Câu thơ làn gió mát
Rừng sém cây nhú chồi
Vượt đạn bom khói lửa
Vầng trăng chung lứa đôi
Câu thơ mang hương lúa
Dòng sông chớp cánh cò
Đêm nằm mơ cánh võng
Đi suốt mùa Trường Sơn
Xuân Hùng
Câu thơ làn gió mát
Rừng sém cây nhú chồi
Vượt đạn bom khói lửa
Vầng trăng chung lứa đôi
Câu thơ mang hương lúa
Dòng sông chớp cánh cò
Đêm nằm mơ cánh võng
Đi suốt mùa Trường Sơn
Những ký ức một thời lửa đạn, những kỷ niệm không thể nào phai, hay những thổn thức cõi lòng mà “gần cả cuộc đời” người lính ấy đau đáu trăn trở để viết nên những vần thơ dạt dào lắng đọng về đồng đội, về tình yêu, về quê hương Kinh Bắc thân thương…
Nguyễn Hồng Minh từng tâm sự: “Bản thân tôi coi thơ như khoảng lặng cuộc đời, là niềm vui, là nỗi đau trăn trở khi viết về đồng đội, những chị em Thanh niên xung phong đã hy sinh hoặc thương tật trong chiến trường ác liệt. Thơ tôi như một sự tri ân với đồng đội, sau hòa bình còn gặp nhiều vất vả trong cuộc sống đời thường…”.
Ông là người lính một thời dọc ngang trên những cung đường huyền thoại Trường Sơn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Từ dốc Ba Thang, ngầm Tà Lê trên con đường 20 Quyết Thắng cho đến đèo Phu La Nhích trên đất bạn Lào… rồi lại vinh dự đi trong đoàn quân tiến thẳng vào Dinh Độc Lập giữa giờ phút thiêng liêng của ngày 30 tháng Tư lịch sử, hơn ai hết Nguyễn Hồng Minh đã trải qua những vinh quang và đau đớn; những mất mát, hy sinh mà chính anh và những người đồng đội của mình đã phải gửi lại nơi cửa ngõ Sài Gòn để đổi lấy cuộc sống hôm nay.
Dẫu rằng những ngày tháng vinh quang mà khốc liệt ấy đã trôi qua gần nửa đời người. Nhưng người lính ấy vẫn khôn nguôi nghĩ về đồng đội, về những “con người huyền thoại” đã hiến trọn tuổi thanh xuân cho Tổ quốc thân yêu. Và, trong trái tim của người lính Trường Sơn năm nào, một chữ “tình” luôn trĩu nặng, để từ đó vọng lên những thổn thức dạt dào mà thắm đượm, để những “khúc tình ca người lính” được cất lên.
Khi nhắc đến chữ “tình” trong thơ chống Mỹ, chắc chắn chúng ta sẽ gặp ngay những cái tên rất đỗi thân quen như: Phạm Tiến Duật, Chế Lan Viên, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Nhuận Cầm… và rất nhiều những tên tuổi khác đã một thời cất công xây dựng “một tượng đài đồ sộ thi ca” mang tầm vóc thời kỳ lịch sử của một dân tộc và đậm tính nhân văn sâu sắc: “Đi trong rừng anh nói với em/ Nói với những ai mai sau sẽ hỏi/ Về những vùng rừng không dân/ Nơi bao người đi qua hầu hết tuổi thanh xuân…” (Phạm Tiến Duật), rồi: “Yêu em yêu cả khoảng trời/ Sương giăng buổi sớm, nắng đời chiều hôm/ Tháng Tư giông chuyển bồn chồn/ Hạt mưa vây ấm nỗi buồn cách xa…” (Nguyễn Khoa Điềm), hay: “Cái chiến hào tha thiết ở trong tôi/ Xanh thăm thẳm lưng đèo giao thừa tới/ Người con gái cõng mình qua đạn xối/ Tình yêu thầm, kín lại lối giao liên…” (Hoàng Nhuận Cầm)… Còn rất nhiều nữa những vần thơ trĩu nặng chữ tình của “tượng đài bất hủ của thi ca kháng chiến” ấy mà chúng ta không thể nào kể hết. Nhưng theo tôi, chữ “tình” ở đây không đơn thuần chỉ là thứ tình yêu trai gái, mà nó mang nặng tâm thế của một thời lửa đạn sục sôi. Chữ “tình” như một điều gì đó vừa thiêng liêng cao cả, lại vừa chất chứa nỗi niềm và cả sự bình dị. Nó là sự hun đúc của tâm hồn người chiến sĩ cầm bút. Trong cái không khí phơi phới “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” ấy, tình yêu lứa đôi cũng thường gắn liền với tình yêu quê hương, đất nước, con người. Cũng chính bởi điều đó nên khi bắt gặp thơ của Nguyễn Hồng Minh, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra cái “tình” rất thật thà, gần gũi ở những điều nhỏ nhặt tưởng chừng như không mang tầm vóc của sự bi tráng nhưng lại mang nặng sự đa cảm của tâm hồn.
