1. Y báo, chính báo và hạnh nguyện
1.1. Tổng nêu về y báo, chính báo
Đức Phật dạy Mạn Thù Thất Lợi rằng: “Đông phương cách đây qua hơn mười hằng hà sa số cõi Phật, có một thế giới tên Tịnh lưu ly, danh hiệu Phật ấy là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chính Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Bạc Già Phạm.
Từ đây trở về sau là phần Chính tông, nay chia làm ba mục lớn, bao gồm: Như Lai khai thị, Sự hoằng truyền giáo pháp của Bồ tát, Các vị Dược xoa thệ nguyện hộ trì. Phần Như Lai khai thị, trước hết nói về y báo, chính báo và hạnh nguyện của Đức Phật Dược Sư. Trong phần này lại chia làm ba đoạn: trước tổng nêu y báo, chính báo, tức là nêu rõ chính báo (thân Phật) và y báo (thế giới Phật) của Đức Phật.
Phật dạy Mạn Thù Thất Lợi rằng: Từ thế giới chúng ta đang sống hướng về phương Đông, qua hơn mười hằng hà sa số cõi Phật như thế, có một thế giới tên là Tịnh lưu ly. “Hằng hà”, tiếng Phạn là “Gangā”, dịch nghĩa là “Thiên đường lai”, tức là con sông lớn nổi tiếng ở Ấn Độ. “Sa” tức là cát, cát trong sông vừa nhỏ vừa nhiều. Đức Phật thường xuyên giảng pháp ở lưu vực sông Hằng, nên mỗi khi muốn đề cập đến khoảng thời gian lâu dài, Ngài đều lấy cát của con sông Hằng để làm ví dụ. Thế giới Tịnh lưu ly nằm ở phương Đông trái đất của chúng ta, cách xa hơn mười hằng hà sa số cõi Phật. Đức Phật ở cõi ấy tên gọi là “Lưu Ly Quang”.
“Tịnh lưu ly” là thế giới y báo, “Lưu Ly Quang” là tên gọi chính báo của Phật. Chữ Lưu Ly Quang, phần trước đã giải thích. Thế giới tên Tịnh lưu ly, tức là cõi Tịnh độ Thường tịch quang, lấy sự cứu cánh thanh tịnh chân như làm bản thể. Đức Dược Sư Như Lai phá trừ vô minh ám chướng một cách triệt để, chứng được pháp giới thanh tịnh cùng cực, vì vậy mới gọi chung cho những cảnh giới chứng đắc là thế giới Tịnh lưu ly. Vì không lìa pháp giới, viên mãn đại trí tuệ, ánh quang minh soi chiếu khắp nơi, có thể xua tan tất cả ngu si ám muội, do Phật chứng được đại trí tuệ thấy suốt tất cả mà gọi là “Lưu Ly Quang”.
Đoạn văn từ “Như Lai… Bạc Già Phạm” là nói chung về mười danh hiệu tôn quý của Đức Phật. Mười danh hiệu này đều căn cứ vào công đức của Phật mà đặt ra. Vì công đức của Ngài quá lớn, một danh hiệu đương nhiên không đủ để biểu đạt. Đồng thời, theo tập quán thông thường của Ấn Độ, hễ ca tụng hoặc khen ngợi thì đa phần dùng mười danh từ. Đế Thích, Đại Tự Tại Thiên đều có mười hiệu. Tương tự như thế, Phật pháp theo tập tục của thế gian cũng tạm mượn mười danh hiệu để tán thán Đức Phật với ý nghĩa như sau:
1. Như Lai: Phạn ngữ là “Tathāgata”, phần trước đã giải thích.
2. Ứng Cúng: Dịch nghĩa từ chữ “Arhat” của Phạn ngữ. Ý chỉ công đức cao quý của Phật là viên mãn, xứng đáng thụ nhận sự cúng dàng và là ruộng phúc lớn của trời, người. Đồng thời, cũng hàm nghĩa Đức Phật đã dứt sạch phiền não, trọn không còn bị sinh tử luân hồi trở lại.
