Tôi xuất thân trong một gia đình có dòng máu nổi loạn có truyền thống lâu đời ở vùng New England. Đó là một gia đình vừa bị nguyền rủa lại vừa được chúc phúc (theo cách nào đấy) bởi gia đình tôi có một đặc điểm mà tôi gọi là "bộ ba đặc tính của những người da trắng theo đạo Tin Lành": nghiện rượu, bệnh tâm thần và tính khiêm nhường. Cha mẹ, ông bà và các bậc tổ tiên, những người đã xây dựng nên gia phả gia đình tôi đều ít nhiều mang trong mình bộ ba đặc tính ấy.
Người mẹ thân yêu dịu dàng nhưng lại mắc chứng nghiện rượu của tôi đã ly hôn đến hai lần. Cha tôi đã phải nhập viện nhiều lần vì chứng loạn thần kinh. Cha dượng tôi là một kẻ nghiện rượu và tàn bạo. Và hậu quả từ tất cả những vấn đề trên cộng lại là tôi có hai khuyết tật về trí não: khả năng đọc và khả năng tập trung của tôi bị hạn chế.
Bởi vì mọi người ở nhà không thể trông nom tôi nên năm lên mười tuổi tôi bị gửi đi học ở trường nội trú, lúc đó tôi học lớp năm. Thời niên thiếu của tôi chủ yếu trải qua tại đó.
Như các bạn có thể thấy, gia đình tôi không hội tụ đủ những điều kiện để được xếp vào danh sách những gia đình hạnh phúc. Họ nhà Hallowell chúng tôi đã cố gắng sống lạc quan, nhưng phía sau những nỗ lực ấy lại ẩn giấu nhiều chông chênh, bất trắc.
Vào năm học lớp mười hay mười một, bất cứ khi nào suy nghĩ một cách thực tế về tương lai, tôi thường nhận ra rằng mình sẽ chẳng thể nào trở thành người hạnh phúc được. Tôi hy vọng mình sẽ tìm được hạnh phúc, nhưng tôi lại không nghĩ rằng nó được dành sẵn cho tôi trong những lá bài số phận, hay nói chính xác hơn là trong mã gen di truyền.
Tôi đã quyết định con đường duy nhất của tôi là phải thực hiện thật tốt nghĩa vụ của mình, không gây ra rắc rối để tránh tạo nên gánh nặng cho người khác. Tôi cố gắng tìm cách dung hòa thế giới nội tâm chất chứa bao u sầu của mình với thế giới rộng lớn ngoài kia – một thế giới với biết bao điều kỳ bí mà trí óc non nớt của tôi khi ấy chưa thể hiểu hết được.
Tôi vẫn còn nhớ cảm giác khi nằm dài trên giường ở trường nội trú, nhìn chằm chằm lên trần nhà và tự hỏi: Liệu tôi có được hạnh phúc hay không? Có nhiều khả năng câu trả lời là Không.
Giờ đây, sau khoảng ba mươi lăm năm, ở độ tuổi năm mươi, tôi đã có thể trả lời được câu hỏi đó. Thật đáng ngạc nhiên là tôi đã có thể tìm cho bản thân một cuộc sống tốt. (Sẽ tuyệt vời thế nào nếu tôi của hiện tại có thể quay ngược về quá khứ và thỏ thẻ vào tai của tôi lúc mười lăm tuổi rằng: "Đừng lo lắng, mọi thứ sẽ tốt đẹp cả thôi"? Nhưng tôi biết rằng điều đó là trái với quy luật của cuộc sống.) Tuy nhiên, về cơ bản, giờ đây tôi là một người hạnh phúc, hạnh phúc hơn rất nhiều so với lúc tôi nằm dài trên giường ở trường nội trú mà chán chường suy ngẫm về số phận của mình, và hạnh phúc hơn bội phần so với những gì mà người ta có thể dự đoán về tương lai tôi dựa vào những đặc điểm mang tính di truyền và những trải nghiệm trong thời thơ ấu của tôi.
Từ góc độ thống kê xã hội học thì những đứa trẻ từng bị ngược đãi như tôi thường trở thành người xấu. Chúng sẽ vào tù ra khám, hoặc phải vào viện tâm thần, rượu chè be bét, hoặc rơi vào cảnh khốn khổ triền miên.
Vậy điều gì đã cứu vớt tôi? Tôi sẽ trả lời câu hỏi ấy ngay sau đây.
Cuộc hôn nhân thứ hai của mẹ tôi đã đẩy tôi vào những năm tháng kinh hoàng nhất của đời mình, khoảng thời gian mà có lẽ tôi đã chẳng thể nào hồi phục được nếu không nhờ có sự giúp đỡ của người ngoài.
Cha mẹ tôi ly hôn khi tôi lên bốn. Không lâu sau đó, mẹ tôi yêu một người đàn ông lớn tuổi hơn có tên là Noble Cathcart. Ông Noble cũng sống ở Chatham – một thị trấn nhỏ thuộc Cape Cod. Ông vốn có gốc gác từ miền Nam nhưng đã sống ở Chatham khá lâu. Ở phần sau tôi sẽ giới thiệu cụ thể hơn về thị trấn này.
Lần đầu tiên gặp ông là khi tôi đang sống rất hạnh phúc với mẹ và các anh chị họ của tôi: Lyn và Jamie, cùng với người dì mà tôi hay gọi là Duckie và dượng Jim. Cha mẹ tôi đã ly hôn, và tôi đã chấp nhận sự thật đó không chút ồn ào. Tôi yêu bố tôi, nhưng việc mẹ hẹn hò với ông Cathcart cũng chẳng khiến tôi khó chịu gì. Sự thật là tôi thích ông Cathcart vô cùng. Tôi bắt đầu gọi ông là dượng Noble và thường mong cho mau tới khi được cùng mẹ đến thăm ông. Tôi vẫn còn nhớ một lần nọ mẹ dỗ ngọt tôi đến nha sĩ để trám răng bằng phần thưởng là một chuyến đến thăm ông Cathcart ngay sau khi đi nha sĩ.
Một ngày nọ, mẹ hỏi tôi rằng liệu tôi cảm thấy thế nào nếu mẹ kết hôn với dượng Noble. Lúc đó tôi bảy tuổi, đang học lớp hai ở trường công lập ở Chatham. Bà còn nói với tôi rằng nếu bà kết hôn với ông ấy thì chúng tôi sẽ chuyển đến Charleston, South Carolina. Dẫu tôi rất thích dượng Noble, nhưng ý nghĩ phải rời bỏ Chatham, lìa xa Jamie và Lyn khiến tôi rất đau lòng. Vì thế, tôi đã nói với mẹ là tôi phản đối bà kết hôn cùng người đàn ông ấy, trừ phi tôi có thể ở lại Chatham.
Nhưng dượng Noble đã thắng. Mẹ đã kết hôn với ông ấy và cả ba chúng tôi cùng chuyển đi Charleston. Thế rồi bộ mặt thật của dượng Noble bắt đầu lộ ra. Mỗi ngày đi học về, tôi thường thấy ông say bí tỉ. Trường tan vào độ hai giờ chiều và khi tôi đạp xe về đến nhà thì là khoảng hai giờ rưỡi. Theo nếp sinh hoạt ở Charleston thì vào tầm đó tất cả chúng tôi sẽ cùng ngồi vào bàn để ăn "bữa tối" – bữa ăn chính trong ngày, thường diễn ra vào khoảng ba giờ chiều.
Vào những bữa ăn ấy, dượng Noble và tôi sẽ tiến hành những cuộc chiến tranh.
Tình cảm tốt đẹp tôi từng có với cha dượng trước đó không còn nữa và tôi chuyển sang căm ghét ông, không chỉ bởi vì ông đã khiến tôi phải rời bỏ Chatham, lìa xa các anh chị họ thân yêu, cùng dì và dượng của tôi, mà còn bởi vì ông đã ngược đãi mẹ tôi. Dượng Noble và mẹ tôi thường chơi một trò chơi trẻ con có tên gọi là "hòn đá – tờ giấy – cái kéo". Đây là trò chơi hoàn toàn lành mạnh mà bọn trẻ con vẫn thường chơi, nhưng qua tay dượng Noble thì nó lại trở thành một trò xấu xa. Có một luật trong trò chơi là bạn có thể tát đối thủ bằng hai ngón tay (hình dạng hai ngón tay trông giống như cái kéo). Thế nhưng dượng Noble lại biến những cái tát bằng hai ngón tay thành những cú đánh trời giáng để lại những vết thâm tím trên người mẹ tôi suốt vài ngày mới hết. Ông ép mẹ tôi phải chơi trò đó suốt. Tôi khiếp sợ khi nhìn thấy niềm hân hoan trong ánh mắt ông mỗi lần đến lượt ông tát mẹ tôi. Tôi chẳng thể hiểu nổi vì sao mẹ lại không rời bỏ ông ta ngay lúc ấy.
Một lần nọ, lúc đó tôi khoảng tám tuổi, tôi gạt chân ông té khi ông đánh mẹ tôi vì bà đã châm thuốc cho ông hút theo cách mà ông cho là không đúng. Chẳng thèm để tâm đến tôi, ông tiếp tục ôm lấy chai martini của mình và đá tôi đi chỗ khác, nhưng ít ra thì ông cũng đã để cho mẹ tôi yên. Một đêm khác, khi tôi bước vào phòng khách, tôi thấy mẹ đang cố tự vệ khi ông ấy tiến về phía bà với thanh cời than. Khi thấy tôi, ông ném thanh cời trở lại vào chỗ để những dụng cụ dùng cho lò sưởi và nói: "Biến đi. Nếu mày không thích phải chứng kiến cảnh này thì tại sao mày không… biến đi!".
Không lâu sau thì tôi thật sự muốn làm liều mà biến đi. Mẹ tôi đã bắt đầu cùng uống rượu với dượng Noble, vì thế mà cả hai người đều không thể làm những điều mà các bậc cha mẹ cần làm đối với con cái, chẳng hạn như: làm bài tập cùng con, tham gia các trò chơi, đi câu cá, hoặc chơi bóng. Cuộc đời tôi trở nên xoay quanh những việc: đi học, chiến đấu với dượng Noble, xem tivi một mình, rồi đi ngủ.
Điều làm cho việc ra đi của tôi khó khăn hơn đó là dượng Noble đôi khi cũng tốt bụng. Đó là phần lương thiện trong con người ông vẫn chưa bị đánh mất. Thỉnh thoảng ông cũng tốt với tôi, thậm chí cả sau khi chúng tôi bắt đầu chiến tranh. Ví dụ, khi tôi bị bệnh sởi năm lên chín tuổi, sức khỏe của tôi rất yếu. Bị sốt đến hơn 39OC, tôi chuyển sang mê sảng, vật vã với những cơn ác mộng. Tôi đổ mồ hôi nhiều đến nỗi ga giường của tôi ướt sũng và tôi sợ hãi vô cùng. Có lẽ chính trạng thái tâm thần bấn loạn lại giúp gia tăng trí nhớ. Tôi nhớ rất rõ hình ảnh dượng Noble ngồi bên cạnh tôi, chờ cho cơn sốt hạ xuống. Dượng thức cùng tôi đến tận khuya. Dưới ánh trăng, ông lấy một chiếc khăn lạnh chặm mồ hôi trên trán tôi, trong khi kể cho tôi nghe những câu chuyện về cái thời dượng làm nhân viên tình báo… khi tôi còn đủ tỉnh táo để lắng nghe.
Những câu chuyện ấy cứ như trong thần thoại; đến bây giờ tôi vẫn không biết liệu chúng có thật hay không, nhưng thật tuyệt khi nghe những câu chuyện ấy giữa cơn sốt cao. Rồi vào nửa đêm thì bác sĩ đến, cho tôi uống thuốc và thế là cơn sốt nhanh chóng qua đi. Ngày hôm sau, dượng Noble trở về là người như cũ - một kẻ nát rượu.
