Phần lớn phụ huynh thường khuyên con em họ kiểu: “Vào đại học đi, kiếm lấy cái bằng rồi tìm việc làm”. Trước tiến trình toàn cầu hóa và thị trường việc làm thay đổi nhanh chóng hiện nay, lời khuyên này là không đủ. Sinh viên đại học ngày nay cần được hướng dẫn nhiều hơn, cần biết cách lập kế hoạch nghề nghiệp, phát triển kỹ năng cần thiết và chuẩn bị tinh thần cạnh tranh ngay khi họ vừa tốt nghiệp.
Cả phụ huynh và sinh viên đều cần ý thức được sự khác biệt giữa bằng cấp và kỹ năng. Hiện tại, các công ty ngày càng ít chú ý tới bằng cấp hơn so với trước đây. Dù họ mong đợi các ứng viên có bằng đại học nhưng họ vẫn quan tâm tới kỹ năng làm việc và khả năng thích ứng với công việc nhiều hơn. Điều này đòi hỏi phụ huynh và sinh viên cần phải chuẩn bị nhiều hơn trước khi bước vào cổng trường đại học để có thể vạch ra một lộ trình phù hợp và đúng đắn nhằm đáp ứng các yêu cầu ngày càng tăng của thị trường lao động.
Không may, nhiều sinh viên hiện nay vẫn vào đại học mà không hề có kế hoạch nghề nghiệp rõ ràng. Cách học này khiến sinh viên phí hoài nhiều thời gian và nỗ lực, bởi sau khi tốt nghiệp, họ không thể tìm được công việc xứng đáng với những phí tổn mà họ đã tiêu tốn trong mấy năm học đại học. Một số trở lại trường và bắt đầu học lại hoặc học lên cao hơn nữa trong khi vẫn không định hướng được mục đích nghề nghiệp là gì.
Năm ngoái, một người tốt nghiệp đại học tới gặp tôi để xin lời khuyên. Anh ta nói: “Em không thể tìm được việc làm dù đã có bằng cử nhân văn học. Em muốn quay trở lại trường và học công nghệ thông tin để có thể kiếm được việc làm tốt”.
Tôi hỏi anh ta: “Em nghĩ em sẽ làm gì với bằng khoa học máy tính?”. Anh ta có vẻ hoang mang: “Em không biết. Em chỉ hy vọng kiếm được việc làm như phần lớn những người tốt nghiệp ngành khoa học máy tính khác. Sinh viên tốt nghiệp từ ngành này thường kiếm được việc làm tốt”.
Đây là trường hợp điển hình của những sinh viên không có kế hoạch nghề nghiệp, không có phương hướng rõ ràng. Anh ta chỉ muốn kiếm được việc làm.
Tôi hỏi: “Đó có phải công việc em thực sự muốn làm không?”. Anh ta nói: “Em thích viết, em chọn chuyên ngành văn học vì em muốn là nhà văn”. Tôi bảo anh ta: “Có những công việc cần tới kỹ năng viết trong ngành công nghệ thông tin. Em có thể viết tài liệu sử dụng, tài liệu hướng dẫn, thủ tục và đề xuất các tiêu chuẩn. Có những công việc liên quan đến viết lách như quản trị nội dung cho web, blog hoặc viết tin cho một số công ty. Em có thể kết hợp kỹ năng viết của em và chọn học để lấy thêm bằng cấp liên quan nhằm đáp ứng yêu cầu của những công việc cần tới kỹ năng này”. Anh ta ngạc nhiên vì chưa bao giờ anh ta nghĩ về điều đó. Tôi đoán anh ta thậm chí còn không đọc các mô tả việc làm khi đi tìm việc.
Đây là tình trạng chung của rất nhiều sinh viên. Khi bước vào trường đại học, họ chỉ nghĩ đơn giản “Vào đại học rồi học đại cho xong, có bằng rồi sẽ đi tìm việc”. Nhưng thực tế không giống như sinh viên đã nghĩ. Ngày nay, tấm bằng đại học không còn là tờ giấy thông hành, đảm bảo “có bằng đại học nhất định sẽ có việc làm” như trước nữa.
