Tôi nghe như vậy: Một thời Đức Thế Tôn du hóa các nước, đến thành Quảng Nghiêm, nghỉ dưới cây Âm Nhạc. Cùng với tám nghìn vị đại Tỳ kheo, ba vạn sáu nghìn vị đại Bồ tát, các hàng quốc vương, các quan đại thần, các Bà la môn, các hàng cư sĩ, trời, rồng, Dược xoa, nhân và phi nhân, v.v. vô lượng đại chúng cung kính vây quanh, vì họ nói pháp.
Lúc bấy giờ, Mạn Thù Thất Lợi Pháp vương tử, nương uy thần Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, để bày vai phải, gối phải quỳ xuống đất, hướng về Đức Bạc Già Phạm, cúi mình chắp tay bạch rằng: “Thế Tôn! Cúi mong Ngài dạy rõ về các danh hiệu cùng đại nguyện công đức thù thắng của chư Phật, khiến người nghe pháp nghiệp chướng tiêu trừ, đem lại lợi lạc cho chúng hữu tình ở thời tượng pháp”.
Lúc ấy, Đức Phật khen ngợi Mạn Thù Thất Lợi đồng tử rằng: “Lành thay! Lành thay! Mạn Thù Thất Lợi! Con dùng lòng đại bi mà cầu thỉnh Ta nói danh hiệu cùng bản nguyện công đức của chư Phật, là vì muốn dứt sợi dây nghiệp chướng trói buộc chúng sinh và vì lợi ích an vui cho các hữu tình ở thời tượng pháp. Các con hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ, Ta nay sẽ nói cho các con rõ”.
Ngài Mạn Thù Thất Lợi thưa rằng: “Xin vâng! Kính mong Đức Thế Tôn nói, chúng con muốn nghe”.
Đức Phật dạy Mạn Thù Thất Lợi rằng: “Đông phương cách đây qua hơn mười hằng hà sa số cõi Phật, có một thế giới tên Tịnh lưu ly, danh hiệu Phật ấy là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chính Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Bạc Già Phạm.
Mạn Thù Thất Lợi! Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia, khi còn hành đạo Bồ tát, Ngài đã phát mười hai nguyện lớn khiến cho hữu tình cầu gì cũng được.
Nguyện lớn thứ nhất:
Ta nguyện đời sau, khi giác ngộ thành Phật, thân Ta sáng chói, rực rỡ chiếu khắp vô lượng vô số vô biên thế giới, dùng ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ đẹp nơi thân để tự trang nghiêm; khiến cho tất cả hữu tình đều được như thân Ta không khác.
Nguyện lớn thứ hai:
Ta nguyện đời sau, khi giác ngộ thành Phật, thân như lưu ly, trong ngoài sáng suốt, sạch không vết bẩn, hào quang rộng khắp, công đức cao vời, thân thường an trú nơi lưới báu trang nghiêm sáng rực còn hơn vầng nhật nguyệt. Chúng sinh trong cõi u tối đều nhờ ánh sáng ấy, tùy ý đến các nơi xây dựng sự nghiệp.
Nguyện lớn thứ ba:
Ta nguyện đời sau, khi giác ngộ thành Phật, đem vô lượng vô biên trí tuệ phương tiện, khiến cho các hữu tình đều có được vật dụng đủ đầy và không để chúng sinh nào phải thiếu thốn.
Nguyện lớn thứ tư:
Ta nguyện đời sau, khi giác ngộ thành Phật, nếu có các hữu tình thực hành tà đạo, Ta sẽ khiến họ đều được an trụ trong đạo Bồ đề. Nếu người thực hành Thanh văn, Độc giác, Ta cũng đều dùng đạo Đại thừa mà an lập cho họ.
Nguyện lớn thứ năm:
Ta nguyện đời sau, khi giác ngộ thành Phật, nếu có vô lượng vô biên hữu tình, ở trong giáo pháp của Ta tu hành phạm hạnh, Ta đều khiến đạt được giới hạnh không khiếm khuyết, đủ Ba tụ giới. Nếu có hủy phạm mà nghe danh hiệu Ta rồi, thì lại được thanh tịnh và không rơi vào nẻo ác.
Nguyện lớn thứ sáu:
Ta nguyện đời sau, khi giác ngộ thành Phật, nếu các hữu tình thân thể hèn kém, các căn không đủ, xấu xí, khờ khạo, đui mù, tai điếc, câm ngọng, tay chân què quặt, lưng gù, lác hủi, điên cuồng, cùng các bệnh khổ, nghe danh hiệu Ta rồi thì tất cả đều được đoan chính, thông minh, các căn đủ đầy và không còn các bệnh khổ.
Nguyện lớn thứ bảy:
Ta nguyện đời sau, khi giác ngộ thành Phật, nếu có các hữu tình bị các thứ bệnh khổ bức bách, không ai cứu chữa, không nơi nương nhờ, không thầy không thuốc, không nhà cửa, không bạn bè thân thích, bần cùng khốn khổ. Một khi nghe qua tai danh hiệu của Ta, hết mọi thứ bệnh đều được dứt trừ, thân tâm an lạc; nhà cửa, quyến thuộc, của cải đều được sung túc, cho đến chứng được Vô thượng Bồ đề.