Tôi và dượng Noble luôn đối đầu với nhau. Chúng tôi khiêu khích nhau bằng cả lời nói lẫn hành động. Ông thường đét vào mông tôi nhưng chẳng bao giờ gây thương tích cho tôi như ông thường làm với mẹ tôi. Tôi muốn thương yêu ông, và tôi tin rằng ông cũng muốn thương yêu tôi, nhưng kết cục là chúng tôi lại gây đau khổ cho nhau. Tôi thấy phẫn nộ cho mẹ mình và tức giận vì chúng tôi đã không được sống ở Chatham, trong khi ông ấy thì… Ông ấy đang làm gì nhỉ? Tại sao ông lại quá tệ bạc với mẹ con tôi? Tại sao ông lại trở mặt sau khi cưới mẹ tôi? Và tại sao ông không yêu thương cậu bé đã từng ôm siết ông với vòng tay rộng mở trong lần đầu tiên gặp gỡ?
Có thể ông sẽ bảo rằng đấy là vì tôi đã trở thành một đứa trẻ hỗn xược, còn tôi thì lại cho rằng đó là bởi vì ông đã biến thành một kẻ nát rượu tệ hại. Giờ thì ông đã mất rồi, nên tôi không thể hỏi ông vì sao. Nhưng tôi vẫn thắc mắc. Việc tôi là một đứa trẻ hư và ông là một kẻ nát rượu không hoàn toàn giải thích được vì sao ông và tôi đã đánh mất điều gì đấy mà đáng ra sẽ rất tuyệt vời cho cả hai. Tôi đã có thể tìm thấy người cha thứ hai và ông cũng có được đứa con trai mà ông không bao giờ có. Thay vào đấy, chúng tôi lại trở thành oan gia. Cuối cùng, khi tôi lên mười, mẹ tôi quyết định gửi tôi đến trường nội trú Fessenden ở Massachusetts, gần Boston. Như vậy là tôi rời bỏ Charleston và thoát khỏi thế giới của dượng Noble.
Trận đấu giữa tôi với dượng Noble kết thúc bằng việc tôi ra đi. Từ nay ông ấy sẽ không thể gây ra những chuyện tồi tệ với tôi được nữa, và cơ hội hàn gắn giữa tôi và dượng Noble cũng không còn. Vài năm sau thì mẹ tôi ly dị ông. Nhưng bà đã không thể nào hồi phục lại từ sau cuộc hôn nhân đó. Bà sống độc thân cho đến cuối đời ở Chatham, cố gắng giữ cho tinh thần mình phấn chấn. Mẹ tôi vẫn là một người phụ nữ dịu dàng nhưng đã bị tổn thương sâu sắc và mắc chứng nghiện rượu.
Đây là bí mật của các gia đình: Tại sao nhiều điều lẽ ra có thể tốt đẹp lại trở nên thật tồi tệ? Và một điều bí ẩn hơn nữa: Tại sao dù mọi việc tồi tệ đến thế mà cuộc sống vẫn diễn ra tốt đẹp như nó đã diễn ra với tôi cho đến lúc này?
Dượng Noble đã không thể tiêu diệt tôi. Tôi đã sống sót. Hơn nữa, nhờ sự giúp đỡ của nhiều người tốt, tôi đã thành công. Tôi không bao giờ gặp lại dượng Noble kể từ vụ ly hôn của mẹ và tôi cũng chẳng nói chuyện với ông, ngoại trừ một lần tôi gọi cho ông vào năm 1987. Khi ấy tôi ba mươi tám tuổi, còn ông khoảng chín mươi. Quyển sách đầu tiên của tôi vừa được ra mắt độc giả. Tôi muốn người đàn ông đã làm tổn thương mẹ tôi quá nhiều ấy biết rằng sự xấu xa của ông đã không thể hủy hoại tôi.
Vì vậy, tôi gọi đến tổng đài của bang South Carolina để hỏi số điện thoại của ông và quay số. Tôi đoán chắc là ông sẽ bắt máy. Hẳn ông đã rùng mình khi tôi xưng danh, nhưng với sự cứng rắn vốn có của mình, ông đã không gác máy. Ông hỏi:
- Cậu cần gì ở tôi hả nhóc?
Bạn có thể tưởng tượng những gì mà tôi muốn nói. Nhưng thay vào đó, tôi chỉ đơn giản nói rằng kể từ lần sau cuối gặp ông, tôi đã tốt nghiệp Đại học Harvard (ngôi trường mà ông đã bỏ ngang và không được cấp bằng tốt nghiệp), tôi cũng đã tốt nghiệp trường Y, hoàn thành khóa thực tập và vừa mới xuất bản một quyển sách.
Tôi không thể viết ra đây những câu trả lời của ông. Ông chửi rủa tôi và bảo rằng tôi nói dối. Tôi có thể nghe thấy tiếng rít trong giọng nói của ông và hình dung cảnh tượng ông ngồi trên chiếc ghế yêu thích của mình với chai rượu trên tay. Rồi tôi nói với ông rằng mặc dù ông đã làm tổn thương mẹ con tôi, nhưng ông không thể nào hủy hoại chúng tôi. Tôi bảo với ông rằng những điều tốt đẹp nhất của mẹ luôn sống mãi trong tôi. Tôi bảo rằng ở độ tuổi ba mươi tám, tôi đã làm được nhiều việc tốt cho mọi người hơn so với những gì ông có thể làm trong cuộc đời chín mươi năm của mình. Với mỗi lời phát biểu thận trọng, tôi có cảm giác rằng mình đang giữ cho cán cân công lý được cân bằng - điều mà tôi đã không thể làm được khi còn nhỏ. Điều đó có thể là tốt cho dượng - để trước khi bước sang thế giới bên kia, ông biết được rằng những mặt xấu xa của ông đã không thể chiến thắng. Biết đâu những hiểu biết ấy có thể nâng đỡ phần nào tâm hồn già nua cay độc của ông.
Tôi vẫn còn nhớ những lời cuối cùng tôi nói với ông thay cho lời tạm biệt: "Tôi biết rằng dượng biết tôi nói thật. Bây giờ thì cả hai ta đã có thể bước ra khỏi đời nhau mãi mãi". Đầu dây bên kia yên lặng hồi lâu. Tôi có thể nghe thấy tiếng thở phì phì nặng nhọc của ông vì ông vẫn còn giữ chặt điện thoại. Tôi có thể nghe thấy ông đang cố gắng nhưng chẳng thể nói nên lời. Miệng ông đã khô cạn như trái tim ông vậy. Đã đến lúc phải dừng cuộc chiến. Tôi gác máy.
Vào khoảnh khắc ấy, tôi cảm nhận được cảm giác tuyệt vời của lời khẳng định chiến thắng: "ĐÚNG VẬY!", tôi biết rằng những người tốt trên đời luôn thắng thế trước kẻ xấu. Tất cả những người đã cứu tôi thoát khỏi những ảnh hưởng của người đàn ông ấy đã chiến thắng.
Tuy nhiên, tôi phải nói rằng ước gì tôi có thể quay ngược thời gian và giúp người đàn ông có tên Noble trở thành một người tốt. Nếu không phải vì rượu và những thứ chẳng ai biết rõ, lẽ ra Noble đã có thể là một người cha, một người chồng lương thiện như bao người khác. Tôi cũng ước gì mình đừng làm những việc khiêu khích ông. Tôi ước gì chúng tôi có thể tìm được tình yêu thương mà đáng ra chúng tôi phải dành cho nhau. Nó luôn ở đó. Chỉ vì chúng tôi đã không bao giờ biết cách làm cho nó sinh sôi nảy nở.
Bất chấp tất cả những điều xấu xa mà dượng Noble đã làm, tôi chưa bao giờ hoàn toàn căm ghét ông. Có lẽ đó là món quà mà ông dành cho tôi. Ông đã dạy tôi rằng tình yêu có thể sinh sôi ngay trong sự căm ghét. Ông ấy là người mà tôi căm ghét nhất đời, với những nguyên do hợp lý.
Nhưng, dù vậy, tôi biết rằng tất cả không phải là lỗi của ông.
Dượng Noble đã cho cuộc đời tôi một khởi đầu không suôn sẻ. Vậy điều gì đã cứu tôi khỏi nguy cơ rơi vào thảm họa trở thành một thành phần tiêu cực trong xã hội?
Câu trả lời là: những người tốt.
Những gì đã cứu tôi chính là những gì đã cứu hàng triệu con người mỗi ngày. Chính những khoảnh khắc của đời người – khoảnh khắc của sự kết nối đang sinh sôi nảy nở, mang đến cho tôi cảm giác an toàn, sức mạnh và niềm hy vọng.
Những gì đã cứu vớt tôi có thể chính là những gì đã cứu vớt tất cả chúng ta.
Quay trở lại vấn đề, tôi muốn nói đến anh bạn Bobby Hitt - người bạn học hồi tôi còn ở Charleston. Bobby đã gặp dượng Noble khi tôi mời cậu đến nhà dùng bữa tối. Bobby cũng ghét ông ấy. Tôi cảm thấy mình được an ủi khi Bobby có thể hiểu được vì sao tôi lại ghét ông ta đến vậy. Bobby cũng mời tôi đến nhà cậu ấy dùng cơm và tôi đã được ăn tối với một gia đình bình thường như bao gia đình khác. Cha cậu ấy làm việc cho tòa soạn báo ở Charleston. Bobby có một gia đình khá là ồn ào với các anh chị em, những con thú cưng và một người mẹ trông có vẻ mệt mỏi, nhưng mọi người đều rất tử tế, và chẳng ai nghiện rượu cả, ít nhất là với những gì tôi nhìn thấy.
Chúng tôi rất thường hay "chơi đấu súng" với nhau, đó là cách chúng tôi dùng để chỉ bất cứ trò chơi nào có liên quan đến vũ khí đồ chơi. Thật ra thì chúng tôi chẳng có khẩu súng nào, dù rằng rất nhiều đứa trẻ ở vào độ tuổi của chúng tôi đều có. Một mùa thu nọ, chúng tôi đến chơi ở một cái hồ cạn và xây công sự bên trong một chiếc thuyền câu bị lật nghiêng. Chúng tôi trang bị cho nó bằng "những chiếc đèn" mà thật ra chỉ là những cái đèn pin được buộc dây và treo vào những cái đinh đóng trên tường, bằng "những chiếc giường" làm từ mấy cái hộp và giẻ lau mà chúng tôi mang từ nhà đến, và bằng "những cái ghế" làm từ mấy mẩu gỗ vụn xung quanh chiếc thuyền. Chúng tôi uống Pepsi và đọc truyện tranh ở trong cái công sự ấy và quên khuấy việc phải về nhà cho đến khi trời tối.
Bobby khiến tôi quên đi những chuyện rắc rối ở nhà. Cậu cho tôi thấy được sức mạnh của tình bạn. Nhưng còn tiền bạc thì sao? Chẳng phải đó là "người bạn" đáng tin cậy nhất ở bên cạnh khi chúng ta phải đương đầu với những điều tệ hại nhất trong cuộc sống hay sao? Chẳng phải đồng tiền và những tiện ích kèm theo nó là một đồng minh thật sự hữu ích và đáng tin cậy hơn bất cứ "sự nối kết" hay "khoảnh khắc cầu vồng" nào hay sao?
Từ rất sớm, tôi đã học được rằng tiền chẳng thể giúp cho tôi có được cuộc sống hạnh phúc ở Charleston. Dượng Noble có rất nhiều tiền và ông khá hào phóng, thậm chí là ông còn cho tôi tiền mua quà nữa. Nhưng thứ tôi cần không phải là tiền. Tôi cần Bobby Hitt, gia đình cậu ấy và những mối quan hệ lành mạnh khác.
Hầu hết chúng ta đều quên đi những bài học thời thơ ấu, hoặc ta lại ghi nhận chúng như những câu chuyện cổ tích đơn thuần. Dù sao đi nữa, cuộc sống rất khó khăn, và chúng ta đều phải trả một cái giá nào đấy. Nhưng trước đây và cả bây giờ, tôi chưa bao giờ quên cảm giác hạnh phúc khi có một người bạn trong đời. Khi tôi bắt gặp mình đang mong ước có được nhiều hơn – tiền bạc, quyền lực, sức ảnh hưởng, hay bất cứ thứ gì, thì tôi cố nhắc nhở bản thân rằng mình đã có những gì mình cần, nếu tôi biết ghi nhận và trân trọng nó thì cũng giống như tôi lại có Bobby Hitt bên mình.
