“Em nghĩ chúng ta đã có tất cả,” Sachs nói. Rhyme đẩy xe lại gần chỗ cô trong phòng khách nhà anh.
Cô giải thích với anh, Ackroyd và Sellitto về các bằng chứng mà họ khám phá được, rồi thêm vào các phân tích của cô và Cooper. “Chỗ đội bảo vệ môi trường - Một Trái Đất ấy? Không tìm được gì ở đó, ngoài một số manh mối kết nối Shapiro với chỗ ấy, nhưng ông ta là giám đốc, tất nhiên ông ta phải ở đó hàng ngày. Báo cáo phân tích hiện trường của Sở cảnh sát bang New Jersey tại địa điểm tự sát ở Palisades cũng không phát hiện được gì về người Nga hay các quả bom ga. Mặc dù vậy, trên xe ô tô của Shapiro, chúng tôi tìm được dấu vết của kimberlite.”
Rhyme nói, “Điều đó kết nối Shapiro với công trường khoan địa nhiệt hoặc Nghi phạm 47 hoặc cả hai.”
“Đúng vậy,” Sellitto nói và thêm vào rằng khám phá này hỗ trợ điều họ đã dự đoán nhưng lại không cho biết được thông tin gì mới.
Sachs nói tiếp, kể cho những người hiện diện nghe rằng việc lục soát căn hộ nhỏ của Shapiro ở thượng Manhattan, nơi ông ta sống một mình, cũng không đưa lại đầu mối nào. Nhưng họ rút ra được vài lời giải thích.
Ở bên dưới một cái đệm, cô phát hiện ra tấm bản đồ công trường địa nhiệt, với vị trí Khu vực Bảy được khoanh tròn, năm trăm ngàn đồng rúp của Nga - khoảng tám tám ngàn năm trăm đô- la Mỹ, chắc là khoản thưởng cho Nghi phạm 47 khi công việc hoàn thành – và hai chiếc điện thoại ẩn danh, hiện tại đã không còn hoạt động. Lịch sử cuộc gọi của chúng đã bị xoá.
“Tôi đã lấy dấu vân tay trên hai điện thoại – không có kết quả gì – và gửi chúng tới chỗ Rodney. Chúng ta sẽ xem các thiên tài máy tính có lấy được thông tin gì không. Còn gã ông ta đã thuê? Người Nga? Chắc chắn hắn là lính đánh thuê. Nhưng tôi cá là hắn cũng cùng chung tư tưởng. Cứu Trái Đất, đòi lại công lý bởi những thiệt hại chúng ta đã gây ra. Hắn chỉ làm thêm vài việc cho Shapiro: các vụ tra tấn, những quả bom trên ống ga.”
Sachs nói thêm cô đã phát hiện nhiều bằng chứng dấu vết trong căn hộ của Shapiro, một số trong đó cho thấy nhà hoạt động môi trường đã có mặt ở nhiều nơi khác nhau quanh khu vực trung tâm: mẫu khoáng chất và đất cát và dầu diesel và vật liệu từ cây cối. Có thể chúng đã bị mang vào căn hộ của Shapiro theo vết giày của Nghi phạm 47, nhưng nếu không có thêm bằng chứng nào để khoanh vùng nhỏ hơn các vị trí ấy, chúng cũng chẳng giúp được gì cho họ trong việc tìm ra hắn.
Rhyme để ý thấy Sachs đang nhìn vào biểu đồ, trên đó cô đã ghi lại các phát hiện của họ. Khuôn mặt cô có vẻ bâng khuâng. Cô quay lại và thấy ánh mắt anh. Cô nói, “Thật đáng buồn, anh biết đấy.”
“Buồn ư?” Sellitto lẩm bẩm. “Thằng khốn ấy đã giết cả mấy mạng người đấy.”
“Ồ, tôi biết. Ông ta đã quá sốt sắng, lầm đường lạc lối. Nhưng anh phải thấy căn hộ của ông ta.” Cô giải thích rằng trong nhà chất đầy cả ngàn cuốn sách, phần lớn là về môi trường. Có hàng chục tấm poster phản đối và các bức ảnh ông ta đã dán lên các mặt tường tróc lở: chụp Shapiro và đồng đội bị bỏ tù hay bị bắt – có lần còn bị xịt hơi cay – hậu quả của các đợt biểu tình khác nhau. Cô tưởng tượng ông ta đã treo chúng lên với niềm tự hào và rất yêu thích những kỷ niệm ấy.
“Nó giống như một điện thờ với lý tưởng của ông ta vậy. Ông ta đã làm nhiều việc tốt. Tính tới lúc này.”
Tất nhiên, giết người vẫn là giết người.
Rhyme để ý thấy Sachs đã chụp một bức ảnh khác trong căn hộ của Shapiro: một chiếc bình đựng tro bằng sứ màu đen và vàng, bên trên là một tấm thẻ bằng đồng. Nó chứa tro cốt của vợ ông ta. Ông ta đã chú thích lên đó. Sachs nói, “Em đã tìm kiếm thông tin về bà ấy. Bà ấy chết vì bệnh ung thư, có thể là do một vụ tràn chất thải độc hại từ hồi bà còn niên thiếu.”