LẬP KẾ HOẠCH NGHỀ NGHIỆP CHO TƯƠNG LAI: VAI TRÒ VÀ MỤC ĐÍCH
Với các học sinh vừa tốt nghiệp trung học, việc chọn lĩnh vực học tập/chuyên ngành đại học có lẽ là quyết định khó khăn nhất nhưng đồng thời cũng là quyết định quan trọng nhất; vì đó chính là phương hướng giúp học sinh tập trung hơn trong việc học và cho phép họ lập kế hoạch nghề nghiệp từ sớm.
Không may, phần lớn các bậc phụ huynh hiện tại không đủ khả năng cũng không thực sự quan tâm đến việc hỗ trợ con cái lập kế hoạch nghề nghiệp tương lai. Họ có thể cho con quần áo đẹp, thức ăn ngon, không ngần ngại mua cho con những thứ mà con muốn nhưng khi con chuẩn bị vào đại học thì bố mẹ lại chỉ có thể hướng dẫn một cách sơ sài: “Vào đại học, học chăm chỉ, lấy bằng cấp rồi tìm việc làm”. Với họ, lấy được bằng đại học là mục đích lớn nhất.
Nhưng bây giờ không còn như ngày trước nữa. Thời đại đã thay đổi. Ngày nay bằng đại học không còn “giá trị” như ba mươi hay bốn mươi năm trước. Ngày nay sinh viên đại học cần được hướng dẫn nhiều hơn, cần trau dồi và phát triển nhiều kỹ năng hơn mới có thể đáp ứng được những yêu cầu mà các công việc sẵn có đòi hỏi. Sau khi tốt nghiệp, họ phải có khả năng kiếm sống một cách độc lập trên cơ sở tri thức và kỹ năng của họ. Phụ huynh và sinh viên phải nhận thức được rằng, tiêu chí tuyển dụng hiện nay của các công ty không chỉ dựa trên bằng cấp mà còn đòi hỏi năng lực làm việc và các kỹ năng mềm.
Giáo dục đại học hiện tại yêu cầu sinh viên phải lập kế hoạch nghề nghiệp tương lai TRƯỚC khi sinh viên vào đại học. Họ cần phải nghiên cứu thị trường việc làm, xác định những nghề phù hợp và có tiềm năng phát triển sự nghiệp nhất. Họ cần phải khảo sát và tìm hiểu những công việc nào có nhu cầu tuyển dụng tại địa phương nơi họ sinh ra và phổ dụng toàn cầu. Họ cần phải tiếp cận những người đã đi làm để lấy những thông tin cần thiết, chẳng hạn như một người tốt nghiệp đại học trong lĩnh vực/chuyên ngành này có thể làm được những công việc gì, lương bổng ra sao, những kỹ năng/thế mạnh được thị trường ưa chuộng là gì?... Chính sinh viên phải chủ động tìm hiểu, tìm hiểu một cách tích cực. Không chỉ thế, còn phải liên tục so sánh thông tin thu thập được từ nhiều nguồn với nhau, tự mình hình thành cảm nhận về “độ chính xác” và “mức độ đáng tin” của những nguồn thông tin này.
Nhiều thanh niên có xu hướng chọn lĩnh vực/chuyên ngành đại học dựa trên sở thích cá nhân hoặc thành tích học tập trong quá khứ. Nhưng rất ít người tự đặt ra câu hỏi “Có bao nhiêu việc làm được mở ra cho những người tốt nghiệp đại học của lĩnh vực/chuyên ngành này?”. Nhiều người thường lẫn lộn giữa sở thích và nghề nghiệp. Sở thích là thứ mà bạn có thể tận hưởng; nhưng sở thích không phải lúc nào cũng có thể trở thành nghề nghiệp, mang lại lợi ích và thu nhập, giúp bạn kiếm sống. Trong trường hợp học sinh trung học không phân biệt được việc “làm vì yêu thích” và “làm để kiếm sống” thì các bậc phụ huynh cần giúp họ phân biệt và hướng dẫn thật kỹ càng.