Tình bạn có thể kéo dài cả đời, nhưng cần phải có những nỗ lực để giữ liên lạc với nhau. Tôi đã để mất liên lạc với Bobby Hitt. So với trẻ con thì dường như việc giữ liên lạc đối với người lớn là khó khăn hơn nhiều. Vài người bạn của tôi giờ đây đã trở nên quá bận rộn để có thể dành ưu tiên cho tình bạn. Tôi đã cố liên lạc với họ, nhưng chỉ nhận được những câu chào hỏi lịch sự xã giao. Người ta bảo với tôi rằng đây là việc không thể tránh khỏi khi chúng ta trưởng thành. Người ta tách lìa nhau và bắt đầu bận bịu với gia đình, với công việc. Nhưng tôi vẫn cố hết sức để níu kéo các mối quan hệ bạn bè của mình.
Tôi cảm thấy nếu không làm thế thì cuộc sống của tôi sẽ trống rỗng.
Có bao giờ bạn tự hỏi: ai hay điều gì đã cứu vớt bạn khỏi nghịch cảnh cuộc đời? Câu hỏi này có thể khiến bạn sửng sốt, đặc biệt là khi bạn chưa từng gặp phải chướng ngại lớn nào trong đời. Có thể bạn sẽ bảo với tôi rằng: "Tôi không giống như anh. Tôi chẳng cần ai cứu vớt cả". Nhưng tôi chắc chắn là phải có một hoặc nhiều người, hoặc điều gì đó, hoặc một nơi chốn, thậm chí là những con vật nuôi có thể đã từng giúp đưa bạn về đúng chỗ của mình. Có thể đó là một hoặc một vài thầy cô giáo như trong trường hợp của tôi chẳng hạn. Hoặc có thể đó là mẹ của bạn, hoặc là một đồng sự đã cứu nguy cho bạn, hoặc đó có thể là một bác sĩ, người đã kịp thời chẩn đoán đúng bệnh của bạn.
Không phải lúc nào chúng ta cũng thích suy nghĩ theo chiều hướng ấy. Chúng ta thích nghĩ rằng chính mình đã tự cứu lấy bản thân. Chúng ta thích nghĩ rằng mình có thể làm tất cả mọi chuyện, rằng chúng ta hoàn toàn độc lập. Nhưng thật ra chẳng ai trong chúng ta là như thế cả.
Có những khoảnh khắc nhất định treo lơ lửng trong ký ức tôi như những bức tranh quý, những khoảnh khắc mà tôi thường hồi tưởng lại: khoảnh khắc nằm rúc vào lòng bà tôi ở trên giường; khoảnh khắc cùng ngồi uống bia với cậu bạn Peter Metz sau những trận bóng mà chúng tôi thường chơi hai lần mỗi tuần; khoảnh khắc ngắm cậu con trai út Tucker nằm ngủ say trên giường, gương mặt ngây thơ sáng lên ánh trăng bạc; khoảnh khắc lắng nghe Tom, anh vợ tôi, khuyến khích tôi thi vào trường y trong khi tôi nghĩ rằng mình không đủ thông minh và lòng kiên trì; rồi khoảnh khắc tôi ngỏ lời cầu hôn với Sue, vợ tôi, trong một nhà hàng ở Paris; khoảnh khắc được ôm trong tay đứa con đầu lòng và cũng là con gái duy nhất của chúng tôi - Lucy - khi bé vừa chào đời, rồi ba năm sau lại ôm Jack trong tay và ba năm sau nữa là Tucker.
Những khoảnh khắc này, và còn nhiều nữa những khoảnh khắc khác là những kiệt tác của cuộc đời tôi, những khoảnh khắc vĩnh cửu, những kiệt tác mà tất cả chúng ta có được, bằng cách này hay cách khác, thậm chí dù ta không phải là những nghệ sĩ tài ba.
BỆNH NHÂN TINH QUÁI
Ở cương vị một bác sĩ, đặc biệt là bác sĩ tâm lý, nghĩa vụ của tôi là phải cứu người, hoặc giúp họ tự cứu lấy bản thân. Tôi đã bắt đầu chương này bằng cách kể lại việc ai đã cứu mình, giờ xin hãy để tôi đưa ra ví dụ về việc một người khác đã được cứu vớt như thế nào, trong đó có sự tham gia của tôi. Việc này chỉ mất của bạn một ít phút thôi.
Một buổi trưa Chủ nhật khi tôi còn là bác sĩ tâm lý cộng tác (bác sĩ được gọi đến khi bệnh viện có nhu cầu) ở một bệnh viện tâm thần, một phụ nữ trẻ bước vào phòng và bảo rằng cô muốn tự vẫn. Bản thân sự kiện này chẳng có gì là bất thường. Những người vào viện tâm thần thường nghĩ đến chuyện tự sát. Điều làm khiến tôi vẫn nhớ về cô bệnh nhân đặc biệt này sau hơn hai mươi năm chính là những việc đã xảy ra một tiếng đồng hồ sau khi cô bước vào.
Cô ấy cho tôi biết tên cô là Ruby. Khi tôi hỏi cô bao nhiêu tuổi, cô trả lời: hai bình phương nhân hai lập phương. Tôi ngừng một chút rồi hỏi vậy có phải cô ba mươi hai tuổi hay không, cô gật đầu đồng ý và hỏi xin tôi một điếu thuốc. Cô ngồi ở chiếc ghế đối diện bàn làm việc của tôi và hút thuốc. Cô ngồi bắt chéo chân và bắt đầu đung đưa lên xuống cái chân ở trên rất nhanh.
Là một bác sĩ thực tập, tôi chưa có kinh nghiệm trong việc đánh giá những biểu hiện đa dạng của chứng bệnh muốn tự sát. Ruby đã sớm trở thành người thầy đáng nhớ nhất của tôi.
Tôi nhẹ nhàng hỏi cô:
- Cô có thể cho tôi biết vì sao cô lại muốn tự tử?
Cô nói:
- Ồ, đó là loại câu hỏi ngu xuẩn gì thế? Gã bác sĩ chíp hôi mới ra trường như anh thì biết gì về cuộc sống?
Trong trường tôi không được dạy cách xử lý những tình huống như thế này. Đối với việc này, tôi phải học từ thực tế công việc. Chẳng ai quan sát tôi vào lúc ấy, ngoại trừ Ruby. Chẳng có ai ở đó để giúp đỡ tôi, cũng chẳng có ai ở đó để khiển trách hoặc hướng dẫn cho tôi nếu tôi làm mọi việc rối rắm. Tôi chớp mắt vài lần rồi cố gắng đối đáp:
- À, đúng là tôi không có nhiều kinh nghiệm về việc này, nhưng tôi thật sự muốn giúp cô nếu có thể.
Ruby huýt sáo thể hiện sự sửng sốt đầy vẻ chế giễu. Cô hướng ánh mắt về phía tôi:
- Anh thật sự nghĩ rằng điều đó sẽ có hiệu quả? Rằng anh có thể cứu sống tôi bằng cách cứ bô bô những lời ngu xuẩn là muốn giúp đỡ tôi? - Cô làu bàu lặp lại với giọng khinh bỉ - Anh thật lòng muốn giúp đỡ tôi? Ôi, điều đó mới ngọt ngào chưa kìa?
Rồi cô nói to cứ như thể là nói với những khán thính giả trong tưởng tượng:
- Anh ta thật lòng muốn giúp đỡ tôi. Chúa phù hộ linh hồn tôi. Tôi đã được cứu! - Cô rít sâu một hơi thuốc rồi quẳng điếu thuốc xuống sàn nhà và dập tắt nó bằng mũi giày. Cô hỏi tôi:
- Có điếu nữa không?
Tôi đáp "Có" và đưa điếu nữa cho cô với hy vọng sẽ thắng được cô nhờ thuốc lá.
Cô gặng hỏi:
- Anh biết gì về đời tôi và muốn giúp tôi như thế nào đây?
Công việc của tôi là tiếp những người lang thang bước từ ngoài đường vào, hoặc những người được cảnh sát đưa đến, xác định tình trạng của người đó, sau đó quyết định xem liệu có thể trả anh ta về nhà hay nhận anh ta nhập viện. Bệnh viện nơi tôi thực tập là bệnh viện công nên điều kiện vật chất cũng không được khang trang cho lắm, nếu không muốn nói là khá tồi tàn. Những người đến đây thường là người nghèo hoặc người vô gia cư. Họ có xuất thân rất khác so với thực tập sinh chúng tôi, những người được xem là sẽ "bắt bệnh" cho họ. Vì thế mà cũng dễ hiểu vì sao Ruby hỏi tôi biết gì về cuộc sống, đặc biệt là cuộc sống của cô ấy.
Ruby kẹp điếu thuốc chưa đốt giữa hai ngón tay khi cô bắt đầu đợt tấn công mới:
- Tôi biết anh muốn giúp tôi. Điều đó thì hiển nhiên rồi. Nhưng anh có thể làm được hay không, đó lại là chuyện khác.
Tôi hỏi:
- Cô sẽ để tôi thử chứ? Ruby độp lại:
- Liệu tôi có lựa chọn nào không? Tôi tin rằng anh là trò chơi duy nhất ở thị trấn này – cô chêm vào một câu tiếng Pháp – n’est-ce pas (đúng thế không)?
Tôi bảo:
- Ruby, xem nào, cô thông minh hơn tôi. Chúng ta có thể thấy được vấn đề khá dễ dàng. Vậy, cách duy nhất để tôi có thể giúp cô đó là cô để cho tôi giúp cô. Nếu cô muốn chơi trò chơi với tôi, cô có thể chạy vòng quanh tôi giống như cô đang làm vậy.
Ruby kêu lên:
- Chậc, chậc! Đừng bao giờ tự hạ thấp bản thân như thế. Tôi chỉ là một kẻ điên, một bộ phận hỗn độn của xã hội, còn anh là một bác sĩ cao quý đang thực tập tại một bệnh viện nổi tiếng, vốn là tinh hoa của trường Y khoa Harvard. Tôi mới là người phải cúi đầu trước mặt anh chứ đâu phải ngược lại như thế.
Rõ ràng là Ruby biết về bệnh viện này. Rất có khả năng cô ấy đã từng được nhập viện. Tôi muốn gọi cho bên an ninh để nhờ họ lục lại hồ sơ của cô trong khi chúng tôi trò chuyện.
Tôi hỏi:
- Cô đã từng được nhận vào đây chưa? Cô trả lời:
- Đương nhiên. Những người ở tầng trên biết rõ tôi. Tất cả đều ghi rõ trong hồ sơ của tôi. Nhưng đó không phải là vấn đề mà chúng ta cần giải quyết vào lúc này. Ngay bây giờ, chúng ta phải quyết định liệu tôi có sắp kết liễu đời mình với món vũ khí nhỏ bé này hay không. - Nói đến đó, cô lôi từ trong áo ngực ra một khẩu súng ngắn.
Lại là một kinh nghiệm nghề nghiệp mới cho tôi. Tôi chưa bao giờ có một bệnh nhân móc súng ra trước mặt mình như thế. Tôi hỏi:
- Đó là súng à?
- Xem nào, bác sĩ, nó chẳng phải là thanh kẹo Tootsie Roll(5) đâu nhé!
Phía dưới bàn có một nút ấn chuông báo động mà tôi có thể nhấn để gọi lực lượng an ninh đến nếu tôi muốn làm thế. Nhưng đó có vẻ là một ý rất tệ. Tôi hỏi lại:
- Đó có thật là một khẩu súng không vậy? Đơn thuần là vì tôi đã không thể tin vào mắt mình.
- Ồ, đồ rác rưởi, anh có thấy mình may mắn không?– Cô gầm gừ, cố gắng hết sức để bắt chước cái kiểu của Clint Eastwood(6). Rồi cô mỉm cười và bóp cò súng, nhưng không có tiếng nổ mà chỉ có một ngọn lửa nhỏ phụt ra. – Đây là bật lửa của tôi. Tôi có làm cậu hoảng sợ không hả chàng bác sĩ trẻ? Nếu có thì tôi hết sức xin lỗi nhé.
- Thôi được rồi, Ruby. Tôi nghĩ chúng ta đã trao đổi đủ nhiều để tôi có thể để cô đi.
- Ô, bây giờ thì anh sắp tống tôi trở lại ra đường và để tôi kết liễu đời mình như là một hình phạt cho việc tôi đã dọa anh bằng chiếc bật lửa à? Anh có nghĩ rằng làm thế thì có vẻ nghiệp dư quá không?