Nguyện lớn thứ tám:
Ta nguyện đời sau, khi giác ngộ thành Phật, nếu có người nữ nào bị trăm điều xấu ác của thân nữ bức bách, não loạn, sinh lòng chán ghét, muốn bỏ thân nữ, nghe danh hiệu của Ta rồi, tất cả đều được chuyển nữ thành nam, đủ tướng trượng phu, cho đến chứng được Vô thượng Bồ đề.
Nguyện lớn thứ chín:
Ta nguyện đời sau, khi giác ngộ thành Phật, khiến các hữu tình thoát khỏi lưới ma, giải thoát tất cả trói buộc của ngoại đạo, nếu có kẻ nào rơi vào rừng rậm ác kiến, Ta đều dẫn dắt họ về nơi chính kiến, dần dần tu tập các hạnh Bồ tát, mau chứng được đạo Vô thượng Bồ đề.
Nguyện lớn thứ mười:
Ta nguyện đời sau, khi giác ngộ thành Phật, nếu có các hữu tình mắc phải vương pháp, bị xiềng xích đánh đập, giam giữ trong tù ngục, hoặc bị tử hình cho đến vô số những tai nạn nhục nhã khác, khiến buồn thảm khôn nguôi, thân tâm đau đớn; nếu nghe danh hiệu Ta, nhờ nơi sức uy thần phúc đức của Ta, tất cả đều được thoát khỏi ưu sầu đau khổ.
Nguyện lớn thứ mười một:
Ta nguyện đời sau, khi giác ngộ thành Phật, nếu có các hữu tình, bị đói khát bức bách, vì tìm miếng ăn mà tạo các nghiệp ác, được nghe danh hiệu Ta, một lòng thụ trì, thì trước hết Ta sẽ đem thức ăn ngon để họ dùng no đủ, rồi sau đem pháp vị an lạc, giải thoát để huân đúc cho họ.
Nguyện lớn thứ mười hai:
Ta nguyện đời sau, khi giác ngộ thành Phật, nếu có các hữu tình nghèo khó không có áo quần, ruồi muỗi cắn đốt, nóng lạnh dãi dầu, đêm ngày khổ sở; nếu nghe danh hiệu Ta, một lòng thụ trì, khiến được như ý muốn, liền được vô số áo quần đẹp đẽ, lại được các món báu trang nghiêm, tràng hoa, phấn sáp cùng các món âm nhạc, tùy tâm vui thích, đều được đầy đủ.
Này Mạn Thù Thất Lợi! Đó là mười hai lời nguyện nhiệm mầu của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chính Đẳng Giác đã phát nguyện khi Ngài còn đang hành đạo Bồ tát.
Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi! Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia đã phát đại nguyện khi thực hành đạo Bồ tát, cùng công đức trang nghiêm ở cõi Phật ấy. Dù trong một kiếp, hay hơn một kiếp, Ta nói cũng không hết được.
Nhưng cõi nước của Đức Phật ấy một bề thanh tịnh, không có người nữ, cũng không có đường ác, không có tiếng khổ. Đất làm bằng lưu ly, có dây bằng vàng giăng bên đường đi; thành quách, cung điện, lầu gác, mái hiên, cửa sổ, các lớp lưới giăng, cũng đều do bảy báu làm thành. Chẳng khác gì các công đức trang nghiêm ở thế giới Cực lạc Tây phương.
Ở trong cõi nước ấy có hai vị đại Bồ tát là Nhật Quang Biến Chiếu và Nguyệt Quang Biến Chiếu, là hai vị thượng thủ trong vô lượng vô số chúng Bồ tát, tiếp đến được bổ xứ làm Phật, và đều đủ khả năng giữ gìn kho báu chính pháp của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.
Cho nên Mạn Thù Thất Lợi! Những vị thiện nam, tín nữ nào có lòng tin, hãy nên nguyện sinh về thế giới của Đức Phật ấy”.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo Mạn Thù Thất Lợi đồng tử rằng: “Này Mạn Thù Thất Lợi! Có các chúng sinh không biết thiện ác, chỉ ôm lòng tham lam bỏn xẻn, không biết bố thí và quả báo của sự bố thí, ngu si không có trí tuệ, thiếu mất đức tin, chứa nhiều tài sản của báu rồi chỉ bo bo nắm giữ. Thấy người nghèo đến xin thì họ không vui, giả như buộc phải bố thí thì họ coi như cắt thịt nơi thân, trong lòng vô cùng đau đớn, nuối tiếc. Lại có vô lượng chúng sinh tham lam, bỏn xẻn, tích chứa tiền của, đến ngay bản thân mình còn chẳng dám tiêu dùng, huống gì có thể cho cha mẹ, vợ con, tôi tớ, kẻ giúp việc và người hành khất xin ăn? Các chúng hữu tình ấy, ở đời này khi mạng chung sẽ đọa xuống cõi ngạ quỷ, hoặc đầu thai vào loài bàng sinh.