Một số sinh viên xem ti vi hay đọc tạp chí, họ nghĩ: “Việc này có vẻ vui. Mình có thể làm việc này”. Họ chọn vì họ nghĩ công việc này vui và hấp dẫn nhưng không hề ý thức được nhu cầu của thị trường. Vài năm trước, một sinh viên chia sẻ với tôi rằng: “Trước đây, em từng xem một chương trình trên ti vi, thấy họ trang trí nhà cửa và em nghĩ em muốn làm điều đó. Công việc có vẻ vui, hơn nữa em còn rất thích trang trí mọi thứ. May mắn thay, ngay trong năm nhất đại học em kiếm được việc làm thêm vào mùa hè. Em được nhận vào làm nhân viên trang trí nội thất cho một công ty. Trong suốt mùa hè đó, em chỉ làm duy nhất một công việc là giao dịch để bán đồ đạc và trả lời điện thoại. Thực tế, em chẳng cần được giáo dục đại học để làm việc đó. Đó cũng chính là lúc em nhận ra sự khác biệt giữa những câu chuyện được chiếu trên ti vi và thực tại. Đây cũng là lý do tại sao em chuyển sang học ngành khoa học máy tính”.
Các bậc phụ huynh và sinh viên cần phải hiểu rằng không phải mọi lĩnh vực học tập hoặc chuyên ngành đào tạo được dạy trong trường đại học đều có giá trị và khả năng mang lại lợi ích ngang nhau. Tất nhiên, tất cả đều cung cấp bằng cấp sau khi sinh viên hoàn thành khóa học, nhưng chúng không đảm bảo việc làm. Khi bạn chọn một lĩnh vực học tập hoặc chuyên ngành nào đó, hãy tự đặt câu hỏi kiểu như: Những người tốt nghiệp lĩnh vực/chuyên ngành này có thể làm những công việc gì? Những sinh viên đã tốt nghiệp lĩnh vực/chuyên ngành này (của trường đại học nơi bạn định thi vào) hiện tại đang làm việc ở đâu? Mức lương tối thiểu mà một sinh viên mới ra trường nhận được là bao nhiêu? Cơ hội thăng tiến và phát triển nghề nghiệp của lĩnh vực/chuyên ngành này như thế nào? Phần lớn các sinh viên tốt nghiệp từ lĩnh vực/chuyên ngành này hiện có làm việc đúng ngành đúng nghề mà họ đã học hay không? Các công ty hoạt động trong lĩnh vực/chuyên ngành này thường ưu tiên tuyển dụng những sinh viên tốt nghiệp từ trường nào?...
Bạn không nên chọn một nghề đặc biệt nào đó khi nghề này không có tương lai và không có việc làm. Trong thế giới lý tưởng, bạn có thể học mọi thứ bạn quan tâm và gắn bó với công việc bạn yêu thích suốt phần đời còn lại. Tuy nhiên, trong thế giới cạnh tranh nơi chúng ta đang sống, sinh viên cần cân nhắc tới cuộc sống thực tế của bản thân sau khi tốt nghiệp.
NHỮNG SAI LẦM SINH VIÊN THƯỜNG MẮC PHẢI
Nhiều sinh viên bước vào đại học với thái độ và thói quen học tập khi còn là một học sinh trung học. Đó là sai lầm lớn. Kỹ năng học tập mà sinh viên học được ở trường trung học thực sự không đủ để đáp ứng các yêu cầu thực tế khi vào đại học. Bởi vì chương trình đào tạo đại học đòi hỏi sự chủ động nhiều hơn, nguồn tài liệu cũng đa dạng và phong phú hơn so với trung học. Nếu không chuẩn bị bài thật kỹ ở nhà, sinh viên sẽ không thể theo kịp chương trình giảng dạy trên lớp. Do đó, tôi cho rằng các sinh viên nên chú ý và cân nhắc việc điều phối lượng thời gian dùng để TỰ HỌC TẠI NHÀ với lượng thời gian tham gia các hoạt động khác. Nói cách khác, sinh viên cần phải ý thức và cống hiến nhiều thời gian “học tập trong trường đại học” hơn mới có đủ hành trang cần thiết để vào đời. Đừng bao giờ quên, bạn vào đại học là để được giáo dục và chuẩn bị cho tương lai, không phải để phí hoài và thất vọng.