- Ruby, tôi nghĩ cô đang đùa cợt tôi. Tôi nghĩ cô bước vào đây hôm nay chỉ vì cô thấy chán, chứ chẳng phải vì cô đang đau khổ. Tôi cũng nghĩ hình như cô đã chơi thuốc thì phải.
Bất chợt, cô ném cái bật lửa vào tôi. Nó bay sượt qua đầu tôi và đập vào tường, vỡ tan tành. Cô quát vào mặt tôi:
- Anh biết gì về cuộc sống chứ? Anh biết gì về mọi thứ? Thấy những vết sẹo này không? - Cô vén cao tay áo, để lộ những vết sẹo chằng chịt đã nhạt màu trên hai cánh tay. - Tôi tự cắt tay mình cho vui đấy. Nó chẳng hề hấn gì so với những nỗi đau mà tôi cảm nhận trong lòng. Tôi không thể dừng được. Anh có hiểu được không? Dĩ nhiên là không. Anh có biết vì sao tôi đến đây và những việc tôi đã làm ngày hôm nay không? Tôi đã cố gắng sống tốt ở ngoài kia, rồi cuối cùng tôi bước vào đây để tìm sự khuây khỏa, và rồi một tên chíp hôi cao ngạo, ích kỉ, người chưa từng phải chịu đựng đau khổ, dù chỉ một ngày trong cuộc sống đầy đặc quyền của mình. Tốt hơn hết là anh đừng bảo rằng tôi đến đây chỉ vì chán nản. Anh chẳng biết cóc khô gì cả.
Tôi ngồi yên lặng. Tôi nhận ra mình đã nói chuyện với Ruby bằng giọng giận dữ và đó quả là một sai lầm. Tôi cũng nhận ra rằng cô là một phụ nữ thông minh, chắc hẳn là cô hiểu biết nhiều hơn tôi. Tôi cảm thấy hơi phẫn nộ một chút về việc cô bảo tôi là gã chíp hôi đầy đặc quyền, nhưng tôi cho rằng lúc này mà nói với cô về những rắc rối mà tôi đã từng trải qua là không phù hợp. Tôi bắt đầu hiểu ra tại sao mọi người gọi nghề bác sĩ tâm lý là một nhiệm vụ khó khăn. Tôi nói:
- Cô nói đúng. Tôi không biết nhiều về cuộc sống.
- Ô, chết tiệt, tốt hơn là anh nên học hỏi, vì tôi không thể nào làm việc đó giúp anh được. - Ruby nói, rồi sau đó cô bỗng bật khóc.
Lúc ấy, chuông điện thoại trên bàn tôi reo. Đó là Barney - người điều hành tổng đài. Anh báo với tôi là anh đang bị cơn nhức đầu hành hạ. Tôi bảo với anh rằng tôi đang có một bệnh nhân. Anh nói anh không nghĩ mình có thể tiếp tục trực tổng đài được nữa vì cơn nhức đầu rất dữ dội. Đó là cơn nhức đầu tồi tệ nhất mà anh từng có trong đời. Anh đã gọi cho quản lý của mình để nhờ giúp đỡ và bà ấy hứa sẽ xuống trực thay để anh có thể về, nhưng đợi mãi chẳng thấy nên anh phải gọi điện cầu cứu tôi. Tôi hứa sẽ gọi lại cho anh ngay.
Khi tôi gác điện thoại, Ruby nhìn tôi vẻ dò hỏi. Tôi nói với cô:
- Người điều hành tổng đài bị nhức đầu. Ruby đáp:
- Ồ, tôi cũng vậy.
- Nhưng người trực tổng đài bảo rằng đó là cơn nhức đầu dữ dội nhất mà anh ấy từng có. Đó là dấu hiệu thường thấy của chứng chảy máu não, cô biết đấy, có thể anh ấy bị tai biến. Tốt hơn hết là tôi phải đi xem anh ấy thế nào đây. Có thể tính mạng anh ấy tùy thuộc vào việc này. Cô cần phải đi cùng tôi. Tôi không muốn để cô lại một mình với bảo vệ.
Ruby rụt rè hỏi:
- Tại sao? Anh sợ rằng tôi sẽ tự làm mình bị thương sao?
Tôi vớ lấy ống nghe và dụng cụ đo huyết áp trong ngăn tủ sắt và giục:
- Coi nào, đi thôi.
Tổng đài điện thoại của bệnh viện đã rất cũ kỹ. Người trực tổng đài phải mang bộ ống nghe và điều hành một dàn máy với hàng trăm phích cắm, tất cả chúng đều có dây nhợ chằng chịt. Khi tôi đến, khắp người Barney đổ mồ hôi đầm đìa và rõ ràng là anh đang phải vật lộn với cơn đau đớn dữ dội. Thế nhưng anh vẫn mang bộ ống nghe và đang trả lời các cuộc gọi. Anh bảo với tôi:
- Tôi không thể bỏ ống nghe xuống cho đến khi nào có người khác mang nó thay tôi. Đó là quy định. Tổng đài phải luôn có người trực.
Về sau, bất cứ lúc nào có người cười nhạo các nhân viên công chức nhà nước, bảo rằng họ toàn là những kẻ lười nhác và hay trốn việc là tôi nghĩ ngay đến việc Barney từ chối rời bỏ vị trí làm việc ngay cả khi anh đang bị nguy hiểm đến tính mạng. Tôi yêu cầu:
- Barney, hãy bỏ ống nghe xuống đi. Tôi sẽ chịu trách nhiệm.
Anh ta khăng khăng:
- Bác sĩ, anh phải mang nó vào thì tôi mới bỏ ra được.
Tôi phản đối:
- Nhưng tôi không biết cách sử dụng. Barney đáp:
- Không sao đâu, tôi sẽ chỉ anh.
- Thôi được rồi, Barney, nhưng giờ hãy lo cho anh trước đã.
Tôi hỏi thăm ngắn gọn về tiền sử bệnh trạng của anh rồi tiến hành đo huyết áp. Chỉ số huyết áp cho thấy anh đang ở trong tình trạng rất nguy hiểm. Tôi nói:
- Barney, hãy gọi xe cấp cứu. Bảo với họ rằng đây là một trường hợp khẩn cấp.
Barney hỏi:
- Liệu có phải là một cơn đột quỵ không? Tôi đáp:
- Đúng là anh đang bị một cơn đột quỵ. Anh hãy nhanh chóng làm theo hướng dẫn sơ cấp cứu cơ bản.
Barney gọi xe cấp cứu ngay lập tức, rồi anh quay sang nhìn tôi như thể muốn hỏi: "Giờ ta làm gì đây, bác sĩ?".
Tôi nói với anh:
- Hãy bỏ ống nghe ra. Đưa nó cho tôi.
Barney miễn cưỡng làm theo. Phòng cấp cứu cách không xa lắm và xe cấp cứu đến trong vòng chưa đầy một phút sau khi Barney gọi điện. Khi các hộ lý vội vã chạy lên lầu, đến góc phòng nhỏ nơi đặt tổng đài thì tôi đang nghe Barney hướng dẫn cách sử dụng các thiết bị tổng đài. Tôi thật sự nghi ngờ không biết Barney có chịu để người ta mang anh đi cấp cứu hay không nếu tôi không lắng nghe anh hướng dẫn. Thế nên tôi đã nghe, nhưng rõ ràng tôi chẳng phải là một học trò giỏi.
Đột nhiên, có một bàn tay đặt lên cánh tay
Barney. Đó là Ruby. Cô bảo:
- Anh phải đi thôi, anh bạn. Tôi sẽ lo việc này. Tôi đã từng làm việc này trước đây nên tôi biết cách, sẽ ổn cả thôi.
Barney mỉm cười, cứ như thể đã có bác sĩ nhi khoa đến để chăm sóc đứa con của anh. Giờ thì anh đã sẵn sàng rời khỏi vị trí làm việc. Anh nằm xuống băng ca và được đưa ra xe cấp cứu. Khi Barney được đưa đi rồi, tôi ngồi đó, tai mang ống nghe, trong khi các đèn hiệu trên bảng điều khiển tổng đài nhấp nháy liên tục với những tín hiệu cần được trả lời. Biết phải làm gì đây? Nếu tôi không có kinh nghiệm với hội chứng muốn tự vẫn, thì tôi cũng vô cùng ngơ ngác với việc trực tổng đài.
Ruby cười phá lên, vỗ tay vào đầu gối, rồi thì ôm bụng mà cười ngặt nghẽo. Sau khi đã cười hả hê, cô đến đứng bên cạnh tôi và tỏ ra rất đắc chí khi thấy tôi lóng ngóng như thế.
- Tôi rất vui khi biết việc này đối với cô là một trò thú vị. – Tôi vừa nói vừa cố gắng trong vô vọng để cắm phích cắm vào đúng chỗ của nó.
Câu trả lời duy nhất cô dành cho tôi là thêm một tràng cười ngặt nghẽo nữa. Cô ấy thực sự không làm chủ được cảm xúc của mình. Tôi loay hoay xoay xở một mình vì chẳng có sự lựa chọn nào khác và cũng bởi vì việc này rõ ràng có nhiều tác động mang tính trị liệu đối với Ruby hơn so với tất cả những lời lẽ mà chúng tôi đã trao đổi với nhau trước đó.
- Anh có cần được giúp đỡ không? – Cô vừa hỏi vừa thở hổn hển như đang cố gắng kiềm chế tràng cười. Thế nhưng sự cố gắng kìm nén ấy chỉ tổ làm cô sặc và ho sù sụ.
Tôi trả lời:
- Vâng, tôi thực sự cần cô giúp
- Cảm giác cần sự giúp đỡ như thế nào hả bác sĩ? Tôi không thể không hỏi anh điều đó. – Ruby nói.
Tôi cố gắng ấn cái nút mà tôi nghĩ sẽ có thể thông một đường dây để tôi có thể trả lời các cuộc gọi đến.
- Anh vừa ngắt đường truyền ấy đấy. - Cô nói và lại cười ngặt nghẽo.
Tôi nhìn cô, khẩn khoản nói:
- Ruby, xin hãy làm ơn giúp tôi. Đó có thể là những cuộc gọi quan trọng.
Cô giật tai nghe khỏi đầu tôi và đẩy tôi ra chỗ khác. Khi tôi đã đứng dậy, cô ngồi ngay vào ghế và trả lời các cuộc gọi, trong khi kết nối với các đường dây đang có tín hiệu sáng đèn. Chỉ trong vài phút, cô đã có thể kiểm soát được tổng đài. Vài phút sau đấy thì quản lý của Barney hối hả chạy đến cảm ơn tôi vì đã giúp đỡ. Khi bà ấy hỏi tôi ai đã điều hành tổng đài một cách trơn tru như thế, tôi bảo với bà rằng đấy là một người bạn ghé thăm tôi trong ca trực và may mắn là người ấy có chút kinh nghiệm về việc trực tổng đài.
Tôi cũng kể cho người quản lý ấy nghe về hành động anh hùng của Barney - việc anh cứ khăng khăng từ chối đi cấp cứu cho đến khi biết chắc rằng tổng đài được điều hành đúng cách. Quả thật là Barney đã mạo hiểm với tính mạng của mình. Rồi chúng tôi gọi đến bệnh viện và được biết rằng Barney đã được đưa đến đó kịp thời. Cơn tăng huyết áp đột ngột của anh đã ở trong tình trạng được kiểm soát. Anh ấy sẽ khỏe lại.
Giao lại tổng đài cho cấp trên của Barney, tôi và Ruby quay trở về phòng khám. Tưởng như tôi và Ruby đã rời khỏi nơi này hàng giờ nhưng thực ra sự việc vừa rồi chỉ diễn ra trong khoảng mười lăm, hai mươi phút.
Ruby ngồi xuống và tôi cũng thế. Ruby bảo:
- Anh đã chữa trị cho tôi rồi đấy, bác sĩ. Việc này tốt hơn là tự cắt tay mình.
Tôi hỏi:
- Giờ cô cảm thấy thế nào?
- Tốt hơn bội phần. Tất cả những việc vừa rồi đúng là liều thuốc hữu hiệu dành cho tôi.
Chúng tôi trò chuyện thêm giây lát. Tôi có thể đoan chắc rằng Ruby đã ổn định và rồi cả hai chúng tôi cùng quyết định là cô có thể an toàn ra về.