3. Chính Đẳng Giác: Phạn ngữ là “Samyak- sambuddha”. “Giác” tức giác ngộ, có khả năng thấu triệt tướng trạng của tất cả các pháp, xa lìa mọi phiền não điên đảo. Nhưng nói “Chính Giác” là nói theo Nguyên thủy, Đại thừa gọi là “Chính Đẳng Giác”. “Đẳng” nghĩa là rộng khắp, tức là thấu rõ rộng khắp tính chất chân thực của tất cả các pháp.
4. Minh Hạnh Viên Mãn: Phạn ngữ là “Vidyā- caraṇa-saṃpanna”, bản dịch cũ là “Minh Hạnh Túc”. “Viên Mãn” có nghĩa là tròn đầy, “Minh” là trí tuệ, “Hạnh” chính là các công hạnh như bố thí, trì giới, v.v. Tất cả phúc đức, trí tuệ, công hạnh tự lợi, lợi tha của Phật đều đầy đủ viên mãn, không thiếu không khuyết, cho nên gọi là “Minh Hạnh Viên Mãn”.
5. Thiện Thệ: Phạn ngữ là “Sugata”. “Thệ” có nghĩa là đi, cũng chính là nhập Niết bàn. Thánh giả tu Thanh văn không màng chúng sinh khổ não vô biên, chỉ riêng mình vào Niết bàn thì đó là “thệ” chứ không phải “thiện”. Bậc đại giác ngộ như Đức Phật không lìa sinh tử mà chứng đạo Bồ đề, không bỏ chúng sinh mà vẫn Niết bàn, nên gọi là “Thiện Thệ”.
6. Thế Gian Giải: Phạn ngữ là “Lokavid”. “Giải” là hiểu rõ, đối với sự và lý của thế gian, thấu triệt thật tướng của khổ và nguyên nhân gây đau khổ của chúng sinh, cho đến phương pháp diệt khổ và cảnh giới giải thoát cứu cánh, xa lìa mọi khổ não.
7. Vô Thượng Sĩ: Phạn ngữ là “Anuttara”. “Sĩ” là sĩ phu. Đức Phật là bậc tôn quý nhất, cũng là bậc dẫn đường của trời, người, cho nên tôn xưng là “Vô Thượng Sĩ”.
8. Điều Ngự Trượng Phu: Phạn ngữ là “Puruṣa- damya-sārathi”. “Điều Ngự” cũng giống như người huấn luyện ngựa, có thể huấn luyện con ngựa hung hăng thành con ngựa thuần phục. Đức Phật giáo hóa chúng sinh, bất luận căn tính của họ có xấu ác, ngang ngược đến đâu, cho dù có cang cường, khó điều phục thế nào đi chăng nữa, Ngài cũng thường khéo léo nhiếp hóa, khiến họ dần hướng về tu học Phật pháp mà đạt được thành tựu. Phương pháp giáo hóa của Đức Phật uyển chuyển, tùy duyên không cứng nhắc, tùy chúng sinh mà có sự khác biệt. Có lúc Ngài từ hòa, nói lời êm dịu nhằm tán thán, khích lệ: “Con hãy thực hành bố thí, trì giới. Công đức ấy vô lượng, khó mà có được”. Khi thì Ngài thẳng thắn quở trách: “Con nghiệp chướng sâu nặng, ngu si vô trí, nếu vẫn không tinh tiến tu hành thì tất sẽ đọa vào ba đường ác”. Người giỏi điều phục ngựa ở chỗ uyển chuyển dạy dỗ, huấn luyện, dần dần thuần hóa nó.
9. Thiên Nhân Sư: Phạn ngữ là “Sāstā deva- manuṣyāṇāṃ”. Đức Phật ra đời không chỉ để giáo hóa loài người mà còn giáo hóa cả thiên thần trên trời. Có vô lượng chư Thiên tham dự pháp hội nghe pháp, nên nói Đức Phật là thầy của khắp cả trời người.
