói đã chậm mất rồi.
40 - Cử: Nam Tuyền hỏi Triệu Châu: “Ngươi1 là Sa di có chủ, hay Sa di không chủ”? Triệu Châu đáp: “Có chủ”. Nam Tuyền hỏi: “Thế nào là có chủ”? Triệu Châu khoanh tay đáp: “Ngay lúc này đây, cung kính sức khỏe thầy luôn luôn vạn phúc”.
Niêm:
Khoanh tay hoạt chùy chẳng đổi gươm,
Người khéo sử dụng tiện muôn phương.
Tụng:
Khoanh tay Tòng Thẩm (Triệu Châu) trả lời người,
Chủ khách đôi bên vẹn cả mười;
Có được Hoa Lam Hàn lệnh thuật2,
Thuân tuần3 rượu nấu dễ như chơi.
***
1 Ngươi: Dịch ở chữ “nhữ”, trong sách nguyên bản chữ Hán đã khắc lầm chữ “nhữ” thành chữ “pháp”, nay đính chính lại cho đúng nghĩa.
2 Hàn lệnh thuật: Thuật nấu rượu của Hàn Tương Dũ ở Hoa Lam.
3 Thuân tuần: Tương truyền, Hàn Tương Dũ có đạo thuật, hay nấu rượu được chỉ trong khoảnh khắc, nên gọi là rượu Thuân tuần. Thuân tuần có nghĩa chỉ trong giây phút. Theo Thái Bình quảng ký.
41- Cử: Tăng hỏi Mộc Am1: “Thế nào là công việc của một nạp y (tăng sĩ)”. Mộc Am đáp: “Kim đâm chẳng vào”.
Niêm:
Ngồi tĩnh dứt bụi trần,
Hư không chẳng lối thông.
Tụng:
Cầm thời mịn mượt ấn thời mềm,
Trán sắt đầu đồng đụng chẳng xuyên;
Dẫu thật hư không, không kẽ hở;
Đêm về hoa quế giấc thu yên.
***
42 - Cử: Bàng cư sĩ2 nói: “Đây là trường tuyển Phật, tâm không đỗ trở về”.
1 Mộc Am: Tức Mộc Am Tính Thao (1611 - 1684), người đất Tân Giang, Tuyền Châu, Trung Quốc, một thiền sư trứ danh thuộc Hoàng Nghiệt tông. Tác giả của Đông Sơn ngữ lục 10 quyển và Tượng Sơn ngữ lục 1 quyển.
2 Bàng cư sĩ: Bàng cư sĩ, người đời Đường, Trung Quốc. Họ Bàng, tên là Uẩn, tên chữ là Đạo Huyền, đời đời theo Nho giáo. Tham thiền ở ngài Thạch Đầu Hy Vận, giao thiệp với ngài Đơn Hà Thiên Nhiên, pháp tự của Mã Tổ Đạo Nhất. Đời gọi là Duy Ma của Chấn Đán. Trưởng nữ của ông là Linh Chiếu cũng tỏ ngộ về thiền.
Niêm:
Tên đề tháp nhạn1,
Chẳng dung giấy trắng2.
Tụng:
Áo may trăm mảnh đạp giày rơm,
Tuyển Phật trường thi bảng có tên;
Nếu bảo tâm không về ứng cử,
Roi đòn chẳng gặp cũng thoi quyền.
***
43 - Cử: Từ Minh3 hỏi Chân Điểm Hung4 về đại ý Phật pháp. Điểm Hung đáp: “Không mây sinh đỉnh núi, có trăng lặn lòng sông”. Minh thét và nói: “Đầu bạc răng vàng, còn sinh kiến giải như thế”. Chân Điểm Hung rơi lệ lúc lâu rồi thưa:
1 Tên đề tháp nhạn: Chữ Hán là “nhạn tháp đề danh” để gọi người đã đậu Tiến sĩ. Trong đời Đường, người đậu Tiến sĩ đều được ghi tên vào gia ở dưới tháp nhạn chùa Từ Ân thuộc huyện Trường An tỉnh Thiểm Tây.
2 Giấy trắng: Dịch ở chữ “duệ bạch”. Khi thi chỉ cầm bút trên giấy mà trầm ngâm suy nghĩ không viết được một chữ, đến giờ nộp bài phải nộp giấy trắng, nên gọi là duệ bạch.
3 Từ Minh: Tức Thạch Sương Sở Viên (987 - 1040) người Toàn Châu, Trung Quốc, pháp tự của Phần Dương Thiện Chiêu, Lâm Tế tông. Thọ 54 tuổi, được phong tên hiệu là “Từ Minh thiền sư”.
4 Chân Điểm Hung: Chân Điểm Hung thiền sư, pháp tự của Thạch Sương Sở Viên thiền sư, còn có tên riêng là “Thúy Nham Khả Chân thiền sư”.
“Chẳng biết như thế nào là đại ý Phật pháp”. Minh nói: “Không mây sinh đỉnh núi, có trăng lặn lòng sông”. Chân đại ngộ.
Niêm:
Người nhân thấy đó bảo đấy là nhân,
Người trí thấy đó bảo đấy là trí.
Tụng:
Kia đây cùng gảy một cung đàn,
Trao phó tri âm biết điệu vang;
Có nguyệt không mây tuy cũng thế,
Núi sông cao thấp lại đôi đàng.
Ủa! Trọn ngày theo hồng trần,
Chẳng biết báu nhà mình.
Ôi! Vung tay không vướng toàn thể hiện,
Lão chài thuyền nhỏ đậu hoa lau.
Hết quyển thượng