Điều tôi học được từ Ruby và từ sự việc diễn ra ngày hôm đó ở tổng đài là về sức mạnh của cảm giác thấy mình hữu ích. Khi người ta buồn bực, việc cảm thấy bản thân có chút giá trị là rất cần thiết. Một cách để bạn có thể cảm thấy mình có giá trị là có ai đó cần đến sự giúp đỡ của bạn. Ruby đã đến phòng khám của tôi ngày hôm ấy với cảm giác chán chường về bản thân và cuộc trò chuyện ban đầu của tôi với cô ấy càng khiến cô cảm thấy giá trị của mình thấp kém hơn người khác. Tôi có quyền quyết định về những điếu thuốc, tôi có quyền quyết định để cho cô nhập viện hay không, tôi là người "đánh giá" cô, tôi là bác sĩ, còn cô là bệnh nhân. Tất cả những gì cô có thể làm là phản kháng quyết liệt; hoặc đến khi không còn biết làm gì nữa thì cô tự cắt tay mình như đã từng làm nhiều lần trước đây, để có cảm giác gì đấy khác hơn là cảm giác vô giá trị.
Thế nhưng, trong những tình huống bất ngờ, chính tôi mới là kẻ vô dụng, khi đương đầu với việc nằm ngoài sở trường của mình, tôi lại cần sự giúp đỡ của người khác đến thảm hại, mà lại cần sự giúp đỡ của chính cái người tìm đến tôi để được giúp đỡ. Thế rồi… hô biến! – Chúng tôi đã hoàn thành việc chữa trị, ít nhất là tạm thời như thế.
Trong khoảnh khắc đầy sức mạnh ấy, Ruby đã dạy tôi một nguyên lý mà tôi đã áp dụng hàng ngàn lần kể từ đấy về sau: Khi một người nào đó, bất cứ người nào, không nhất thiết phải là bệnh nhân của tôi, một người bạn, một đứa con, hay thậm chí là một người xa lạ, cảm thấy buồn bã và chua chát trong cuộc sống thì nên để họ giữ vai trò là người giúp đỡ người khác. Việc này không chỉ đơn thuần tạo cho họ cảm giác rằng họ có sức mạnh và quyền kiểm soát, mà còn giúp họ nhận thấy được nhân phẩm và giá trị của bản thân.
TỜ BƯỚM
Như Ruby đã nhắc nhở tôi trong câu chuyện vừa rồi rằng việc yêu cầu người khác giúp đỡ là rất khó khăn. Việc giúp đỡ người khác khi được yêu cầu cũng khó khăn không kém. Mọi người có thể bảo rằng họ rất thích giúp đỡ người khác, nhưng khi thật sự bắt tay vào làm việc ấy thì họ cảm thấy mọi việc không hề đơn giản. Tôi đã học được bài học này vào một ngày mùa đông lạnh giá cùng cô con gái Lucy của tôi.
Năm Lucy mười hai tuổi, vào đầu tháng 12, con bé và tôi cùng làm một việc mà hai bố con chưa từng làm trước đây: Chúng tôi phát tờ bướm ở quảng trường Harvard.
Tôi luôn rất ghét các tờ bướm bởi vì cho đến lúc đó tôi luôn ở vị trí của người nhận tờ bướm. Chúng được phát đến tay tôi bởi những tay chuyên phát tờ bướm xông xáo tại quảng trường Harvard và bất cứ quảng trường nào khác mà tôi từng đến. Chúng cũng được nhét trên kính chắn gió xe hơi trong khi tôi xem phim. Chúng nhiều lần làm lộn xộn thùng thư và mái hiên trước nhà tôi, vài cái thậm chí còn bay cả vào sân sau. Tôi ghét cay ghét đắng các tờ bướm, cũng như những người đã tạo ra chúng, gửi chúng đi, và nhất là những người đi phát chúng. Với tôi, việc một người nào đó chìa một tờ bướm vào mặt như hàm chứa một sự xâm phạm nào đó - một tờ bướm lên án một việc bất công mà tôi đã biết, hoặc mời chào một vài loại dịch vụ mà tôi không có nhu cầu, hoặc giới thiệu một mối làm ăn mà tôi chẳng có hứng thú. Tôi liệt các tờ bướm và những người phát tờ bướm vào cùng một nhóm với những cuộc tiếp thị qua điện thoại vào đúng giờ ăn. Tất cả đều là những thứ vụn vặt gây bực mình.
Cho đến cái hôm tôi cùng Lucy phát tờ bướm…
Đó là ngày nhà thờ tổ chức hội chợ hàng thủ công. Các nghệ nhân bán những sản phẩm của họ, các giáo dân bán bánh nướng, bánh sandwich và những tô ớt đỏ, còn dàn đồng ca thì hát vang những bài thánh ca mừng Giáng sinh. Tất cả là để gây quỹ cho chương trình "Vươn xa" do nhà thờ tài trợ. Đó là một mục đích cao đẹp. Nhưng khi được yêu cầu đi phát tờ bướm để ủng hộ cho mục đích cao đẹp ấy thì tôi lại e dè. Tôi cảm thấy mình bị sập bẫy. Tôi từng viết một quyển sách về tầm quan trọng của việc kết nối với người khác. Và giờ đây, tôi đang được yêu cầu phải thực hành những điều mà mình đã thuyết giảng. Tôi nghĩ đây là việc khó chịu nhất trên đời.
Nhưng sứ mạng ấy thực tế còn khó khăn hơn so với tưởng tượng của tôi. Những người trong nhà thờ không chỉ bắt tôi đi phát tờ bướm mà họ còn bắt tôi phải mang một tấm biển quảng cáo to đùng khi làm nhiệm vụ. Tôi chưa bao giờ mang một tấm biển quảng cáo như thế và cho rằng mình sẽ chẳng bao giờ làm vậy. Nhưng giờ đây tôi bị yêu cầu đi vòng vòng quảng trường Harvard, quảng cáo cho hội chợ hàng thủ công của nhà thờ, chìa những tờ bướm vào mặt những người ngoại đạo ngơ ngác, mang trên mình tấm biển quảng cáo phủ đầy những dấu chấm than, những miếng trang trí lấp lánh và nhiều hình vẽ thu hút sự chú ý. Họ không chỉ đơn thuần muốn tôi làm việc này, mà họ muốn tôi làm với sự hăng hái và bằng cả tấm lòng nhằm tạo được sức ảnh hưởng đối với người khác nhờ lòng tốt và sự thiện chí. Và họ muốn tôi làm việc này cùng với con gái của mình.
Khi tôi nói về việc này với Lucy, con bé nhìn tôi giống y cái cách mà tôi đã nhìn người phụ nữ ở nhà thờ khi bà đưa ra lời đề nghị. Nó nghiêm nghị trả lời:
- Bố đang trêu con phải không?
Lucy đã không còn ở cái tuổi bé bỏng để có thể vui vẻ bày trò ngộ nghĩnh ở nơi đông người và con bé đã bắt đầu đánh giá mỗi tình huống dựa vào những chuẩn mực mà nhà trường và xã hội đã truyền dạy, giống như người lớn vậy.
Tôi cố bào chữa:
- Việc đó có thể rất vui đấy.
Nói vậy nhưng trong lòng tôi còn kinh hãi hơn cả con bé khi hình dung cái cảnh chúng tôi thật sự phải làm việc ấy. Thế rồi, cũng như thường lệ, con bé đã làm tôi kinh ngạc. Sau một hồi lâu yên lặng, nó bảo:
- Bố nói đúng. Ta hãy làm việc đó đi nào!
Thế là người duy nhất mà tôi trông cậy sẽ đứng về phía tôi để khước từ cái nhiệm vụ kỳ cục này cuối cùng lại bóp chết hy vọng của tôi.
Ngày diễn ra hội chợ, trời có nắng nhưng không đủ để làm ấm mặt đất. Khi tấm biển quảng cáo được cột vào vai hai cha con tôi bằng mấy sợi dây ruy băng, Lucy bắt đầu rúc rích cười. Tôi quan sát con bé, một cảm giác mới lạ trỗi dậy trong tôi. Tôi bắt đầu thấy mình can đảm, thậm chí là hăm hở bắt tay vào thi hành nhiệm vụ cùng với cô con gái yêu dấu của mình. Chúng tôi đang tiến hành một cuộc viễn chinh. Khi Lucy và tôi nhận lấy các tờ bướm và thẳng tiến trên các vỉa hè của quảng trường Harvard, tôi tự nhủ với bản thân: "Tiến lên nào!".
Lúc ấy Lucy mặc chiếc áo khoác màu xanh nhạt, chồng bên ngoài là tấm biển quảng cáo, còn mái tóc vàng óng của con bé được cột gọn gàng bằng một vật màu hồng trông như kết bằng lông vũ. (Cái vật ấy gọi là gì nhỉ? Các ông bố thường ngốc nghếch thế đấy!). Với những cơn gió lạnh mơn man trên đôi má, trông con bé mới dễ thương làm sao. Trong khi đó thì nhìn tôi như thế nào nhỉ? Khoác trên người chiếc áo khoác kiểu của những nhà ái quốc vùng New England, cùng với tấm biển quảng cáo, đây rõ ràng là việc mà tôi đã cố gắng trốn tránh.
Đến quảng trường, chúng tôi bắt đầu phát các tờ bướm cho người đang đi trên vỉa hè. Một số người vui vẻ nhận lấy chúng, trong khi một số người khác lại cự tuyệt như thể tờ bướm có chứa chất phóng xạ vậy. Những gì diễn ra trong nửa tiếng đồng hồ sau đã dạy tôi một bài học lớn trong đời.
Tôi cố đưa tờ bướm cho một người đàn ông bán báo Spare Change - một tờ báo chuyên viết về tình trạng vô gia cư. Tôi nghĩ chắc ông ấy sẽ hiểu về hoạt động từ thiện và muốn ghé vào hội chợ hàng thủ công của chúng tôi khi ông đã xong việc. Ông nhìn mấy tờ bướm của tôi, rồi liếc nhìn tôi và nói: "Ông giỡn mặt à?". Tôi đoán chắc là ông ta nghĩ tôi định cạnh tranh với ông. Rồi tôi phát tờ bướm cho hai người phụ nữ lớn tuổi đang đi đến. Cả hai đang trò chuyện vui vẻ với nhau trông như những người bạn lâu năm.
- Ồ, cảm ơn anh. Chắc chắn chúng tôi sẽ ghé qua. – Một người phụ nữ nồng nhiệt nói, cứ như thể tôi vừa đưa cho bà một miếng sandwich vào buổi dùng trà. Hai người phụ nữ tiếp tục bước đi và trò chuyện, nhưng giờ thì trên đôi găng tay màu đen của họ cầm theo tờ bướm màu đỏ trông thật nổi bật.
Kế đến tôi phát tờ bướm cho một chàng trai gốc Á trông có vẻ là một nghiên cứu sinh ở Harvard. Anh chàng khá bảnh bao với quần jeans và áo khoác da nhưng anh ta cự tuyệt nhận tờ bướm của tôi. Anh ta biến mất khỏi tầm mắt tôi trước khi tôi kịp phản ứng với sự khước từ của anh.
Rồi Lucy chạy đến bên tôi, hào hứng thông báo:
- Con đã bán được ba tờ rồi đấy! Bố bán được tờ nào chưa?
Tôi thật sự có cảm giác như hai bố con tôi đang đi bán tờ bướm vậy, dẫu rằng thực ra chúng tôi chỉ phát chúng đi thôi. Việc này là bởi vì rất nhiều "khách hàng" của chúng tôi là những người "có năng lực" như tôi vậy: những người quá bận rộn và quá bị chiếm hữu bởi bản thân họ đến nỗi chẳng thể nào chịu nổi việc bị làm phiền bởi một cô bé với cái nơ màu hồng ở trên đầu, hoặc bởi một gã mang biển quảng cáo trên mình, cả hai đang phát tờ bướm cho hội chợ của nhà thờ. Lucy và tôi chỉ là những chướng ngại vật đối với họ trên đường hối hả đến một nơi nào đấy thật sự quan trọng. Đối với những con người tất bật ấy, Lucy và tôi chỉ là những kẻ cản đường.