10. Phật, Bạc Già Phạm: “Phật”, Phạn ngữ là “Buddha”. Là bậc giác ngộ có thể giác ngộ một cách triệt để về đời sống, cũng như thấu suốt tất cả pháp tướng của thế gian và xuất thế gian. “Bạc Già Phạm”, Phạn ngữ là “Bhagavat”, tức là “Thế Tôn”.
Đoạn này đã giới thiệu ngắn gọn danh xưng cõi Tịnh độ Đông phương và Thánh hiệu của Đức Phật.
1.2. Trình bày riêng về hạnh nguyện
1.2.1. Hạnh nguyện
1.2.1.1. Nêu tổng quát
Mạn Thù Thất Lợi! Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia, khi còn hành đạo Bồ tát, Ngài đã phát mười hai nguyện lớn khiến cho hữu tình cầu gì cũng được.
Trong ba phần y báo, chính báo và hạnh nguyện, đoạn văn trước đã nêu tổng quát về quốc độ (y báo) cùng danh hiệu của Đức Phật ấy (chính báo); bây giờ cần phân biệt, trình bày về hạnh nguyện của Đức Phật Dược Sư. Đoạn văn này dài nên được chia làm ba mục, trước tiên là nêu tổng quát.
Phật bảo Mạn Thù Thất Lợi rằng: Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai của thế giới Tịnh lưu ly ở Đông phương kia, sở dĩ chứng đắc viên mãn quả vị Phật, thành tựu thế giới thanh tịnh trang nghiêm, chính là nhờ trong kiếp sống quá khứ, khi thực hành đạo Bồ tát đã đem tâm đại bi mà phát ra mười hai nguyện lớn dắt dẫn chúng sinh. Đại nguyện mà Đức Phật Dược Sư đã phát lúc ở Nhân địa hoàn toàn khác so với lòng khát khao được thỏa mãn tự ngã của phàm phu, cũng không giống với việc chỉ chú trọng đến liễu sinh thoát tử như hàng Thanh văn (chỉ hoàn thiện bản thân); mà từ đó lưu xuất lòng từ bi nhằm thỏa ý mong cầu của chúng sinh. Nên trong đây nói, đại hạnh nguyện này của Đức Phật Dược Sư là vì để làm cho lòng mong cầu của chúng sinh đều được thành tựu như ý.
Chẳng hạn, mong cầu lìa khổ sinh tử, được vui Bồ đề, hoặc cầu vãng sinh Tịnh độ; nếu bị bệnh tật thì cầu mong được khỏi bệnh, hay vì đời sống thiếu thốn mà mong cầu được đủ đầy. Đức Phật Dược Sư nhân nơi đại công đức và lòng từ bi khéo léo của Ngài, đều có thể tùy theo các loại mong cầu của chúng sinh mà khiến cho họ được đầy đủ, như ý.
Lúc ở Nhân địa, Đức Phật Dược Sư phát ra mười hai đại nguyện, đó là nguyện lực; khiến tất cả mong cầu của hữu tình đều được như nguyện, đó là sau khi thành Phật, khi bản nguyện công đức được thực hiện thì hoàn toàn viên mãn. Đức Phật ở Nhân địa phát nguyện lớn, chẳng phải đợi đến sau khi đã thành Phật, mà chính ngay đời này đã mong hoàn thành tâm nguyện, cầu được đầy đủ. Cứ thế từng chút dứt trừ được các hoặc nghiệp, công đức ngày một tăng trưởng, đến khi thành Phật mới rốt ráo viên mãn. Đức Phật Dược Sư lúc thành tựu đại Bồ đề, luôn một lòng chuyên tâm thực hiện trọn vẹn mười hai bi nguyện rộng lớn như đã phát nguyện. Đó là vì khi Ngài ở giai đoạn Nhân địa Bồ tát, đối với thệ nguyện đã phát ra thường tùy thời, tùy sức dấn thân thực hành, từng bước từng bước phát huy, mỗi lúc mỗi lúc tích góp, nên khi Ngài thành tựu Đại giác thì tất cả đại nguyện cũng được tuyên bố là đã viên mãn. Đức Phật Dược Sư như vậy và Đức Phật Di Đà, v.v. cũng như thế. Chúng ta nương nguyện để ngưỡng cầu thì chắc chắn sẽ được cảm ứng như nguyện, điều này đòi hỏi cần có năng lực cảm ứng của chư Phật tương trợ. Kệ nói rằng:
Phúc tuệ tư lương lực,
Chư Phật gia trì lực,
Cùng với pháp giới lực.