Nhưng nhờ khi xưa ở nhân gian, từng được nghe qua danh hiệu của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, nay ở nơi cõi ác, tạm nhớ nghĩ đến danh hiệu của Đức Phật ấy, liền từ nơi đó chết đi tái sinh trở lại làm người. Nhớ lại kiếp trước, sợ đau khổ nơi đường ác nên không say đắm dục lạc, thích làm việc bố thí, ca ngợi người bố thí, không tham tiếc bất cứ thứ gì, dần dần còn có thể đem cả thân mình như: đầu, mắt, tay, chân, máu huyết, v.v. bố thí cho người đến xin, huống còn tiếc gì các thứ của cải vật dụng khác.
Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi! Nếu có các hữu tình, tuy nhận các học xứ từ nơi Đức Phật, mà lại phá giới.Có vị tuy không phá giới mà lại phá phép tắc. Có vị tuy không sai phạm giới và phép tắc, nhưng hủy hoại chính kiến. Có vị tuy không hủy hoại chính kiến mà lại bỏ đa văn, đối với nghĩa lý sâu xa trong khế kinh mà Đức Phật nói, không thể hiểu rõ. Có vị tuy đa văn nhưng lại Tăng thượng mạn, do Tăng thượng mạn che lấp tâm tính nên cho mình là đúng, người khác sai quấy, chê bai chính pháp, kết đảng với ma. Những người ngu si như vậy, tự bản thân đã làm việc tà kiến, lại khiến vô lượng ức chúng hữu tình rơi xuống vực sâu nguy hiểm. Các hữu tình này đọa vào địa ngục, bàng sinh, ác thú lưu chuyển không cùng; nếu được nghe danh hiệu Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, liền bỏ việc làm xấu ác, tu các pháp lành, không đọa vào đường ác.
Giả sử có người không thể bỏ được các hạnh ác, tu tập pháp lành, phải rơi vào nẻo ác, nhưng nhờ uy lực bản nguyện của Đức Phật kia, khiến cho người đó trong hiện tại được tạm nghe danh hiệu; nhờ đó mạng chung, sinh lại loài người, thấy biết chân chính, tinh tiến, khéo điều hòa được tâm ý, liền có thể bỏ cuộc sống gia đình để phát tâm xuất gia. Ở trong giáo pháp của Như Lai, thụ trì giới cấm mà không hủy phạm; được chính kiến, đa văn, thấu rõ nghĩa lý thâm diệu, lìa tâm Tăng thượng mạn, không nhạo báng chính pháp, không làm bạn với ma, lần lần tu tập các hạnh của Bồ tát, mau được viên mãn.
Lại nữa Mạn Thù Thất Lợi! Nếu có các hữu tình, tham lam, keo kiệt, đố kỵ, khen mình chê người, phải đọa vào trong ba đường ác, vô lượng trăm nghìn năm chịu các thống khổ; chịu đau đớn khổ sở ấy rồi, mạng chung, sinh trở lại nhân gian, làm thân trâu ngựa, lừa và lạc đà, thường bị đánh đập, đói khát thiêu đốt bức bách, lại phải chở nặng đi đường dài. Hoặc được làm người, sinh vào nơi hạ tiện, làm thân tôi tớ, bị người khác sai khiến, không khi nào được tự do.
Nếu xưa ở trong cõi người, từng nghe danh hiệu Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, do nhân lành này mà nay nhớ lại rồi thành tâm quy y. Nhờ thần lực Đức Phật mà thoát khỏi các khổ, các căn thông lợi, trí tuệ đa văn, hằng mong cầu giáo pháp thù thắng, thường gặp bạn lành, dứt hẳn lưới ma, phá nát vỏ vô minh, tát cạn sông phiền não, giải thoát tất cả sinh, già, bệnh, chết, ưu tư, sầu bi, khổ não.
Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi! Nếu có các hữu tình ưa thích sự ngang trái chia lìa, tranh đấu, kiện tụng lẫn nhau, não loạn mình và người, đem thân, miệng, ý làm lớn mạnh thêm vô số ác nghiệp, thường làm những chuyện không ích lợi, oán kết rồi mưu hại lẫn nhau. Chiêu mộ các thần núi, thần cây, thần gò đồi; sát hại chúng sinh rồi lấy máu thịt cúng tế quỷ Dược xoa, La sát, v.v. Viết tên người oán cừu, làm hình tượng của những người ấy, dùng chú thuật tà ác để nguyền rủa. Hoặc dùng cách yểm đối, ma quái, đầu độc, niệm chú chiêu vời quỷ tử thi, khiến cho kẻ oán thù phải tán thân, mất mạng.
Do vậy, các hữu tình, nếu được nghe danh hiệu Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì những việc tà ác kia, đều không thể hại được. Tất cả người oán thù đều sinh lòng từ bi, lợi ích an vui, không có ý tổn thương, não hại và tâm đố kỵ, oán hận. Ai ai cũng đều hỷ xả vui vẻ, đối với những việc mà mình phải chịu đều hoan hỷ biết đủ, không tổn hại nhạo báng nhau, mà sẽ cùng nhau làm điều ích lợi.