Tôi đã cố gắng chìa tờ bướm ra với một vài người trông dáng vẻ đạo mạo, có thể là một giáo sư của Harvard, hoặc một công dân gương mẫu, hoặc những người đang trên đà thăng tiến, nhưng họ không nhìn vào tôi. Ngay cả khi tôi hết sức cố gắng xuất hiện ngay trong tầm nhìn của những con người vội vã ấy, thì họ vẫn bước qua tôi như thể họ chẳng hề nhìn thấy. Tôi cảm thấy họ chẳng nhận thấy sự tồn tại của tôi, hoặc nếu họ có biết thì họ muốn tôi biết chính xác những điều mà tôi đã từng muốn tất cả những người đi phát tờ bướm tôi từng từ chối trước đây biết: rằng họ muốn tôi không tồn tại, rằng họ sẽ cố gắng hết sức để khiến tôi cảm thấy thực sự là mình không tồn tại. Ôi, sao mà tôi ghét họ đến thế! Điều này có nghĩa là lần đầu tiên trong đời, tôi đã nhìn ra và căm ghét chính cái đặc điểm ấy trong con người mình.
Trong khi đó thì Lucy lại đang rất vui vẻ. Giờ đây con bé đang "bán" các tờ bướm của nó gần như là cho tất cả mọi người. Nó vui vẻ phát đi các tờ bướm. Nếu có ai đó phớt lờ nó, nó chẳng thèm để tâm đến nữa và lại tiếp tục hăm hở phát cho người tiếp theo. Con bé có khả năng lấy lại niềm hy vọng trong chớp mắt.
Nhưng với tôi, lúc đầu việc này thật hết sức nhục nhã. Trên đường đến quảng trường, chúng tôi đi ngang qua một thùng rác. A ha! Đột nhiên tôi nảy ra ý nghĩ quẳng đi tất cả những tờ bướm của tôi, bảo với Lucy rằng tôi đã "bán" hết rồi và rủ con bé quay về nhà thờ uống sô-cô-la nóng. Rồi tôi có thể trở về vai trò làm một người bận rộn và cởi bỏ tấm biển quảng cáo đáng nguyền rủa này.
Nhưng không, tôi đã ở lại, và không chỉ cảm giác tội lỗi giữ cho tôi tiếp tục phát các tờ bướm. Tôi hết sức kinh ngạc khi nhận ra mình bắt đầu thích công việc này. Nó cho tôi một cái nhìn về sự riêng tư của người khác, như thể tôi đang lấy mẫu để thăm dò xem họ là người như thế nào, trong khi họ chẳng hề hay biết rằng mình đang bị quan sát. Tôi đã học hỏi được vài điều về họ và về chính bản thân mình.
Rồi bỗng nhiên tôi tháo bỏ được sự căm ghét mà tôi đã dành cho những "con người vĩ đại" – những người không có thời gian cho Lucy và tôi, cho những tờ bướm của chúng tôi – bằng cách tưởng tượng rằng họ trống rỗng và vô giá trị. Thực ra họ cũng chẳng khác gì tôi (có chăng đi nữa là họ giàu hơn và quyền thế hơn). Tôi phải thừa nhận rằng tôi cũng đã từng vội vã lướt qua những đám đông như họ đang làm, rằng tôi đã cự tuyệt nhiều tờ bướm của những cô bé dễ thương như họ đang làm và rằng tôi luôn đặt những công việc của mình lên hàng ưu tiên hơn so với việc tiếp nhận những tờ bướm ở quảng trường Harvard hay bất cứ nơi nào khác.
Tôi bắt đầu nhìn mỗi người kỹ hơn. Lucy bảo rằng nó muốn vào "bán" tờ bướm ở trong hiệu sách Kids Wordworth vì nó thấy lạnh, thế là tôi đứng trơ trọi một mình ngoài vỉa hè trong khi con bé bước vào hiệu sách. Và tôi bắt đầu cảm thấy vui hơn nhiều khi có ai đó nhận tờ bướm của tôi. Họ len lỏi vào ra trong các đám đông như những đặc vụ bí mật làm nhiệm vụ kết nối. Khi tôi tìm kiếm họ và tập trung vào họ thay vì vào những Người Bận Rộn, tôi bắt đầu tìm ra họ ngày càng nhiều. Tôi ghi nhận những nụ cười trong ánh mắt họ. Tôi trân trọng những khoảnh khắc họ dành ra để nhìn tôi khi nhận tờ bướm của tôi. Trong khoảnh khắc ấy, chúng tôi trao đổi cho nhau nguồn năng lượng kết nối, một khoảnh khắc của sự xác nhận. Cứ như thể chúng tôi là một phần trong một xã hội bí mật theo chủ trương không cho phép Cuộc Sống Hối Hả nuốt chửng tâm hồn mình.
Tôi bắt đầu để ý đến các chi tiết, chẳng hạn như cái hoa cài áo lấp lánh trên chiếc áo khoác ngoại cỡ của một phụ nữ, hoặc cách mà một người đàn ông đã khéo léo nhét chiếc khăn quàng cổ của ông vào trong áo khoác để nó vừa có thể giữ ấm lại trông hết sức thời trang. Tôi bắt đầu trông chờ mỗi cơ hội gặp gỡ để tìm xem người tiếp theo là người như thế nào. Tôi nhận thấy những Người Chịu Dừng Lại ấy vui vẻ như thế nào dù là chỉ trong một khoảnh khắc khi nhận những tờ bướm từ tay một người đàn ông hay một cô bé mang biển quảng cáo trên người.
Đối với họ, những tờ bướm giống như một lời cáo lỗi xin họ dừng lại, chứ không phải là một trở ngại. Một số người còn vui vẻ bắt chuyện với tôi:
"Ồ, nhà thờ này ở đâu nhỉ?" hoặc "Đó có phải là con gái ông không?" hoặc "Thật tuyệt là hôm nay quảng trường Harvard lại tràn ngập không khí Giáng sinh nhỉ?".
Một số người khác còn nhiệt tình hơn. Một người trông giống William Holden(7) ở tuổi xế chiều tiến về phía chúng tôi. Quần áo tuy đã sờn bạc nhưng trông ông vẫn khá duyên dáng. Râu ria ông xồm xoàm, còn đầu tóc thì dường như đã lâu chưa gội. Ông tình cờ tiến về phía tôi, lấy tờ bướm và bắt tay tôi, một hành động được xem là bất thường so với những gì mà một người nhận tờ bướm thường làm. Ông chào tôi và nói cứ như thể ông là người đứng đầu những Người Chịu Dừng Lại:
- Xem nào, anh bạn có vẻ lạc lõng ở ngoài này. Tôi đã quan sát anh. Nhưng hình như anh đang dần nắm bắt được sự việc. Bí quyết ở đây là hãy cứ đi cùng dòng chảy. Đừng để những kẻ chẳng ra gì làm anh mất tinh thần. Có rất nhiều người tốt ở ngoài kia, anh chỉ cần chọn đúng họ. Việc này giống như câu cá vậy.
Chúng tôi trò chuyện thêm giây lát. Ông là một người ăn xin lão luyện nhưng đồng thời cũng là một triết gia, một nhà tâm lý học, và một người am hiểu sâu sắc về những món ăn ngon mà ông không thể nào mua nổi. Với vốn kiến thức và khả năng ăn nói như thế, ông cũng có thể là một người từng tốt nghiệp từ trường Harvard cũng nên. Ông bảo với tôi:
- Tôi thích những con đường. Tôi thích những gì mình làm và thích lang thang ngoài đó. Mỗi ngày đều mang đến những ngạc nhiên. Tôi chẳng bao giờ thấy nhàm chán và chẳng bao giờ bị căng thẳng.
- Nhưng làm sao ông có thể sống qua ngày? – Tôi hỏi ông, người mà tôi thầm đặt tên là Hạnh Phúc.
- Bằng cách làm những nghề chẳng giống ai. Nhân viên ở các cửa hàng đều biết tôi. Có rất nhiều công việc lặt vặt mà chẳng ai muốn làm cả như làm cỏ, lau chùi cửa sổ, quét vỉa hè. Tôi luôn bận rộn. Tôi kiếm nhiều hơn số mà tôi chi tiêu. Anh sẽ ngạc nhiên nếu biết tôi đã gửi ngân hàng được bao nhiêu, anh biết đấy, để phòng đến khi về hưu. – Ông nói và nháy mắt tinh nghịch.
Rồi ông biến mất trong tích tắc. Ông thậm chí chẳng để tôi có cơ hội kịp cho ông ít tiền. Những lời cuối cùng ông nói với tôi:
- Hãy tiếp tục làm việc tốt nhé! Chúng tôi luôn ở quanh đây khi anh bạn cần đến. Tạm biệt đồng chí!
"Tạm biệt đồng chí" - đây là lời lẽ của một người ăn mày sao? Tôi cảm thấy như thể một nhà thông thái vừa ban vinh dự cho tôi bằng một thông điệp. Tôi nguyện với lòng sẽ học hỏi từ ông Hạnh Phúc, từ những quý bà đeo găng tay đen và từ những Người Chịu Dừng Lại khác. Tôi thề rằng tôi sẽ học để dừng lại và cố gắng tiếp tục công việc mà ông Hạnh Phúc gọi là "việc tốt". Tôi cảm thấy hổ thẹn vì trước đây tôi đã luôn khước từ những người phát tờ bướm.
Khi tôi tiếp tục phát những tờ bướm của mình, tôi tự hỏi không biết ông Hạnh Phúc có hàm ý gì khi ông bảo rằng "Chúng tôi luôn ở đây khi anh bạn cần đến". Phải chăng có một ẩn ý sâu xa gì khác? Tôi cần gì ở ông chứ?
Tôi đứng đó, chìm đắm trong suy tư và thoáng sững sờ khi nhận ra rằng mình cần những người như ông. Trước hết, tôi cần phải tin tưởng ông và không xua đuổi ông như những kẻ lập dị thời nay. Sau đấy, tôi cần phải lắng nghe ông một cách nghiêm túc, nghiêm túc như thể tôi đang lắng nghe Thoreau(8) hoặc John người rửa tội(9) - họ thuộc một nhóm thiểu số những con người đặc biệt, có thể nói chuyện với trái tim của cuộc sống.
Điều mỉa mai ở đây là những con người ở trong dòng chảy chính của cuộc sống như tôi lại có thể học hỏi được rất nhiều từ những người như ông Hạnh Phúc - người sống bên ngoài dòng chảy ấy. Chúng ta bận rộn kiếm tiền, nuôi con, giữ cho cơ thể cân đối và cố gắng sống "có trách nhiệm", trong khi họ lại bận rộn làm những việc khác. Tạ ơn trời là họ luôn ở đó khi chúng ta cần đến họ, như ông Hạnh Phúc đã nhắc nhở tôi.
Lucy chạy tung tăng về phía tôi từ phía nhà sách, tự hào rằng nó đã "bán" hết số tờ bướm của nó trước tôi. Tôi chia bớt những tờ bướm còn lại với con bé và chúng tôi cùng nhau phân phát hết số còn lại. Khi hai cha con tôi rảo bước về hướng nhà thờ để được khoan khoái thưởng thức hương vị tuyệt vời từ những cốc sô-cô-la nóng, tôi cảm thấy trong tôi đã có điều gì đó đổi thay. Tôi đã nhìn đời một cách khác đi. Tôi nhìn đời qua con mắt của ông Hạnh Phúc. Dẫu cả thế giới có cho ông là kẻ vô công rỗi nghề, nhưng với tôi ông là một sứ giả, một nhà tiên tri. Thông qua những người khác, tôi cũng nhìn thấy được chính mình, thấy mặt tồi tệ nhất của mình: một Người Bận Rộn. Nhưng tôi cũng đã thấy những người có thể dừng lại đủ lâu để mở rộng lòng mình đón nhận và sống hài hòa với những điều không mong đợi trong cuộc sống.
Như vậy, tôi đã thấy được một khoảnh khắc cầu vồng thật đẹp ở một quảng trường công cộng, qua một việc làm tưởng chừng là tẻ nhạt và đáng ghét. Những khoảnh khắc diệu kỳ ấy nằm rải rác đâu đó trong đời sống. Nó ở khắp mọi nơi. Ý nghĩa cuộc sống và tình yêu tồn tại trong mỗi khoảnh khắc ta nhìn nhận. Các vị sứ giả, như con cái của chúng ta và ông Hạnh Phúc của tôi, luôn cố gắng cho ta biết làm thế nào để ta có thể nắm bắt những khoảnh khắc ấy. Nếu ta có thể lắng nghe, ta có thể học cách nắm bắt từng khoảnh khắc đẹp đẽ của đời người. Rồi ta có thể sống một cuộc đời mãn nguyện như ý.