Lời nguyện cầu sở dĩ có thể đi đến sự thành tựu, cần phải có ba loại năng lực này:
1. Tự lực: Tức là phương diện tự thân, cần hội đủ tư lương của phúc báo và trí tuệ, đặc biệt là tín nguyện phải thiết tha. Nếu có vị thầy thuốc giúp chữa bệnh đau mắt cho chúng ta, thì đôi mắt chúng ta có thể sáng tỏ trở lại. Nhưng nếu mắt chúng ta thật sự đã bị hỏng, thì dù vị thầy ấy có tài giỏi đến đâu cũng không cách gì chữa trị được.
2. Lực gia bị của Phật: Lòng bi nguyện của chư Phật, Bồ tát luôn luôn nghĩ nhớ đến chúng sinh, ánh từ quang của các Ngài luôn soi khắp chúng sinh, chỉ cần lòng mong cầu của chúng sinh hợp lý và đúng thời thì đều có thể cảm giao được.
3. Lực pháp giới: Bản tính của tất cả pháp vốn không có sai biệt, bình đẳng, không ngăn ngại. Trong pháp giới, chúng sinh và chư Phật đều bình đẳng, Thánh và phàm cũng tương đồng nhau. Cho nên, chúng sinh có khả năng thành Phật; chư Phật và Bồ tát cũng có khả năng tùy cảm mà ứng hiện. Như vậy, một mặt, nhờ vào lực phúc tuệ của tự thân; mặt khác, nương vào lực gia bị của Đức Phật, mà mọi mong cầu tiêu tai khỏi nạn, lìa khổ được vui của chúng ta đều nhất định có thể thành tựu.
1.2.1.2. Trình bày chi tiết
(1) Nguyện chúng sinh và Phật đều bình đẳng
Nguyện lớn thứ nhất: Ta nguyện đời sau, khi giác ngộ thành Phật, thân Ta sáng chói rực rỡ chiếu khắp vô lượng vô số vô biên thế giới, dùng ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ đẹp nơi thân để tự trang nghiêm; khiến cho tất cả hữu tình đều được như thân Ta không khác.
Từ đây trở xuống, đem mười hai đại nguyện để phân biệt giải thích từng phần.
Đức Thế Tôn nói với Bồ tát Mạn Thù rằng: Phật Dược Sư trong quá khứ đã phát mười hai đại nguyện khi còn ở Nhân địa. Đại nguyện thứ nhất là nguyện chúng sinh và chư Phật đều bình đẳng. Ngài lập nguyện rằng: Về đời sau này, khi Ta giác ngộ thành Phật (chứng được A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề), thì tự thân Ta thường phát ra ánh sáng lớn rực rỡ, chiếu khắp vô lượng vô số vô biên thế giới. “Tam miệu Tam bồ đề” Phạn ngữ là “Samyak-sambodhi”, Hán dịch là “Chính đẳng giác”. Chính giác thuộc về Thanh văn, Đẳng giác thuộc về Bồ tát, cho nên trước chữ Tam miệu Tam bồ đề lại thêm vào chữ A nậu đa la (Anuttara), A nậu đa la dịch là “Vô thượng”.