Lại nữa Mạn Thù Thất Lợi! Nếu có bốn chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ, cùng các tịnh tín thiện nam, tín nữ khác, đều có thể thụ trì tám phần trai giới trong một năm, hoặc chỉ ba tháng thụ trì giới pháp. Đem căn lành này, nguyện sinh thế giới Cực lạc Tây phương của Đức Phật Vô Lượng Thọ, được nghe chính pháp nhưng chưa quyết định.
Nếu nghe danh hiệu Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đến khi mạng chung sẽ có tám vị đại Bồ tát xuất hiện, danh hiệu các vị ấy là:
Văn Thù Sư Lợi Bồ tát,
Quán Thế Âm Bồ tát,
Đắc Đại Thế Bồ tát,
Vô Tận Ý Bồ tát,
Bảo Đàn Hoa Bồ tát,
Dược Vương Bồ tát,
Dược Thượng Bồ tát,
Di Lặc Bồ tát.
Tám vị đại Bồ tát này nương hư không đến, chỉ rõ đường cho người ấy, liền được tự nhiên hóa sinh trong hoa báu đủ các màu sắc ở thế giới kia.
Hoặc có người nhân công đức này mà được sinh lên cõi trời, tuy sinh lên cõi trời, nhưng thiện căn ấy cũng vẫn chưa hết, không còn sinh trở lại vào các đường ác khác.
Tuổi thọ cõi trời đã hết, sinh trở lại nhân gian, hoặc làm Chuyển luân thánh vương, thống nhiếp cả bốn châu, uy đức tự tại, giáo hóa cho vô lượng trăm nghìn chúng hữu tình quay về đường thiện, hoặc sinh vào Sát đế lợi, Bà la môn, cư sĩ giàu có, của tiền dư dật, kho đụn tràn đầy, tướng mạo đoan trang, quyến thuộc sum vầy, thông minh trí tuệ, dũng mãnh uy hùng như đại lực sĩ.
Nếu là người nữ, được nghe danh hiệu Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, chí tâm thụ trì, thì đời sau không còn sinh lại làm thân nữ nữa.
Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi! Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia khi chứng được đạo Bồ đề, nhờ bản nguyện, quán xem các hữu tình gặp phải các thứ bệnh khổ, da vàng, gầy ốm, cảm nhiệt, v.v. hoặc trúng phải những thứ yểm đối, thuốc độc; hoặc là chết yểu, hoặc bị chết ngang, muốn khiến các thứ bệnh khổ ấy được tiêu trừ, lòng mong cầu được mãn nguyện”.
Lúc đó, Đức Thế Tôn nhập vào đại định, được gọi là định “diệt trừ tất cả khổ não cho chúng sinh”. Khi vào định rồi, từ trong nhục kế phóng ra luồng hào quang lớn, trong luồng hào quang ấy diễn nói chú đại Đà la ni:
“Nam mô bạc già phạt đế, bệ sái xã, lũ rô, bệ lưu ly, bát lạt bà, hát la xà giã. Đát tha yết đa gia, a la hát đế. Tam miệu tam bột đà gia, đát điệt tha. Án, bệ sái thệ, bệ sái thệ, bệ sái xã, tam một yết đế sa ha”.
Khi ấy, trong ánh hào quang Đức Thế Tôn nói chú này rồi, đại địa rúng động, phóng ánh hào quang lớn, mọi bệnh khổ của chúng sinh đều được dứt trừ và an ổn, vui vẻ.
“Này Mạn Thù Thất Lợi! Nếu thấy người nam hoặc người nữ nào mắc phải bệnh khổ, thì nên nhất tâm vì người bệnh ấy, thường tắm gội súc miệng sạch sẽ, hoặc trong đồ ăn, hoặc nơi thuốc uống, hoặc trong bát nước không có vi trùng, trì chú này một trăm linh tám biến, rồi cho người ấy uống, thì tất cả bệnh khổ đều tiêu trừ. Nếu có mong cầu điều gì, chí tâm niệm tụng chú này thì cũng được như ý muốn, không bệnh, sống lâu. Sau khi qua đời, sinh về thế giới ấy, được bất thoái chuyển, cho đến khi chứng được đạo Bồ đề.
Cho nên, này Mạn Thù Thất Lợi! Nếu có người nam, người nữ nào, hết lòng ân cần, tôn trọng, cung kính, cúng dàng Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai và thường trì chú này, đừng để cho quên mất.
Lại nữa Mạn Thù Thất Lợi! Nếu có thiện nam, tín nữ nào được nghe tất cả danh hiệu của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng, Chính Đẳng Giác. Nghe rồi tụng trì, sớm mai thức dậy, súc miệng, tắm rửa thân thể sạch sẽ, dâng các loại hoa, đốt hương, xoa dầu thơm, xướng các món âm nhạc để cúng dàng hình tượng. Đối với kinh điển này, nếu tự mình chép, hoặc bảo người khác chép, nhất tâm thụ trì, suy nghĩ nghĩa lý trong kinh. Đối với vị Pháp sư kia, thì nên cúng dàng tất cả những vật cần dùng cho vị ấy, chớ để cho thiếu thốn. Được như vậy, thì nhờ chư Phật hộ niệm mà mọi mong cầu đều được mãn nguyện, cho đến chứng được đạo Bồ đề”.