TIẾNG VANG…
Thỉnh thoảng, thường xuyên, luôn luôn
Tác giả của bài viết sau đây kể về sự việc xảy ra trước một buổi thuyết giảng của bà. Trong tình huống này, sứ giả là một người cần được giúp đỡ. Và thông qua việc giúp đỡ, tác giả đã nhận được một món quà.
Khi đọc bài viết này, bạn cần biết rằng tác giả - người mà tôi gọi là Anne, đang ở vào tuổi ngoài bảy mươi. Bà mắc bệnh ung thư vú và đã trải qua phẫu thuật cách đây mười năm. Bà cũng đã từng chứng kiến chồng mình bị một cơn đột quỵ khi ông năm mươi tuổi khiến cho não bộ mất khả năng hoạt động bình thường, cần được hỗ trợ trong mọi sinh hoạt hằng ngày. Anne có thể đến thăm chồng và chồng bà vẫn nhận ra bà, nhưng ông chẳng thể nhớ được các chi tiết về những cuộc viếng thăm ấy và cũng không thể hiện dấu hiệu gì cho thấy ông trông mong bà đến. Thế nhưng Anne vẫn là một người thực sự lạc quan. Ở bà phát ra nguồn năng lượng tích cực bởi vì dường như bà luôn tìm thấy niềm hy vọng ngay trong những hoàn cảnh tối tăm nhất.
- E.H.
Tôi nghĩ rằng tôi có thể dự đoán được mọi tình huống mình phải đối mặt trong cái ngày đã được lên kế hoạch sít sao ấy. Tờ giấy ghi chú của tôi được sắp xếp rất thứ tự. Chương trình đã lên sẵn ở thính phòng, chỉ chờ được bắt đầu. Tôi sẽ có sáu giờ dư dả để thuyết giảng về môn đọc hiểu; giúp các độc giả kết nối với tác giả, với các ý tưởng và với chính bản thân họ; chỉ cho họ cách diễn tả những khúc mắc trong lòng. Tuy rằng đôi khi người ta có thể tự hiểu lấy một vài việc, nhưng đa số học viên vẫn cần sự hướng dẫn để có thể lĩnh hội được vấn đề.
Tôi đang đeo sợi dây chuyền "Búp bê lo lắng". Thường thì cái nhân vật truyền thuyết của xứ Guatemala bé xíu đầy màu sắc độc đáo này được đặt trong một cái lọ hoặc trên một cái đĩa. Khi chủ nhân của chúng đặt chúng ở dưới gối vào ban đêm thì nhiệm vụ của chúng là lo lắng thay cho chủ nhân, để người đó có được giấc ngủ thoải mái, yên bình. Nhưng truyền thuyết bảo rằng nếu những con búp bê lo lắng được ghép thành cặp trên những mảnh gỗ (như trên sợi dây chuyền của tôi) thì chúng trở thành những người bạn của cả thế giới và là bạn của nhau.
Có ba mươi phút rảnh rỗi trước khi bắt đầu bài diễn thuyết, tôi dự định sẽ ngồi ở đại sảnh của khách sạn để trau chuốt lại phần giới thiệu mới cho bài diễn thuyết của mình. Khi tôi đang tận hưởng phút giây riêng tư ngắn ngủi ấy thì một người đàn ông bước xuống đại sảnh, nói với cô gái ở quầy tiếp tân, mà có lẽ là với cả thế giới:
- Tôi không sử dụng được điện thoại ở đây. Làm thế nào tôi liên lạc ra ngoài được?
Cô gái trả lời hơi xẵng giọng:
- Nó cũng hoạt động như những cái điện thoại công cộng khác thôi. Chỉ cần đăng nhập vào AT&T(10), hay bất cứ nhà cung cấp dịch vụ nào mà anh đang sử dụng. Anh cần phải dùng mã PIN của mình.
Vẻ mặt anh nói lên rằng những lời nói của cô chẳng có nghĩa lý gì với anh cả. Anh tiếp tục:
- Tôi có việc khẩn cấp ở nhà. Tôi cần phải gọi điện thoại.
Cô gái nhún vai và quay lưng đi:
- Anh chỉ việc sử dụng nó như những chiếc điện thoại công cộng khác thôi.
Mặt anh xanh tái đi, anh có vẻ lúng túng và mệt mỏi. Tôi đứng dậy và tiến về phía anh, giải thích rằng tôi không thể không nghe thấy câu chuyện và rằng bản thân tôi cũng thường bị rối bởi những yêu cầu về kỹ thuật khi sử dụng điện thoại công cộng. Tôi chìa chiếc điện thoại di động của mình ra và đề nghị thực hiện cuộc gọi giúp anh. Anh bước lùi lại, vẻ lưỡng lự, nhưng rõ ràng anh rất muốn gật đầu đồng ý. Tôi bảo rằng với chiếc điện thoại sử dụng thuê bao trả trước này tôi có thể gọi bất cứ đâu, bất cứ lúc nào mà không bị tính thêm cước gọi đường dài.
Tôi nói với anh:
- Việc này hoàn toàn không tốn tiền. Xin hãy cứ cho tôi số điện thoại để tôi gọi giùm anh.
Khi chuông đổ ở đầu dây bên kia, tôi đưa điện thoại cho anh và quay đi chỗ khác để anh được tự nhiên. Tôi nghe anh nói với người ở đầu dây bên kia rằng con gái anh đã trải qua mười hai giờ đồng hồ phẫu thuật, các bác sĩ đã cố gắng hết sức, nhưng con bé rất yếu và đang có nguy cơ bị nhiễm trùng nghiêm trọng, thế nên bọn trẻ không nên đến thăm trong vài ngày tới. Anh nói rằng anh không biết khi nào thì anh có thể gọi lại lần nữa hoặc không biết làm thế nào để báo tin cho những người còn lại trong gia đình. Rồi giọng anh đứt quãng, anh bảo anh phải đi và sau đó đưa lại chiếc điện thoại cho tôi vì anh không biết cách tắt máy.
Anh bắt đầu kể tôi nghe về con gái của anh. Con bé bị vướng tay áo vào cánh quạt. Cái máy không chỉ cuốn lấy tay áo khoác mà còn nghiến nát cánh tay phải của con bé. Nói đến đó, cả người anh rung lên, những cơn nức nở làm anh nghẹn lời. Tôi vòng tay ôm lấy anh, để đầu anh tựa vào vai mình. Tôi không biết phải an ủi anh như thế nào. Thật vô ích khi bảo với anh rằng mọi việc rồi sẽ ổn cả thôi. Tất cả những gì mà tôi có thể nghĩ ra để nói là tôi thấy anh yêu con gái mình rất nhiều. Điều đó đã an ủi được anh đôi chút. "Vâng, tôi thực sự rất thương nó". Anh ngẩng đầu lên khỏi vai tôi và đột nhiên ngưng bặt.
- Tôi không nên làm thế này. Tôi không nên khóc lóc như thế này. Tôi phải mạnh mẽ lên. Tôi là một cảnh sát.
- Có chứ, anh nên khóc như thế này. Anh yêu con gái mình, cô bé đang bị thương, hẳn anh rất lo lắng và kiệt sức. Anh đến đây bằng cách nào? Anh đi một mình à?
Anh giải thích rằng con gái anh đã được đưa đến bệnh viện bằng trực thăng chuyển thương chuyên dụng, còn anh và vợ thì đến bằng ô tô. Vợ anh đã nhìn thấy chiếc trực thăng bay qua nhà mình nhưng không hề biết ai là nạn nhân. Anh nói với tôi rằng vợ anh đang chờ ở trong phòng để xem anh có điện thoại về nhà được hay không. Tôi bảo anh hãy đưa cô ấy đến đại sảnh, mang theo danh sách các số điện thoại của gia đình. Tôi sẽ giúp anh gọi điện thoại, bao nhiêu cuộc cũng được, trong vòng ba mươi phút nữa. Tôi nhấn mạnh lại là điện thoại hoàn toàn miễn phí. Anh nhìn tôi, ngạc nhiên, miễn cưỡng, ngượng nghịu, bối rối, sợ hãi và đau đớn chờ đợi ai đó quyết định giúp mình. Tôi bảo với anh:
- Hãy làm việc này vì vợ anh. Chúng ta có thể giúp cô ấy.
Vài phút sau thì anh trở lại, tay nắm chặt tay vợ. Đầu tóc cô rối bù, mắt thì đỏ hoe vì mất ngủ và khóc. Trông họ giống như Hansel và Gretel(11) bị lạc trong rừng. Tôi bỏ qua các nghi thức chào hỏi. Tôi chỉ yêu cầu cô cho tôi số điện thoại của những người mà cô nghĩ rằng nên gọi. Khi đã nối máy, tôi đưa điện thoại cho cô. Chồng cô đưa tay nắm lấy tay tôi, cảm giác của tôi khi ấy giống như khi bạn gắn phích cắm vào ổ điện. Tôi nắm tay anh trong khi vợ anh nói chuyện. Cuộc gọi tiếp theo thì anh nói, vợ anh nắm tay tôi. Và mọi việc cứ diễn ra như thế, hai người thay phiên nhau nói chuyện.
Khi điều tồi tệ xảy đến, chúng ta cần phải nói ra với mọi người. Đó là cách chúng ta đối mặt với sự thật. Cuối cùng thì họ đã gọi cho tất cả những người trong danh sách và cũng đến lúc tôi phải đi. Tôi ôm hôn hai người và cầu chúc cho gia đình họ được may mắn.
Trên bục giảng, tôi dẹp sang bên phần giới thiệu được chuẩn bị kỹ càng của mình. Trước tiên, sờ sợi dây chuyền của mình, tôi nói với những người đến nghe thuyết trình lý do tại sao những con búp bê từng đại diện cho sự lo lắng lại được ghép lại thành một cặp, thay vì chỉ có một mình, giờ đây chúng là "Những người bạn", biểu tượng của tình bạn.
Kế đến, tôi kể với các thính giả của mình về hai con người khốn khổ, kiệt sức vì đau buồn tôi vừa gặp và thông qua họ tôi đã nhận được một món quà tuyệt vời như thế nào: Một miếng nhựa màu đen – chiếc điện thoại di động, đã trở thành tấm thẻ thông hành cho phép tôi chạm đến thế giới nội tâm của hai tâm hồn khác. Tôi đã được một đặc ân khi được đứng giữa nơi hiện hữu của quá nhiều tình yêu thương: tình yêu thương của cha mẹ dành cho con, của vợ chồng dành cho nhau. Đối với tôi, cơ hội được giúp họ trong lúc khó khăn là một món quà.
Cuối cùng, tôi xin nhắc lại cương lĩnh của các bác sĩ được khắc trên đế của tượng bác sĩ Livingstone Trudeau(12) ở Saranac, New York: "Thỉnh thoảng chữa trị, thường xuyên giải tỏa, luôn luôn an ủi". Chúng ta cũng có thể có cương lĩnh tương tự. Là những nhà sư phạm, các bậc cha mẹ, các sinh viên, thỉnh thoảng chúng ta có thể khắc phục sự thiếu hiểu biết bằng cách cho đi kiến thức, khơi gợi niềm đam mê học tập. Trong các lớp học, chúng ta có thể thường xuyên giải tỏa nỗi lo lắng cho các học viên bằng cách truyền giảng những chiến lược hướng đến thành công. Và trong cách ứng xử với những người xung quanh, chúng ta có thể luôn luôn an ủi họ bằng cách sẵn sàng về mặt trí tuệ và cảm xúc.
Không có niềm tin nào thiêng liêng hơn.
Không có đặc ân nào lớn lao hơn.