Lúc này, Rhyme quay đi và di chuyển đến chỗ chuyên gia bảo hiểm, Edward Ackroyd, người hùng của giây phút hiện tại - bởi chính ông ta là người đóng vai trò then chốt trong việc phá vụ án này. Ông ta đang cố liên lạc lại với người bán kim cương ở Manhattan, người đã hé lộ tên Ezekiel Shapiro. Nhà hoạt động môi trường đã gọi đến chỗ người bán kim cương để hỏi về nguồn cung cấp viên thô cho Jatin Patel. Có đúng là ông ta đã mua kim cương từ các khu mỏ đàn áp người bản địa không?
Ackroyd đã hi vọng là người bán lẻ có thêm thông tin gì - thậm chí là một đầu mối về người Nga mà Shapiro đã thuê.
Rhyme nhìn mãi ra ngoài cửa sổ. Một cơn bão tuyết nhẹ trong đêm đã bao phủ đám rau trồng trước dinh thự nhà anh. Anh tự hỏi những tinh thể băng sắc lạnh kia có giết chết đám cây không, hay là chúng chẳng có tác dụng gì ngoài việc nhất thời bao bọc lấy lá và nụ trong một cái kén trong suốt. Chiếc kén sẽ hắt ra ánh sáng cầu vồng, như kim cương, dưới ánh Mặt Trời.
Ackroyd vừa cúp máy điện thoại. “Được rồi. Tôi đã gọi được cho người bán lẻ. Ông ta vẫn còn hoảng hốt nhưng tôi nghĩ là ông ta thấy mặc cảm – vì Patel đã bị giết sau khi ông ta kể cho Shapiro nghe về ông ấy. Tôi sẽ đi nói chuyện với quý ông này.”
Rhyme nhìn người đàn ông mặc áo khoác vào bằng những động tác chính xác.
Ackroyd nói thêm, “Hãy cùng vòng ngón tay cầu nguyện nào.” Giọng ông ngập ngừng khi liếc sang chỗ Rhyme, như đột nhiên nhớ ra rằng Lincold Rhyme đâu phải là người có thể vòng bất kỳ ngón tay nào.
Mắt họ chạm nhau và cả hai cùng cười.
Từ một điểm nhìn lợi thế trong một bụi cây bốc mùi chua lòm ở Central Park – rõ ràng nơi đó rất nổi tiếng với lũ chó thành phố - Vladimir Rostov theo dõi người đàn ông có thể hình trung bình, mái tóc vàng cát trong chiếc áo choàng màu be đang bước ra khỏi dinh thự mà hắn vừa tìm hiểu được là của một người tên Lincoln Rhyme. Người đàn ông kéo sát chiếc áo choàng quanh người, chống lại cái lạnh.
Lạnh, lạnh ư? Ha. Thế này đã là gì, kuritsa. Mời đến Moscow vào tháng Một.
Ông ta bước xuống một lối đi dành cho người tàn tật rồi đi lên vỉa hè trong lúc tránh vài vũng băng. Ông ta rẽ lên hướng bắc và băng qua phố bên kia, rồi rẽ hướng tây, đi khỏi công viên.
Rostov rẽ bụi cây ra và nhanh chóng bước theo ông ta, đi qua giữa hai chiếc taxi. Vừa thu hẹp khoảng cách, Rostov vừa cúi đầu xuống. Bạn phải giả sử là CCTV có mặt ở mọi nơi và được tích hợp các ống kính độ phân giải cao. Hắn cũng cho là vài cái có chạy phần mềm nhận diện khuôn mặt, mặc dù theo chỗ hắn được biết thì mặt hắn không có trong bất kỳ một cơ sở dữ liệu nào. Ít nhất là không có ở Hoa Kỳ.
A, kuritsa, chậm lại nào, chậm lại. Mày đang đi quá nhanh so với một con gà mái đĩ điếm.
Tâm trạng của Rostov đã cải thiện và hắn đã vượt qua cơn giận dữ trước bước lùi mới nhất - ở nhà Adeela, đứa con gái Ả-rập tóc đen. Mọi chuyện còn tệ hơn, trong lúc hắn bỏ chạy và cảnh sát đang tới, hắn đã thoáng trông thấy chính thằng nhóc Vimal trong gara! Nó đang ở trong nhà đó. Và giờ thì nó đã được bảo vệ với tư cách là một nhân chứng.
Lúc ấy thì giận thật, nhưng giờ thì khá hơn rồi. Tập trung vào nhiệm vụ trước mắt hắn.
Phải, Người hứa hẹn có một kế hoạch dự phòng thứ hai, kuritsa! Mày không biết sao?
Rostov trông thấy người đàn ông mà hắn đang lần theo tiếp cận một chiếc Ford màu xám và bấm vào nút điều khiển. Đèn khẽ nhá lên. Rostov chỉ còn cách ông ta sáu mét và hắn tăng tốc, đầu vẫn cúi. Khi ông ta kéo mở cánh cửa bên ghế lái và thả người vào ghế, Rostov cũng làm việc tương tự bên ghế cho khách.
“Kuritsa!”
Người tài xế giật mình lùi lại kinh ngạc, mắt chớp chớp. Rồi ông ta và Rostov nhìn nhau.
Người Nga mỉm cười. Và giơ một bàn tay ra. Người lái xe lắc đầu với nụ cười nhăn nhở, nắm lấy lòng bàn tay dày thịt của Rostov và dùng tay trái ấn vào bắp tay hắn, một cử chỉ truyền tải sự nồng ấm dè dặt. Nó là một dạng chào hỏi có thể diễn ra giữa hai người lính trước kia từng là kẻ thù – và trong tương lai vẫn có thể - nhưng ít nhất ngay lúc này, họ là các đồng minh chung chí hướng.