Vô thượng Chính đẳng giác, tức là viên mãn Phật quả. Chính giác của Đức Phật biến chiếu cùng khắp, cứu cánh cùng tột. Thường nói: “Bỏ gươm đao xuống, lập tức thành Phật”. Nghe qua thì tưởng thành Phật tựa hồ là chuyện rất dễ, kỳ thực cần phải đầy đủ tư lương phúc tuệ, vô biên công đức, tự lợi lợi tha, tất cả đều đạt đến cảnh giới cao tột, viên mãn rốt ráo mới có thể thành Chính đẳng giác. Hành giả tu hành, chỉ là hoặc nhiều hoặc ít, thành tựu một phần nào đó hạnh đức của Phật mà thôi. Đức Phật Dược Sư đã nói: Tương lai khi Ngài thành Phật, thân mình sẽ phóng ra ánh sáng. Ánh sáng cũng giống như ngọn lửa, gọi là “xí nhiên”, từ thân Phật chiếu khắp tất cả thế giới, đây chính là thân tướng đầy đủ của chư Phật.
Sau các tượng Phật đều có một vầng ánh sáng, đó chính là Viên quang tướng (tướng ánh sáng tròn đầy) của “hóa thân” Phật. Đức Phật Tỳ Lô Giá Na có nghĩa là Quang Minh Biến Chiếu, Đại Nhật Như Lai cũng lấy ánh sáng của mặt trời để dụ. Trong kinh Đại thừa thường nói đến hào quang của Đức Phật chiếu sáng vô lượng thế giới. Chúng ta tuy sống ở thời mạt pháp cách xa thời Phật, không thấy được thân tướng của Đức Phật, nhưng chúng ta vẫn được thấm nhuần trong ánh hào quang từ bi của Ngài, chỉ là chúng ta không tự biết đó thôi. Ví như ánh mặt trời, tuy chiếu sáng trên tầng không, nhưng người mù mắt thì không thể nhìn thấy được. Hào quang của Phật cũng vậy, lúc nào cũng chiếu sáng đến cùng khắp mọi nơi, chúng sinh do vô minh phiền não ngăn che, thường ở trong ánh sáng mà không nhận rõ được. Nếu hành giả tu học Phật pháp luôn tinh cần tu học, dứt sạch mọi phiền não trần cấu, thì chuyện thấy hào quang hoặc thân Phật thị hiện là điều đương nhiên.
Khi Đức Dược Sư Như Lai chứng đại Bồ đề, lại lấy ba mươi hai tướng trượng phu, cùng tám mươi vẻ đẹp để trang nghiêm sắc thân. Thân tướng của Đức Dược Sư Như Lai hiển bày tựa như ánh sáng lưu ly tỏa chiếu rực rỡ, sáng trong thuần tịnh biết bao! Lại cộng thêm ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, v.v. càng tôn lên đức tướng viên mãn, trang nghiêm hơn. Ba mươi hai tướng tốt này được Ấn Độ công nhận là tướng của bậc đại nhân, đặc biệt là tướng mạo siêu phàm, thù thắng của người nam. Ở đây không thể trình bày hết từng tướng được, chỉ nói sơ lược một vài tướng như: tướng bàn chân bằng phẳng, tướng nghìn căm xe, tướng thân Phật sắc vàng, tướng duỗi tay dài qua gối, tướng nhục kế, v.v. gồm ba mươi hai tướng (xin xem rõ ở từ điển pháp số).