Một thiên thần bác ái
Trong khi Anne ở câu chuyện vừa rồi đã giúp đỡ người khác một cách có chủ ý, thì tác giả của bài viết sau đây đã vô tình giúp đỡ người khác mà không hề hay biết. Thông thường thì chúng ta không biết khi nào thì những biểu hiện rất nhỏ nhặt như lời cảm ơn hoặc một cái vỗ lưng nhè nhẹ có thể làm thay đổi cả một cuộc đời. Ví dụ, một người bạn kể tôi nghe về chuyện của một linh mục có ý định từ bỏ sứ mệnh của mình và từ bỏ luôn cả chức linh mục bởi vì ông quá thất vọng trước sự tham ô mà ông chứng kiến ở nhà thờ, ông nản lòng vì sự đóng góp của mình là quá nhỏ nhoi. Cho đến một hôm nọ, ông đi cắt tóc. Người thợ cắt tóc lớn tuổi, là một giáo dân trong giáo xứ của ông. Trong khi đang cắt tóc, người thợ đã kể cho vị linh mục nghe rằng ông đã từng có ý định tự tử nhưng rồi ông từ bỏ ý định ngay lập tức khi ông nghĩ đến vị linh mục, và rằng trong mắt ông vị linh mục là người thật gần gũi và chính trực làm sao. Người thợ cắt tóc tiếp tục nói: "Con đã quá chán ngán tất cả mọi thứ, tất cả những kẻ giả tạo đến rồi đi quanh quẩn nơi đây. Kể từ khi các con của con khôn lớn và vợ con qua đời thì con nghĩ rằng con sẽ đoàn tụ cùng bà ấy ở bất cứ nơi nào mà linh hồn chúng ta sẽ đến sau khi chết. Nhưng rồi, con nghĩ đến cha". Nói đến đó, người thợ cắt tóc ngưng lại và đặt tay mình lên vai vị linh mục trong giây lát.
Vị linh mục kể lại với bạn tôi rằng: "Cái chạm tay ấy như có điện. Khi ngồi trên chiếc ghế cắt tóc cũ kỹ ấy, nhìn vào tấm gương lớn của Joe - anh thợ cắt tóc, và thấy hình ảnh phản chiếu của hai chúng tôi, tay anh đặt trên vai tôi khi anh bảo với tôi rằng sự tin tưởng anh dành cho tôi đủ lớn để anh có thể từ bỏ ý định tự tử. Ôi, liệu tôi có thể làm gì đây? Hẳn tôi phải là một kẻ chẳng ra gì mới không nhận thấy một nguồn động lực làm việc lớn lao ở nhà thờ. Anh có nghĩ thế không?".
Ông thợ cắt tóc Joe không hề hay biết là ông đã giúp đỡ vị linh mục ấy nhiều như thế nào vào lúc ấy. Những khoảnh khắc trái tim khi chúng ta trao cho nhau sự quan tâm chân thành bao giờ cũng có sức mạnh tạo nên sự biến chuyển kỳ diệu.
- E.H.
Tôi chưa từng được tập huấn về kỹ năng bán hàng, nhưng mỗi mùa Giáng sinh tôi đều đến phụ việc ở cửa hàng của anh trai tôi. Đêm trước lễ Giáng sinh, tôi đang loay hoay gói quà sau quầy tính tiền, trong khi anh trai tôi đặt lên quầy những cái giá đỡ nến bằng đồng tuyệt đẹp cao khoảng chín tấc và bảo tôi ghi biên nhận cho người phụ nữ đã mua những cái giá ấy. Bỏ sang bên mấy thứ đồ gói quà, tôi tiến về phía người phụ nữ tóc vàng đáng yêu đang đứng đối diện quầy tính tiền. Bàn tay mảnh mai của cô đang tì lên đế của một cái giá đỡ nến. Tôi mỉm cười với cô và tự hỏi không biết tại sao trông cô quen quen.
- Chị có nhận thẻ American Express(13) không? – Cô hỏi khi tôi đang kiểm tra hóa đơn và báo cho cô biết số tiền. Tôi gật đầu và lấy làm kinh ngạc khi tôi nhận thấy giọng nói của cô cũng rất quen thuộc, ngọt ngào với ngữ điệu châu Âu chuẩn. Làm sao tôi biết người phụ nữ này nhỉ?
Cô mỉm cười và đưa thẻ tín dụng cho tôi. Tôi liếc nhìn tên cô trên chiếc thẻ. Cái họ không gây ấn tượng gì, nhưng còn cái tên Leatrice thì quả thật tôi đã nhận ra. Tôi ngước nhìn lần nữa vào đôi mắt màu xanh sa-phia vẫn đang mỉm cười của cô. Tôi hỏi:
- Xin lỗi, có phải cô làm y tá ở bệnh viện không?
- Sao chị hỏi vậy? Đúng, tôi là y tá. – Cô trả lời, vẻ hơi ngạc nhiên.
- Xin thứ lỗi cho tôi nếu tôi có vẻ quá xúc động. – Tôi nói với cô và bắt đầu cảm thấy nước mắt ứa ra. – Chính xác là đã gần hai năm rồi tính cho đến hôm nay, tôi nhập viện với quả thận bị áp-xe và cô là cô y tá đang làm nhiệm vụ vào cái đêm mà họ cho tôi nhập viện. Tôi còn nhớ đã đọc tên cô trên tấm thẻ cô đeo vào cái đêm ảm đạm ấy, khi cô đặt bàn tay mát lạnh dịu dàng của mình lên vầng trán nóng hổi vì cơn sốt của tôi.
- Vâng, đêm đó là ca trực của tôi, – cô trả lời chậm rãi, mắt cô mở to khi nhìn tôi kỹ hơn. – Giờ tôi nhớ ra chị rồi. Chứng áp-xe thận rất hiếm gặp, chị biết đấy. Chúng tôi rất lo lắng cho chị. – Cô dịu dàng nói thêm và với qua quầy tính tiền để nắm lấy tay tôi.
- Cô thật tốt với tôi. Lúc đó tôi rất yếu và rất đau đớn, còn cô cứ như là một thiên thần bác ái. Tôi cầu chúc cho cô vì lòng tốt của cô. – Tôi nói với cô, nước mắt tôi ứa ra khi nhớ lại sự việc. Tôi suýt chết vì chứng áp-xe ấy.
Cô ngập ngừng hỏi, vẫn giữ chặt tay tôi:
- Tôi hy vọng giờ thì chị đã khỏe hẳn rồi chứ?
- Ồ vâng. – Tôi khẳng định với cô và gạt nước mắt bằng tay còn lại.
- Chị đã rất may mắn đấy. – Cô nói gần như thì thầm.
Tôi nói:
- Tôi biết. Tôi thật may mắn khi được chăm sóc tử tế. Tôi luôn biết ơn về điều đó. Cô là một y tá tuyệt vời. Tôi chắc rằng tất cả các bệnh nhân của cô đều cầu chúc phúc lành cho cô.
- Có lẽ vậy. – Cô mỉm cười ý nhị. Tôi quay lại hoàn thành thủ tục chi trả qua thẻ cho cô, trao cho cô tờ biên nhận và giúp cô mang mấy chiếc giá đỡ nến ra ngoài.
- Chúc Giáng sinh vui vẻ và cảm ơn chị nhiều nhé! - Cô nói và vươn người tới để ôm tôi.
Tôi bỏ mấy cái giá đỡ nến xuống để đón lấy cái ôm của cô và nói với cô bằng giọng ấm áp:
- Chúc cô Giáng sinh vui vẻ! Cảm ơn cô vì đã làm một thiên thần bác ái như thế.
- Chính chị mới là một thiên thần bác ái, chị thân mến ạ! – Cô dịu dàng nói và tôi có thể thấy nước mắt đang ứa ra trên đôi mắt xanh biếc của cô. – Tôi khóc vì thật ra đêm hôm ấy trên đường lái xe đi làm tôi đã tự vấn mình về việc có nên tiếp tục làm một y tá hay không. Tôi đã thực sự cảm thấy khá tuyệt vọng. Rồi tôi gặp chị. Chị chỉ có thể cử động chút ít dù việc đó làm chị rất đau đớn, nhưng chị đã chúc phúc cho tôi. Tôi không bao giờ quên điều đó. Tôi đã chăm sóc rất nhiều bệnh nhân suốt những năm qua, chị là người duy nhất đã cầu chúc sự an lành cho tôi. Chị đã thay đổi cuộc đời tôi vào cái đêm hôm ấy.
Nói rồi cô hôn lên má tôi, đón lấy mấy cái giá đỡ nến và quay về phía cửa.
Chúng tôi chỉ tình cờ gặp nhau vỏn vẹn có hai lần trong nhiều năm, nhưng tôi biết không ai trong hai chúng tôi có thể quên được người kia. Chúng tôi đã nâng đỡ lẫn nhau, và mỗi người làm điều đó theo một cách riêng.
TẠO KẾT NỐI…
Lời mời suy ngẫm: Thông qua sức mạnh của tình yêu và trí tưởng tượng, chúng ta đã biến những khoảnh khắc bình thường thành những khoảnh khắc vĩnh cửu. Đó là những khoảnh khắc khi mà chúng ta cảm thấy mình được nối kết gần gũi với những người hoặc những điều gì đấy ở ngoài bản thân mình và với sự hiện hữu của những điều quan trọng mà chúng ta gọi là ý nghĩa.
Ở đâu hoặc với ai thì bạn có thể chắc chắn tìm được những "khoảnh khắc cầu vồng"? Có thể là với con cháu? Hoặc người bạn đời? Hoặc một người bạn? Hoặc có thể ở trong khu vườn nhà bạn, trong một nhà thờ hoặc một ngôi chùa? Có thể là trên một chiếc ghế đặc biệt ở một góc thư viện? Có thể khi bạn đi dạo một mình trong rừng? Có thể là với chú cún của mình? Hoặc với một vài ký ức đáng nhớ? Có thể là tất cả những điều ấy.
Những trở ngại thường gặp: Bất cứ điều gì ngăn trở tình yêu và trí tưởng tượng đều ngăn trở những "khoảnh khắc cầu vồng". Chướng ngại vật có thể rất đơn giản, như là việc bạn quá bận rộn chẳng hạn. Rất khó để có một khoảnh khắc cầu vồng nếu như bạn đang vội vã chạy đi đâu khác. Chướng ngại vật cũng có thể phức tạp, như là bị làm tổn thương bởi một nhóm người nào đấy chẳng hạn. Sự oán giận có thể kiểm soát ta và ngăn không cho ta vươn ra ngoài. Thói quen cũng có thể ngăn trở những "khoảnh khắc cầu vồng". Bạn đã quen với việc nhìn thế giới theo một cách nhất định và vì vậy mà bạn không mở lòng ra để đón nhận cách nhìn mới. Trí tưởng tượng của bạn ngủ vùi.
Một trở ngại trên hành trình đến với tình yêu là bản thân ta – chính chúng ta chứ không ai khác. Chúng ta thường vô tình tạo ra những giới hạn cho bản thân. Thật kỳ quặc, ta càng khao khát sự kết nối và những khoảnh khắc kỳ diệu mà sự kết nối ấy tạo ra, thì ta lại càng sợ chúng. Chúng ta sợ tất cả những điều mới. Chúng ta sợ đến gần mọi người và sợ mở lòng mình ra. Càng mong muốn nhiều bao nhiêu, ta lại càng sợ hãi bấy nhiêu. Vì thế mà ta chọn cách kìm nén lại. Chướng ngại vật của tình yêu, trong trường hợp này, là sự lựa chọn của chính chúng ta.
Những bước tích cực mà bạn nên thực hiện: Nếu bạn nhận thấy mình đang kìm nén quá nhiều, nếu bạn nhận thấy nỗi sợ hãi xâm chiếm mỗi khi bạn cố nối kết, thì việc bạn có thể làm là hãy bắt lấy một tình huống an toàn, như là một cuộc trò chuyện với một người bạn chẳng hạn và hãy nói về nỗi sợ của mình. Một sự thật đáng ngạc nhiên về bản chất của con người đó là chúng ta thường giải quyết các vấn đề chỉ bằng cách nói chuyện, tâm tình với những người khác, mặc dù việc ta đang làm chẳng có vẻ gì là giúp ích cho việc giải quyết các rắc rối cả. Một khi bạn đã xác định sự chần chừ của mình là một vấn đề và bắt đầu nói về nó một cách tự tin với những người đáng tin cậy thì vấn đề ấy sẽ bắt đầu tan biến. Bạn sẽ bắt đầu tìm được các giải pháp. Hơn thế nữa, chỉ việc bạn có cuộc trò chuyện thân mật với người khác cũng sẽ bắt đầu mang đến cho bạn nhiều sự tự tin hơn. Chính sự tự tin này sẽ giúp bạn mở rộng vòng kết nối của mình.