Lúc ấy, Mạn Thù Thất Lợi đồng tử bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con nguyện sang thời kỳ tượng pháp, sẽ dùng vô số phương tiện, khiến cho những thiện nam, tín nữ có lòng tin trong sạch, đều được nghe danh hiệu của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, cho đến trong giấc ngủ con cũng đem danh hiệu Phật thức tỉnh bên tai họ.
Nếu đối với kinh này, thụ trì đọc tụng, hoặc giảng nói, chỉ dẫn cho người khác, hoặc tự mình chép, hoặc bảo người chép, cung kính tôn trọng, đem các thứ hương hoa, dầu thơm, hương bột, hương đốt, tràng hoa, anh lạc, phướn lọng, các món âm nhạc để cúng dàng, đem tơ lụa năm màu làm túi đựng kinh, quét dọn một nơi sạch sẽ, chưng dọn tòa cao làm nơi để kinh. Lúc ấy, bốn vị đại Thiên vương cùng quyến thuộc của mình, và vô lượng trăm nghìn Thiên chúng đều đến nơi đó cúng dàng hộ trì.
Bạch Thế Tôn! Nếu nơi nào lưu hành kinh báu này, lại có thể thụ trì, thì nhờ vào năng lực bản nguyện công đức của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ấy và năng lực của việc nghe danh hiệu Phật, nên biết rằng chỗ ấy không còn bị bệnh chết ngang, cũng không còn bị quỷ thần xấu ác đoạt lấy tinh khí. Giả sử có bị đoạt mất cũng được trở lại nguyên vẹn, thân tâm an lạc”.
Đức Phật bảo Mạn Thù Thất Lợi rằng: “Đúng thế! Đúng thế! Đúng như lời con nói. Này Mạn Thù Thất Lợi! Nếu có những vị tịnh tín thiện nam, tín nữ nào muốn cúng dàng Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia, thì trước hết nên tạo lập hình tượng Đức Phật ấy, chuẩn bị một tòa cao thanh tịnh rồi tôn trí lên đó; rải các thứ hoa, đốt các loại hương, dùng các loại tràng phan để trang nghiêm nơi ấy. Trong bảy ngày bảy đêm, giữ tám phần trai giới, ăn thức ăn thanh tịnh, tắm gội bằng hương thơm thanh khiết, mang y phục thanh tịnh, không sinh lòng cấu uế, tâm không giận dữ. Đối với mọi hữu tình, sinh lòng lợi ích an lạc, tâm từ, bi, hỷ, xả, bình đẳng, trỗi nhạc ca tụng, tán thán và đi nhiễu về phía bên phải quanh tượng Phật. Lại nên nhớ nghĩ bản nguyện công đức của Đức Phật kia, đọc tụng kinh này, suy nghĩ nghĩa lý trong kinh rồi giảng nói khai thị.
Tùy theo mong cầu mà tất cả đều được toại nguyện như: cầu sống lâu được sống lâu, cầu giàu sang được giàu sang, cầu quan vị được quan vị, cầu con trai, con gái thì được con trai, con gái.
Nếu như có người, bỗng gặp ác mộng, thấy các tướng xấu, hoặc là chim lạ đến đậu, hoặc tại chỗ ở xuất hiện trăm điều quái gở. Người ấy nếu đem các thứ vật dụng quý báu, cung kính cúng dàng Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì những điềm mộng và tướng xấu ác, cùng các điều không lành, đều ẩn mất, không trở thành tai họa.
Hoặc có các sự đáng sợ như nạn nước, lửa, gươm đao, thuốc độc, hiểm trở, voi dữ, sư tử, cọp, beo, gấu, rắn độc, bọ cạp, rết, du diên, muỗi mòng, v.v. nếu có thể chí thành nhớ nghĩ niệm tụng danh hiệu Phật ấy và cung kính cúng dàng thì được thoát khỏi mọi sự sợ hãi.
Khi bị nước khác xâm lăng, trộm cướp hoành hành phản loạn, nếu nhớ nghĩ và cung kính Đức Như Lai ấy, thì đều được thoát khỏi.
Lại nữa Mạn Thù Thất Lợi! Nếu có tịnh tín thiện nam, tín nữ nào cho đến trọn đời mà không kính thờ một vị trời nào khác, chỉ một lòng quy y Phật Pháp Tăng, thụ trì giới cấm, hoặc là năm giới, mười giới, bốn trăm giới của Bồ tát, hai trăm năm mươi giới của Tỳ kheo, năm trăm giới của Tỳ kheo ni, mà có sự hủy phạm các điều giới đã thụ, sợ rơi vào đường ác, nếu ai có thể trọn lòng nhớ nghĩ danh hiệu Đức Phật ấy và cung kính cúng dàng thì nhất định sẽ không bị sinh vào ba nẻo ác.
Hoặc có người nữ trong lúc sinh, chịu đủ thứ đau đớn, nếu có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, lễ bái, tán thán và cung kính cúng dàng Đức Như Lai ấy, thì mọi đau đớn đều sẽ tan biến. Đứa con người ấy sinh ra, thân thể đầy đủ, tướng mạo đoan chính, nhanh nhẹn thông minh, ai thấy cũng hoan hỷ, yên ổn ít bệnh và không bị kẻ phi nhân đoạt mất tinh khí”.