Căn cứ vào quan điểm đương thời của Ấn Độ, những tướng này được cho là tướng phúc đức, cao quý và trang nghiêm nhất. Chỉ có bậc Chuyển luân thánh vương hay Như Lai mới đầy đủ viên mãn. Tám mươi vẻ đẹp của Phật là từng dáng vẻ nơi thân, bao gồm tất cả vẻ đẹp đặc trưng nào đó như: tay thon mềm mại, tướng ánh sáng nơi lỗ chân lông, tướng khuôn mặt tròn đầy, v.v. Lúc bấy giờ, nhờ đức tướng trang nghiêm nên mỗi lần Đức Thế Tôn đi du hóa, mặc dù Ngài chưa nói pháp nhưng vẫn có rất nhiều người mong muốn xin được quy y. Phật pháp vốn không chấp tướng, nhưng vì để dẫn dắt chúng sinh, khiến chúng sinh vui mừng khởi lên niềm kính tin, mà Đức Dược Sư Như Lai lúc còn ở trong Nhân địa đã phát nguyện có được đầy đủ các tướng phúc đức trang nghiêm này. Bản nguyện của Phật Dược Sư không chỉ là mong muốn cho thân mình sáng chói, đầy đủ các tướng hảo, mà đồng thời còn hy vọng cho tất cả các hữu tình đều được giống như thân Ngài, bình đẳng không có gì khác biệt.
Ở đây có thể căn cứ trên hai phương diện:
1. Căn cứ vào sự bình đẳng giữa chúng sinh và Phật ở thế giới Tịnh lưu ly: thì chúng sinh ở cõi Tịnh độ Đông phương, thân tướng viên mãn giống như Phật, nhưng không thể nói tất cả các hữu tình đều có thân tướng viên mãn giống như Phật được, vì cõi chúng sinh ở thế giới hiện thực này hoàn toàn không phù hợp với sự bình đẳng như vậy.
2. Căn cứ vào Phật tính của tất cả chúng sinh: thì mọi chúng sinh đều có ánh sáng chiếu khắp, đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ đẹp nơi thân. Trong Kinh Như Lai tạng nói rằng: “Tất cả chúng sinh vốn đều có đầy đủ Như Lai tạng, hào quang rực rỡ, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp nơi thân; chỉ vì vô minh che lấp, chưa từng được khai mở, nên các tướng đó ẩn tàng mà không lộ ra”. Việc này phải đến khi thành Phật mới có thể chứng biết một cách như thật. Nên Kinh Hoa nghiêm nói rằng: “Kỳ lạ thay! Kỳ lạ thay! Tất cả chúng sinh đều có đức tướng và trí tuệ của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng chấp trước, nên chưa thể chứng đắc được”.
Tâm Phật thấu rõ mọi chúng sinh đều bình đẳng, không hai. Nói theo ý nghĩa này thì lúc Đức Phật chứng đắc Vô thượng Chính đẳng giác, đại địa chúng sinh đâu đâu cũng là Phật, chúng sinh và Phật đều bình đẳng. Nhưng đứng từ góc độ chúng sinh mà nhìn nhận, thì chúng sinh bị khổ não ngu si che mờ, xưa nay đối với thật tướng của các pháp chưa từng thấy biết, đau khổ triền miên thì làm sao có thể bình đẳng với Phật được? Do đó, có người nói rằng: Chúng ta là phàm phu thì không nên tự cao tự đại, dù cho chân tính của chúng sinh và Phật bình đẳng thì chúng ta vẫn chỉ là chúng sinh. Có người lại nói: Chúng ta phải tin tưởng sâu xa rằng chúng ta chính là Phật. Cũng như Thiền tông vẫn dạy trực chỉ chân tâm, tâm ấy chính là Phật; Mật tông thì nói nếu khởi quán Mạn đà la Phật, thì ngay thân này sẽ thành Phật. Có thể nói, tông nào cũng đều có cái lý riêng của tông đó, và tông nào cũng đúng. Chúng ta là phàm phu nên cần phải tu học, hiểu đạo, và hành trì bởi tự tính của mỗi người đều là Phật tính, nên đều có thể tu hành thành Phật.