Đại học là khoảng thời gian của nhiều sự thay đổi. Khi bạn vào đại học, bạn cần học cách tự lập và trưởng thành, học cách chịu trách nhiệm cho mọi hành động của bản thân. Một trong những chìa khóa thành công ở đại học là học cách quản lý thời gian, phân bổ thời gian để học tập, làm quen với bạn mới và mở rộng các mối quan hệ xã hội cần thiết cho tương lai, tham gia các hoạt động ngoại khóa và hoạt động xã hội để có thêm kinh nghiệm. Để làm được điều đó, sinh viên phải học cách thu xếp, ưu tiên và xác định tầm quan trọng của từng hoạt động trong từng thời điểm. Tôi luôn khuyên các sinh viên của tôi đặt việc học lên đầu tất cả các danh sách ưu tiên. Tôi yêu cầu họ đọc tài liệu trước khi tới lớp để chúng tôi có thể dành nhiều thời gian hơn cho thảo luận, đặt câu hỏi và cùng tìm kiếm câu trả lời thay vì ngồi nghe bài giảng một cách bị động theo phương pháp dạy và học truyền thống.
Một trong những sai lầm mà sinh viên thường mắc phải khi vào đại học là “bỏ lớp”. Do mới chuyển từ môi trường học tập “bị giáo viên kiểm soát” sang môi trường học tập tự do, sinh viên thường có xu hướng nghỉ học và bỏ tiết nhiều hơn so với lúc còn học trung học. Khoảng thời gian này thường được sinh viên tiêu phí vào nhiều hoạt động mang tính giải trí và tụ tập. Đây là sai lầm lớn vì các chương trình đào tạo đại học thường có xu hướng dồn nhiều nội dung khó vào một bài giảng, tốc độ chạy bài rất cao nên giảng viên thường cháy giáo án khi cố gắng đi chi tiết vào từng mảng kiến thức một.
Với nhịp điệu giảng dạy nhanh và khối lượng kiến thức nhiều như vậy, bỏ lớp chính là cách khiến bạn tụt lại. Nếu bạn tụt lại và không thể tiếp thu hết nội dung đào tạo, bạn sẽ không theo kịp lớp, đồng thời không thể hoàn thành các tín chỉ cần thiết để lấy được bằng. Đừng bao giờ nghĩ rằng giáo sư đại học sẽ theo sát và giúp đỡ bạn nhiều như giáo viên trung học. Không ai quan tâm tới việc bạn bị tụt lại. Bạn cũng đừng nghĩ đến chuyện “chơi cho hết năm nhất” rồi mới bắt đầu học đàng hoàng. Một khi bạn đã bỏ lớp, bạn sẽ tiếp tục trượt dài.
Một số sinh viên nghĩ rằng họ có thể ghi nhớ tài liệu ngay tại lớp và dễ dàng vượt qua các bài kiểm tra. Điều đó có thể đúng khi bạn còn học phổ thông nhưng không đúng khi bạn vào đại học. Bạn không thể học nhồi nhét mọi thứ trong thời gian ngắn. Thứ nhất, khối lượng kiến thức và tài liệu trong chương trình đào tạo đại học không giống với bậc phổ thông, bạn không được “giới hạn” trong bộ sách giáo khoa nào cả; chúng đủ nhiều để nhấn chìm bạn. Thứ hai, sinh viên không nên nghĩ chỉ cần học thuộc lòng tài liệu là có thể đáp ứng yêu cầu. Học thuộc kiến thức thôi chưa đủ, bạn phải áp dụng kiến thức sẵn có trong đầu, kết hợp với khả năng tự luận để trả lời câu hỏi.
Vào trường đại học, trung thực là một đức tính vô cùng quan trọng. Là một sinh viên, bạn phải tránh gian lận và không để bản thân mình lâm vào tình huống “tổn hại danh dự”. Gian lận bao gồm cả cho, nhận hay sử dụng sự trợ giúp không trung thực trong bất cứ hoạt động nào ở trường đại học.
Sao chép công trình của bạn bè là điều sinh viên thường mắc phải. Về căn bản khi bạn gian lận để vượt qua sự đánh giá của nhà trường, bạn đang gian lận với chính mình. Gian lận khiến bạn tuột mất cơ hội học hỏi. Xin hãy xem xét việc này một cách nghiêm túc. Bạn tới trường để học. Nếu bạn không học và tìm cách để gian lận thì bạn cần tự hỏi bản thân mình: “Mình đang làm gì ở đây?”, “Tại sao mình lại phí hoài thời gian của bản thân và tài chính của gia đình như vậy?”…
Đại học là khoảng thời gian căng tràn nhiệt tình tuổi trẻ trong cuộc đời của mỗi người. Bạn sẽ gặp gỡ bạn bè mới, có thêm trải nghiệm mới, tham gia các hoạt động mới,… tất cả những điều đó đều đòi hỏi thời gian và sức lực. Bạn không thể trở thành một sinh viên tốt nếu bạn để bản thân bị kiệt sức bởi các hoạt động giao lưu và giải trí. Bạn mệt mỏi; điều đó có nghĩa là bạn không thể duy trì sự tỉnh táo trong lớp, đồng thời cũng có nghĩa là bạn không thu thập được gì cho tương lai của bạn.