Lúc ấy, Đức Thế Tôn bảo A Nan rằng: “Như Ta tán thán ca ngợi về những công đức của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia, đó là chỗ vô cùng sâu xa của chư Phật, khó có thể hiểu được, con có tin lời đó không?”
A Nan thưa rằng: “Bạch Thế Tôn! Con đối với lời kinh mà Như Lai nói ra, không sinh nghi ngờ. Tại vì sao vậy? Tất cả thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp của Như Lai đều thanh tịnh. Bạch Đức Thế Tôn! Mặt trăng, mặt trời kia có thể rơi rụng; núi Diệu Cao Vương có thể nghiêng đổ, nhưng lời của chư Phật nói ra không bao giờ sai khác.
Bạch Đức Thế Tôn! Có các chúng sinh không đủ niềm tin, nghe nói hành xứ nhiệm mầu của chư Phật liền nghĩ: “Làm sao chỉ niệm một danh hiệu Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai mà lại được công đức lợi ích thù thắng như vậy?” Do đó không tin, ngược lại còn sinh lòng phỉ báng, kẻ ấy chìm mãi trong đêm dài tăm tối, mất đi lợi ích lớn lao, rơi vào các nẻo ác, lưu chuyển không cùng”. Đức Phật bảo Tôn giả A Nan: “Các chúng sinh kia nếu nghe danh hiệu của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, chí tâm thụ trì không sinh nghi ngờ mà bị rơi vào nẻo ác, thật không bao giờ có chuyện đó.
A Nan! Đây là việc làm rất sâu xa của chư Phật, khó có thể tin hiểu. Nay con có thể tiếp nhận, phải biết đều là nhờ uy lực của Như Lai. A Nan! Tất cả Thanh văn, Độc giác và các vị Bồ tát chưa lên Thập địa, v.v. đều không thể tin hiểu như thật, chỉ trừ Bồ tát còn một đời cuối cùng là thành Phật. A Nan! Thân người khó được, tin tưởng cung kính tôn trọng Tam bảo lại càng khó, được nghe danh hiệu Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai lại càng khó hơn.
A Nan! Vô lượng công hạnh Bồ tát, vô lượng phương tiện khéo léo, vô lượng thệ nguyện rộng lớn của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ấy, nếu Ta trong một kiếp hoặc hơn một kiếp nói rộng về việc đó, thì kiếp có thể hết, nhưng hạnh nguyện, phương tiện khéo léo của Đức Phật ấy không có cùng tận”.
Lúc ấy, trong chúng có một vị đại Bồ tát tên là Cứu Thoát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, để bày vai phải, gối phải quỳ xuống đất, cúi mình chắp tay mà bạch Phật rằng:
“Bạch Đại Đức Thế Tôn! Khi chuyển sang thời tượng pháp, có các chúng sinh, lâm vào chỗ khốn cùng với các thứ bệnh tật kéo dài, gầy ốm tiều tụy, không thể ăn uống, môi cổ đều khô rát, thấy bốn phía tối tăm, tướng chết hiện ra; cha mẹ, họ hàng, bạn bè thiện tri thức vây quanh than khóc.
Tuy thân thể người kia vẫn nằm tại đó, mà thấy sứ giả của Diêm ma dẫn thần thức người ấy đến trước mặt pháp vương Diêm ma. Nhưng các chúng sinh đều có thần Câu sinh, tùy theo việc làm của người ấy, hoặc tội hoặc phúc, đều ghi chép hết và trao tất cả cho pháp vương Diêm ma. Lúc ấy, vua Diêm ma tra hỏi người kia, xét tất cả việc đã làm rồi tùy theo tội phúc của họ mà xử tội.
Lúc ấy, họ hàng, bạn bè quen biết của người bệnh, nếu có thể vì người ấy mà quy y Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, và thỉnh chúng Tăng chuyên tâm trì tụng kinh này, lại đốt đèn bảy tầng, treo thần phan năm sắc nối mạng, làm được việc này thì thần thức người kia sẽ được trở lại.
Như ở trong giấc mộng, tự bản thân thấy rõ ràng; hoặc trải qua bảy ngày, hoặc hai mươi mốt ngày, hoặc ba mươi lăm ngày, hoặc bốn mươi chín ngày, lúc thần thức người kia hồi phục trở lại, như từ giấc mộng tỉnh dậy, đều tự nhớ biết quả báo của nghiệp thiện và nghiệp ác mà mình phải chịu. Do tự mình chứng kiến báo ứng của nghiệp, nên dù cho có nguy hiểm đến tính mạng cũng không dám gây ra các nghiệp ác nữa.
Cho nên các thiện nam, tín nữ có niềm tin trong sạch, hãy nên thụ trì danh hiệu Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, và tùy theo năng lực của mình mà cung kính cúng dàng”.
Lúc ấy, A Nan hỏi Bồ tát Cứu Thoát rằng: “Thiện nam tử! Cần phải cung kính cúng dàng Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ấy như thế nào? Đèn và tràng phan nối mạng phải làm ra sao?”