Nguyễn Hồng Minh đã viết: “Điều anh muốn nói với em/ Không ba lô nào chứa nổi… Mang nỗi nhớ cồn cào nỗi nhớ/ Ở hai đầu ta gửi cho nhau…”.
Những câu thơ bình dị, thật thà, gần gũi như những lời được thốt ra từ chính trái tim của người lính Trường Sơn ấy. Những tâm sự mà mỗi người lính một thời mang vào chiến trận muốn gửi tới người mình yêu quả thật “không ba lô nào chứa nổi”. Tình yêu da diết cồn cào, để nỗi nhớ chất chồng lên nỗi nhớ, và để đến cuối cùng, người lính phải tự xoa dịu lòng mình bằng những tưởng tượng về nhau: “Ở hai đầu ta gửi cho nhau”. Điều này làm ta chợt nhớ đến những nỗi thiết tha mà nhà thơ Dương Soái đã nói hộ người lính nơi biên cương xa xôi, gửi gắm những nỗi niềm về người mình yêu thương ở tận cuối sông Hồng. Họ đã gửi cho nhau nỗi nhớ bằng những biến chuyển của không gian, của thời tiết, của “gió mùa Đông Bắc”… và của cả những “vụ mới nơi quê hương”…
Ngày ấy, nhà thơ Nguyễn Mỹ đã từng làm nức lòng người đọc bằng “Cuộc chia ly màu đỏ” đầy nước mắt khát khao và hừng hực niềm tin. Còn với Nguyễn Hồng Minh, cũng là “những cuộc chia ly”, nhưng anh lại đem đến cho chúng ta một “Cuộc chia ly màu tím” với sự lãng mạn và đồng điệu. Không rực rỡ, cháy bừng bừng như “Cái màu đỏ như màu đỏ ấy” của Nguyễn Mỹ, mà ngược lại, nó mộc mạc nhưng thắm đượm như lời người con gái của miền quan họ khi tiễn người yêu lên đường ra mặt trận: “Em biết anh vào nơi gian khổ/ Bom đạn rập rình chẳng tránh một ai/ Chiến tranh đâu ngày một ngày hai…”, với một sự thấu hiểu chiến tranh có phần cụ thể và sâu sắc. Để rồi cuối cùng, cô đã đi đến quyết định: “Em cùng anh vượt qua chông gai/ Trút lửa hờn vào đầu ngọn súng/ Bằng tình yêu lứa đôi cháy bỏng…”. Một tình yêu sục sôi cháy bỏng đã tiễn nhau đi bằng “Cuộc chia ly tím màu chung thủy”, để rồi mãi mãi về sau, trong tâm hồn họ vẫn luôn “Vọng bài ca bất diệt tình yêu”…
Lại một lần nữa xin được nhắc đến lời tự bạch của Nguyễn Hồng Minh: “Tôi vốn sinh ra không phải để làm thơ, nhưng cuộc kháng chiến của dân tộc đã giúp tôi được đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều lứa tuổi. Cuộc sống đã cho tôi nhiều trải nghiệm, đặc biệt là những năm tháng sống - chiến đấu ở Trường Sơn và mặt trận B2…”. Là một người lính với biết bao trải nghiệm đường đời, Nguyễn Hồng Minh đã từng được nếm trải những đắng cay ngọt bùi trong cuộc sống. Và cũng có lẽ “đến với thơ như tiếng lòng tri ân”, để bộc bạch những trăn trở, những đau đáu anh từng ấp ủ… nên dù thơ ông mới phần nào chạm được vào vỉa tầng của thế giới thi ca (không thể đem ra so sánh với những “tượng đài” bất hủ), nhưng bù lại khi đọc thơ ông, chúng ta sẽ có được sự thật thà, bình dị và gần gũi như chính cái “chất” của người Kinh Bắc vốn “trọng chữ tình” ấy. Đọc những vần thơ kháng chiến của Nguyễn Hồng Minh, với những ngôn từ mộc mạc nhưng cũng không kém phần lắng đọng, bởi cách anh “tả thực” bằng thơ cái ngày cả nước sục sôi lên đường ra mặt trận: “Ai không tin ngày chúng tôi ra trận/ Thằng thiếu cân nhét đá túi quần/ Đo chiều cao kiễng cẳng nhón chân/ Tuổi mười sáu khai thành mười tám…”. Hay cảnh sống chiến trường gặp những cô gái Trường Sơn: “Chúng em ở đây soi chải đầu bằng nước/ Bom đạn rung gương vỡ rạn rơi/ Quý nhất ở đây là vải sô, bồ kết/ Chút xà phòng “chuyện con gái” anh ơi…”. Và cách Nguyễn Hồng Minh tả về những cô gái mở đường: “Cô gái Trường Sơn/ Bám trụ bên đường/ Xe anh thông/ Ngày mai vào tuyến lửa/ Nơi trọng điểm màu xanh không còn nữa/ San hố, đắp đường, xẻ núi, đắp sông…/ Bàn tay gầy, vết chai tháng năm/ Cơn rét rừng nước da đen sạm/ Tóc rụng đầu giấu dưới vành khăn/ Quà gửi em chiếc khăn rằn/ Vài lá hương nhu/ Nắm bồ kết, cây trồng trước ngõ…”. Đúng là “sự thật thà trong thơ” mà chúng ta rất hiếm gặp hôm nay…
Những sinh hoạt đời thường nhưng thật thà đến khó tin mà Nguyễn Hồng Minh đã dụng công đưa vào trong thơ ông chỉ đơn giản, mộc mạc và tỉ mỉ về những câu chuyện “bếp núc” tưởng chừng như vụn vặt ở đời. Để được ra trận thì “nhét đá túi quần, kiễng cẳng nhón chân…”, còn với những cô gái Trường Sơn thì “soi chải đầu bằng nước” hay “vải sô, bồ kết” rồi đến cả “chuyện con gái” cũng được phơi bày. Nhưng, đằng sau những điều giản dị mà tưởng chừng như vụn vặt ấy, Nguyễn Hồng Minh lại mang đến cho ta một niềm tin thực sự của thi ca: “Chiến thắng hôm nay từ điều nhỏ nhất/ Bởi các em là: Cô gái Trường Sơn”…
Bên cạnh những câu thơ giữa mịt mùng lửa đạn Trường Sơn, chúng ta lại bắt gặp một “Nguyễn Hồng Minh - một tình yêu chất chứa mọi tình yêu”. Bởi xen lẫn giữa không gian khốc liệt của chiến trường là một giọng điệu thiết tha trĩu nặng quê hương, những da diết với bạn bè, đồng đội: “Quá nửa đời người/ Suốt một thời trai trẻ/ Anh không quên/ Câu quan họ quê mình…”. Luồn sâu vào lứa đôi là tình yêu quê hương da diết, một tình yêu mà tôi chắc chắn rằng sẽ không dừng lại ở “quá nửa đời người” mà có thể nó sẽ chạy suốt cả cuộc đời ông cũng sẽ không bao giờ quên được nơi gắn mình những năm tháng tuổi thơ. Bởi quê hương dù có xác xơ cũng luôn buộc chặt tâm hồn mỗi con người chúng ta. Nhất là với Nguyễn Hồng Minh - một người lính được sinh ra ở vùng quê quan họ thắm đượm tình người. Nơi mà luôn có những: “Cay cay khói bếp buổi chiều/ Mẹ ngồi lửa hắt liêu xiêu bóng buồn/ Mặt trời xế tắt hoàng hôn/ Gù gù… gà mẹ gọi con về chuồng”, hay “Bếp nghèo bện khói rạ tuôn/ Mà lòng ấm áp tình thương quê nhà…”. Những hình ảnh mang đậm bản sắc quê hương quan họ đã níu giữ và ám ảnh anh như sự níu kéo tâm hồn mỗi người với quê hương. Cái tình quê mà dẫu con người có đi xa “Hơn nửa đời người” vẫn phải: “Dùng dằng... Ai ơi câu quan họ.../ Đi hết cuộc đời... mà chẳng đến nơi”…
Đơn giản vậy thôi nhưng có lẽ cũng đã đủ để ta suy ngẫm, bởi với Nguyễn Hồng Minh, những khắc khoải cuộc sống, những nếm trải đường đời đã đem lại cho ông một vốn sống vô cùng phong phú. Ông có được cái triết lý của lẽ đời, những lớn lao đều bắt đầu từ những điều nhỏ nhất. Và những điều tưởng chừng như vụn vặt lại chính là sự trải nghiệm được chắt lọc bởi cõi lòng đau đáu, trĩu nặng một “khúc tình ca”…
Còn nhiều lắm từ “Khúc tình ca người lính” mà chỉ khi đọc và suy ngẫm ta mới có thể cảm nhận được. Đến với thơ là để trải lòng mình. Thơ như sự tri ân, tri ân quê hương, tri ân bạn bè, tri ân đồng đội, và có cả tri ân cuộc đời…
Xin được trân trọng giới thiệu đến các đồng chí và bạn đọc!
Hà Nội, 30-4-2021