Trở thành sinh viên đại học, bạn có tương lai rộng mở nhưng bạn chỉ có khoảng bốn năm để biến giấc mơ tương lai trở thành hiện thực. Bạn chỉ có bốn năm để chuẩn bị và xây dựng nghề nghiệp trong suốt quãng đời còn lại. Cho nên tôi hy vọng các bạn sẽ coi trọng khoảng thời gian này thay vì để mọi thứ trôi qua vô ích.
HAI ĐIỀU SINH VIÊN CẦN LƯU Ý TRONG QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
Điều đầu tiên sinh viên phải làm là tổ chức thời gian biểu và lịch học. Nắm được nội dung của các lớp bạn phải dự trong năm và lên kế hoạch cho thời gian biểu TỰ HỌC TẠI NHÀ tương ứng. Quy tắc đơn giản là: để chuẩn bị cho 1 giờ trên lớp bạn phải dành ít nhất 2 giờ tự học tại nhà và ít nhất 1 giờ học nhóm cùng bạn bè trong lớp. Nếu bạn học hành nghiêm chỉnh thì bạn sẽ thấy rằng bạn không còn mấy thời gian dành cho những hoạt động khác; nhưng đồng thời bạn sẽ nhận ra bạn học được nhiều thế nào.
Sinh viên nên lựa chọn cẩn thận và tự tạo ra nhóm học tập của mình. Một nhóm học tập nhỏ từ 3 tới 5 người (không tổ chức nhóm nhiều hơn 7 người) cần đọc qua tài liệu (không gộp chung khoảng thời gian tự học một mình) ít nhất 2 giờ TRƯỚC KHI gặp nhau tại nhóm học tập. Các sinh viên trong một nhóm có thể chia sẻ kế hoạch học tập với nhau và nhắc nhở nhau tuân thủ nguyên tắc của nhóm.
Mục đích sinh viên học theo nhóm là để ôn lại tài liệu và tự đặt ra câu hỏi trong trường hợp còn vấn đề bản thân chưa hiểu dù đã tham gia đầy đủ các bài giảng trên lớp. Nếu cả nhóm đều không hiểu rõ, sinh viên có thể hỏi giáo sư và đề nghị giáo sư giải thích trên lớp. Đó là lý do sinh viên cần hình thành và duy trì nhóm học tập.
Điều thứ hai sinh viên phải làm là tuân thủ chương trình môn học một cách cẩn thận. Chương trình môn học thể hiện sự mong đợi của giảng viên và nhà trường bao gồm: chính sách chuyên cần, chính sách cho điểm, danh sách tài liệu tham khảo, cách thức phân công và hình thức của các bài kiểm tra xuyên suốt các tiết học. Nếu bạn chủ động lên kế hoạch học tập tương ứng từ sớm và tuân thủ kế hoạch này, bạn sẽ không bao giờ phải học nhồi nhét trước mỗi kỳ thi. Hãy tạo ra thói quen đến lớp sớm và chuẩn bị các câu hỏi về những điều bạn không hiểu. Điều đó sẽ lôi kéo sự chú ý của giảng viên, giúp giảng viên quan tâm đến bạn hơn và hỗ trợ bạn khi cần. Tạo ra thói quen ngồi ngay tại hàng ghế đầu của lớp để dễ nhìn thấy bảng hay máy chiếu.