Bồ tát Cứu Thoát nói rằng: “Đại đức! Nếu có người bệnh muốn khỏi bệnh khổ, thì hãy vì người ấy thụ trì tám phần trai giới; nên đem đồ ăn, thức uống và các vật dụng khác, sắm sửa theo sức của mình; cúng dàng thầy Tỳ kheo, ngày đêm sáu thời lễ bái cúng dàng Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai; đọc tụng kinh này bốn mươi chín biến; đốt bốn mươi chín ngọn đèn; tạo bảy hình tượng Đức Phật ấy, trước mỗi tượng Phật đặt bảy ngọn đèn, mỗi một ngọn đèn lớn như bánh xe, cho đến bốn mươi chín ngày ánh sáng không tắt; làm lá tràng phan dệt bằng năm màu, dài bốn mươi chín gang tay; nên phóng sinh bốn mươi chín loài khác nhau, thì có thể qua được tai nạn nguy hiểm.
Lại nữa A Nan! Nếu hàng Sát đế lợi, vua quán đỉnh, v.v. lúc tai nạn xảy ra, bao gồm dân chúng bị các nạn ôn dịch tật bệnh, bị nước khác xâm lăng, đảng phái phản loạn, tinh tú quái dị, nhật thực nguyệt thực, mưa gió trái mùa, đến mùa không mưa, lúc ấy nên khởi lòng từ bi đối với tất cả hữu tình, xá tội cho những người bị giam giữ; cúng dàng theo những phương pháp đã nói ở trước, cúng dàng Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia. Do nhờ căn lành này và bản nguyện của Đức Như Lai kia, khiến cho cả nước ấy liền được an ổn; mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, tất cả hữu tình không bệnh tật lại được vui vẻ; ở trong nước ấy không có các thần Dược xoa bạo ác, não loạn chúng sinh; mọi tướng xấu ác đều ẩn mất; hàng Sát đế lợi và vua quán đỉnh, v.v. đã không bệnh tật, được tự tại mà mạng sống và sức khỏe cũng đều được tăng thêm.
A Nan! Nếu hoàng hậu, thứ phi, thái tử, vương tử, đại thần, phụ tướng, trung quan, thể nữ, bá quan, lê thứ bị bệnh khổ và các tai nạn nguy ách khác; cũng nên tạo lập thần phan năm màu, thắp đèn tiếp sáng liên tục, thả các chúng sinh, rải các thứ hoa, đốt các thứ hương thơm thượng hạng, thì được lành bệnh, thoát khỏi các tai nạn”.
Lúc ấy, Tôn giả A Nan thưa Bồ tát Cứu Thoát rằng: “Thiện nam tử! Vì sao mạng sống đã hết mà vẫn còn có thể kéo dài thêm?” Bồ tát Cứu Thoát nói: “Đại đức! Ngài há chẳng nghe Như Lai nói có chín thứ chết oan đó sao? Cho nên khuyên treo tràng phan đốt đèn nối mạng, tu tập các công đức. Nhờ phúc đức tu tập, mà cho đến hết đời kẻ ấy cũng không gặp phải bệnh khổ hoạn nạn”.
Tôn giả A Nan thưa rằng: “Chín thứ chết oan ấy là những gì?”
Bồ tát Cứu Thoát đáp: “Nếu các hữu tình mắc bệnh tuy nhẹ nhưng không thầy không thuốc, không có người chăm sóc, nếu có gặp thầy thuốc thì đưa nhầm thuốc, thật không đáng chết mà phải chết oan. Lại tin các ông thầy tà ma ngoại đạo, yêu nghiệt ở thế gian loạn nói về họa phúc rồi đâm ra sợ hãi, khiến cho tâm trạng luôn sợ hãi, bất an. Nên bói quẻ hỏi tìm nguồn gốc tai họa, rồi giết các loài chúng sinh, cầu đảo trước thần linh, gọi các loài Võng lượng để cầu phúc, xin được che chở, mong cầu sống lâu, nhưng rốt cuộc chẳng thể được. Ngu si mê muội, tin theo tà kiến mới đưa đến sự chết oan, rơi vào địa ngục, không có kỳ hạn ra khỏi, đó gọi là loại chết oan thứ nhất.
Hai là chết oan vì bị phép vua xử trảm.
Ba là chết oan vì vui chơi săn bắn, đam mê sắc dục, nghiện ngập rượu chè, phóng túng không dè chừng, bị phi nhân đoạt mất tinh khí.
Bốn là chết oan vì bị lửa thiêu.
Năm là chết oan vì bị đuối nước.
Sáu là chết oan vì bị các thú dữ ăn thịt.
Bảy là chết oan vì bị rơi xuống sườn núi.
Tám là chết oan vì bị thuốc độc, yểm đối, phù chú và quỷ tử thi, v.v. làm hại.
Chín là chết oan vì bị lâm vào cảnh đói khát, không được ăn uống.
Đó là chín thứ chết oan uổng mà Đức Như Lai nói sơ lược như thế. Ngoài ra còn có vô số kiểu chết oan khác, khó có thể nói cho hết.