MỘT SỐ ĐIỀU SINH VIÊN NÊN BIẾT VỀ THỊ TRƯỜNG TUYỂN DỤNG
Văn hóa châu Á đánh giá cao những người được giáo dục bài bản. Đó chính là lý do khiến các bậc phụ huynh châu Á luôn muốn cho con cái họ tới trường để đảm bảo rằng chúng được giáo dục trở thành công dân tốt và có khả năng đóng góp cho xã hội. Trong nhiều năm, bằng cấp là biểu tượng của người được giáo dục và có tri thức; nhưng ngày nay có nhiều trường cấp bằng mà không thực sự cung cấp chương trình đào tạo nghiêm chỉnh, đồng thời cũng có nhiều sinh viên theo đuổi bằng cấp nhưng chỉ tập trung thi cho qua môn chứ không học được gì trong suốt quá trình học tập. Đó là lý do tại sao hiện nay nhiều người có bằng cấp nhưng lại không có tri thức cơ sở, không có kỹ năng và tất nhiên là không có việc làm. Vì nhu cầu của thị trường lao động đang thay đổi nhanh chóng dưới sự tác động của công nghệ, bằng cấp không còn đảm bảo cho khả năng làm việc cụ thể. Phần lớn các công ty đều có cách kiểm tra riêng để tuyển lựa những người có kỹ năng cần thiết, đáp ứng được yêu cầu của công việc.
Vấn đề là nhiều sinh viên KHÔNG biết điều này. Thay vì tập trung học cách vận dụng kiến thức và rèn luyện kỹ năng, sinh viên chỉ chăm chăm vào việc làm thế nào để có được bằng cấp. Điều đó làm phát sinh nhiều vấn nạn, chẳng hạn như mua điểm, mua bằng giả, thuê người thi hộ… Đồng thời cũng là lý do tại sao nhiều bậc phụ huynh cảm thấy thất vọng khi “con cái có bằng cấp” nhưng không thể kiếm được việc làm; còn sinh viên sau khi tốt nghiệp thường cảm thấy thất vọng khi bằng cấp không giúp họ kiếm được việc làm họ muốn.
Ngày nay, hầu hết các công ty đều KHÔNG muốn đào tạo lại nhân viên vì thanh niên thường có xu hướng “nhảy việc” trong trường hợp cảm thấy không hài lòng ngay sau khi công ty đào tạo lại. Trong thế giới cạnh tranh này, người tốt nghiệp đại học phải chứng minh rằng họ có đủ kỹ năng để đáp ứng công việc, đồng thời còn cần tới khả năng tiếp tục tự học và cập nhật kiến thức mới để giữ việc làm của họ. Nhưng phần lớn những kỹ năng này không được dạy trong chương trình đào tạo tại trường đại học. Trong khi “thế giới bên ngoài” liên tục thay đổi với tốc độ chóng mặt dưới sự tác động của công nghệ thì “thế giới bên trong” cánh cổng trường đại học lại chuyển mình chậm chạp.
Vậy sinh viên phải làm sao mới có thể biết được rằng những kỹ năng nào đang được cần và những công việc nào đang tuyển dụng? Những thông tin này có sẵn trên Internet. Nhưng sinh viên thường không nhận thức được công việc có sẵn xung quanh họ. Đó chính là lý do sinh viên bị động trong việc tìm kiếm thông tin. Họ không biết phải làm sao để có được thông tin cần thiết, càng không có khả năng phân biệt đâu là nguồn thông tin chất lượng và đâu là nguồn thông tin lừa đảo, thất thiệt.
Phần đông sinh viên cầm hồ sơ đi xin việc không biết công ty mà họ xin vào hoạt động trong lĩnh vực nào, thậm chí có cả những sinh viên không biết tên đầy đủ của công ty là gì; họ càng không biết các công ty cần thuê người có những kỹ năng nào, bằng cấp ra sao và thường bị lẫn lộn giữa các loại hình công ty. Điều đáng lo ngại là hiện nay sinh viên quá thụ động. Họ không nỗ lực tìm hiểu và đáp ứng nhu cầu của nhà tuyển dụng; không biết cách tạo hồ sơ xin việc sao cho phù hợp với từng công ty trong từng lĩnh vực cụ thể (đa số chỉ nghĩ rất đơn giản là ra nhà sách mua một bộ hồ sơ rồi khai đúng theo mẫu).
Nhiều sinh viên phó mặc và chờ đợi. Họ mong nhà tuyển dụng chấp nhận mình nhưng không bao giờ nghĩ đến chuyện tìm hiểu xem nhà tuyển dụng cần gì để có thể chuẩn bị những điều này ngay trong khoảng thời gian được đào tạo trong trường đại học.