Lại nữa A Nan! Vua Diêm ma kia chủ lĩnh về sự ghi chép danh sách ở thế gian, nếu các chúng sinh bất hiếu, ngũ nghịch, phá hoại, hủy nhục Tam bảo, trái phép vua tôi, hủy phạm giới pháp, Diêm ma pháp vương sẽ tùy tội nặng nhẹ mà tra hỏi và trừng trị kẻ đó. Cho nên hôm nay Ta khuyên các chúng sinh đốt đèn, tạo phan, phóng sinh, tu phúc, khiến được qua khỏi khổ nạn, không gặp phải các tai ương”.
Lúc ấy, trong chúng có mười hai vị đại tướng Dược xoa, tất cả đều ngồi trong pháp hội, bao gồm:
Đại tướng Cung Tỳ La,
Đại tướng Phạt Chiết La,
Đại tướng Mê Xi La,
Đại tướng An Để La,
Đại tướng Át Nễ La,
Đại tướng San Để La,
Đại tướng Nhân Đạt La,
Đại tướng Ba Di La,
Đại tướng Ma Hổ La,
Đại tướng Chân Đạt La,
Đại tướng Chiêu Đổ La,
Đại tướng Tỳ Yết La.
Mười hai vị đại tướng Dược xoa này, mỗi một vị đều có bảy nghìn Dược xoa làm quyến thuộc, lúc ấy cùng nhau lên tiếng bạch Đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Chúng con ngày hôm nay, mong nhờ uy lực của Phật, được nghe danh hiệu Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, không còn có sự sợ hãi về các đường ác. Chúng con nhắc nhở nhau, đều đồng tâm hiệp lực, cho đến trọn đời quy y Phật, Pháp, Tăng; thệ nguyện sẽ gánh vác tất cả hữu tình, mà làm các việc nghĩa lợi, nhiêu ích và an lạc. Tùy theo bất cứ chỗ nào, hoặc thôn xóm, thành ấp, quốc độ, hoặc trong rừng cây vắng vẻ, nếu nơi nào lưu truyền kinh này, hoặc có người thụ trì danh hiệu Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, cung kính cúng dàng thì quyến thuộc của chúng con sẽ bảo vệ giúp đỡ, đều khiến cho người ấy thoát khỏi tất cả khổ nạn; có nguyện cầu điều gì cũng đều được đầy đủ. Như có ai tật bệnh, nạn ách mà cầu mong qua khỏi, thì cũng nên đọc tụng kinh này, lấy chỉ năm màu kết thành tên của chúng con, khi được như ý nguyện rồi, sau đó mới mở ra”.
Khi ấy, Đức Thế Tôn khen ngợi các vị đại tướng Dược xoa rằng: “Lành thay! Lành thay! Đại tướng Dược xoa! Đúng như thế! Các con nghĩ đến việc báo đáp ân đức của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì thường nên làm lợi ích và an lạc cho tất cả chúng sinh”.
Lúc ấy, Tôn giả A Nan bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nên gọi tên pháp môn này là gì? Chúng con phải phụng trì như thế nào?” Phật bảo A Nan: “Pháp môn này gọi là: Công đức bản nguyện của Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Hay còn gọi tên là: Pháp nói những thần chú kết nguyện của mười hai vị Thần tướng lợi ích hữu tình. Và cũng gọi là: Pháp bạt trừ hết mọi thứ nghiệp chướng. Nên hành trì đúng những nghĩa như vậy”.
Khi Đức Thế Tôn nói lời ấy xong, các vị đại Bồ tát, cùng đại Thanh văn, quốc vương, đại thần, Bà la môn, cư sĩ, trời, rồng, Dược xoa, Kiện đạt phược, A tố lạc, Yết lộ trà, Khẩn nại lạc, Mạc hô lạc già, nhân và phi nhân, v.v. tất cả đại chúng, nghe Phật giảng kinh, đều vô cùng hoan hỷ, tín thụ phụng hành.
BÀI TÁN CHUNG
Hải hội Dược Sư,
Sáng rực thần quang,
Tám vị Bồ Tát giáng cát tường,
Bảy vị Phật tuyên dương.
Nhật nguyệt hồi quang,
Ban phúc thọ an khang,
Dược Sư Phật, Dược Sư Phật,
Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật.
BÀI TÁN NHIỄU ĐÀN
Mười hai Đại tướng Dược xoa,
Giúp Phật tuyên truyền,
Chỉ ngũ sắc kết thành tên,
Cầu nguyện được chu viên,
Rửa sạch mọi oan khiên,
Phúc thọ khang vẹn tuyền.
Nam mô bạc già phạt dế, bệ sái xã, lũ rô bệ lưu ly, bát lạt bà, hát la xà giã, đát tha yết đa gia, a la hát đế, tam miệu tam bột đà gia, đát diệt tha. Án, bệ sái thệ, bệ sái thệ, bệ sái xã, tam một yết đế sa ha.
Giải kết, giải kết, giải oan kết,
Nghiệp chướng bao đời đều giải hết,
Rửa sạch lòng trần phát tâm thành,
Đối trước Phật đài cầu giải kết.
Dược Sư Phật, Dược Sư Phật.
Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật,
Tùy tâm mãn nguyện Dược Sư Phật.
Nam mô Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật. (3 lần)