Ngày nay, phần lớn các công ty thường tập trung tuyển dụng những người có kỹ năng giải quyết vấn đề. Họ dùng các kỹ thuật phỏng vấn theo kịch bản để kiểm tra khả năng của người xin việc. Tuy nhiên, nhiều sinh viên không có kinh nghiệm với những kỹ thuật kiểm tra này nên không biết cách chuẩn bị câu trả lời sao cho phù hợp.
Sau đây là một vài ví dụ:
Đối với vị trí quản lý dự án, công ty có thể hỏi: “Với tư cách là người quản lý dự án, bạn được cấp một khoản ngân sách. Bạn sẽ làm gì để đánh giá mức ngân sách này? Bạn sẽ làm gì nếu ngân sách ít hơn nhiều so với những gì mà dự án cần? Bạn sẽ làm gì nếu các yêu cầu thay đổi nhưng ngân sách không đổi?”.
Với công việc marketing, công ty có thể hỏi: “Bạn được tuyển vào bộ phận marketing cho một công ty lớn. Công ty phát triển một sản phẩm mới và muốn quảng cáo sản phẩm này thông qua các phương tiện xã hội thay vì trên báo chí. Nếu việc này được giao cho bạn thì bạn sẽ sử dụng những công cụ nào? Những công cụ này sẽ tiếp cận những nhóm khách hàng nào? Và bạn sẽ làm gì để thông tin về sản phẩm được truyền đi khắp nơi trên Internet?”.
…
Hiện nay, sinh viên đại học thường không được tuyển dụng vì hai lý do: Một, họ không có đủ tri thức và kỹ năng. Hai, họ không biết họ muốn gì trong lĩnh vực mà họ theo học. Về căn bản, phần lớn sinh viên chỉ nghĩ họ muốn có việc làm và cho rằng họ xứng đáng có việc làm tốt bởi vì họ có bằng cấp (đa số sinh viên thậm chí còn không giải thích được “tốt” ở đây có nghĩa là gì, họ thường nói chung chung kiểu “việc làm có lương cao”). Khi được hỏi “Kế hoạch phát triển nghề nghiệp của bạn trong vòng 3 năm tới là gì?”, phần lớn sinh viên không thể đưa ra câu trả lời thích hợp.
Đáng buồn là nhiều người tốt nghiệp đại học không được hướng dẫn cũng không được giáo dục cách lập kế hoạch nghề nghiệp, đồng thời không ý thức được việc mình cần phải bổ sung những mảng kiến thức và kỹ năng nào để đáp ứng cho nghề nghiệp sau này. Họ có thể dành nhiều thời gian để học nhưng hiếm khi học thêm bất kỳ cái gì khác bên ngoài giáo trình nhà trường cung cấp. Họ không đọc thêm cũng không theo dõi xu hướng thị trường cho dù những thông tin này không hề khó kiếm.
Người thành công hiểu nhu cầu của thị trường lao động. Họ biết cách lập kế hoạch nghề nghiệp, họ được chuẩn bị để giải quyết vấn đề và sẵn sàng đóng góp cho công ty. Bên cạnh đó, những người thành công thường là những người có thái độ đúng đắn trong việc tự học và học suốt đời. Họ liên tục cập nhật tri thức để chuẩn bị cho mọi biến động có thể xảy đến trong tương lai. Họ cảm nhận được quá trình toàn cầu hóa. Họ nhìn vào bức tranh lớn, nhìn vào thị trường thế giới thay vì giới hạn bản thân trong thị trường lao động tại địa phương. Họ học ít nhất một ngoại ngữ vì họ biết rằng đây chính là vũ khí quan trọng giúp họ phát triển nghề nghiệp và giúp họ tiếp nhận những thử thách mới trong công việc.
Trong thị trường việc làm hiện tại, tri thức chuyên môn vẫn rất quan trọng nhưng các kỹ năng mềm khác như: trao đổi, làm việc nhóm, lãnh đạo và tri thức tổng quan về doanh nghiệp cũng quan trọng không kém. Để thành công, sinh viên còn cần tự rèn luyện đạo đức và phẩm chất cá nhân, siêng năng và có tinh thần trách nhiệm. Nếu hệ thống giáo dục không dạy điều đó cho bạn thì bạn phải tự mình đầu tư cho bản thân. Tôi chỉ muốn nhắc lại một điều: Tương lai của thanh niên chính là tương lai của đất nước.