(2) Nguyện sự nghiệp xương minh phát triển
Nguyện lớn thứ hai: Ta nguyện đời sau, khi giác ngộ thành Phật, thân như lưu ly, trong ngoài sáng suốt, sạch không vết bẩn, hào quang rộng khắp, công đức cao vời, thân thường an trú nơi lưới báu trang nghiêm sáng rực còn hơn vầng nhật nguyệt. Chúng sinh trong cõi u tối đều nhờ ánh sáng ấy, tùy ý đến các nơi xây dựng sự nghiệp.
Ý nghĩa của đoạn văn này tuy có liên hệ với đại nguyện thứ nhất nhưng dụng ý thì không giống nhau. Nguyện thứ nhất chú trọng về phần pháp tính, pháp thân của Phật, biểu thị chúng sinh và Phật đều bình đẳng. Còn nguyện thứ hai này chú trọng ở nơi pháp tính mà hiện ứng hóa thân, mở bày cho chúng sinh.
“Nguyện lớn thứ hai” mà Đức Dược Sư Như Lai đã phát khi còn ở Nhân địa là: Ta nguyện đời sau, khi giác ngộ rốt ráo thành Phật (Bồ đề, tức là tên gọi tắt của chữ A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề), thân Ta cao quý như ngọc lưu ly, trong ngoài đều vô cùng sáng đẹp, sạch sẽ tinh khiết, không còn mảy may bợn nhơ hay tì vết; hào quang rộng lớn xóa tan hết vô biên tăm tối, thân tướng trang nghiêm, công đức cao vợi, bất động như núi Tu Di. Cho nên nói, thân Phật thanh tịnh, thường khéo an trụ. Hào quang nơi thân Phật rực rỡ, các tia sáng chiếu đan xen tạo thành màng lưới ánh sáng trang nghiêm. Ánh hào quang ấy tỏa chiếu khắp nơi, sáng tỏ hơn cả mặt trời, mặt trăng. Mặt trời, mặt trăng chỉ là ánh sáng của thế gian, lẽ dĩ nhiên không thể sánh với hào quang nơi thân Phật được.
Kinh Như Lai tạng từng lấy chín loại ví dụ để nói về Phật tính vốn có của chúng sinh, trong đó cũng có ví dụ về bảo lưu ly. Phật tính của chúng sinh như bảo lưu ly thanh tịnh, không tì vết, tuy ở nơi nhiễm ô nhưng nó vẫn sáng đẹp, trong suốt nguyên vẹn, không hư hoại chút nào. Hiểu được đạo lý này, thân Phật và tính Phật của chúng sinh cũng như ngọc lưu ly, cho dù trôi lăn trong bùn lầy sinh tử cũng không mất đi vẻ đẹp thuần khiết vốn có của nó. Đức Phật Dược Sư xóa tan bức màn vô minh, tẩy sạch hết phiền não ô trược; thân Phật, tính Phật của chính mình cuối cùng cũng hiển bày, nên nói thân như ngọc lưu ly là vậy.
Ánh sáng trên thân của Đức Phật Dược Sư soi đến những ai đang oằn mình đau khổ ở chốn tối tăm, khiến cho tâm si ám của họ đều nhờ đó mà sáng tỏ, và tùy vào lòng mong cầu của mọi người mà tạo cho họ một công việc thích hợp. Có thể hiểu nghĩa của đoạn văn này là: Lúc Đức Phật phóng quang, những chúng sinh ở các thế giới tối tăm, từ trước đến nay chưa từng nhìn thấy ánh sáng, không nghe được danh hiệu Phật, nhận được ánh hào quang của Phật soi đến thì liền được sáng tỏ, và tùy theo mong cầu của bản thân mà được an vui làm các công việc. Cũng giống như, khi mặt trời vừa ló dạng ở phương Đông thì tất cả mọi người đều thức dậy, người làm lao động tay chân thì bắt đầu khởi động, người đọc sách thì đọc sách, người cày cấy thì ra ruộng, người buôn bán thì thu xếp hàng hóa, mọi người đều làm công việc thường ngày của mình.
Nhưng căn cứ vào nghĩa sâu xa, thì chúng sinh từ vô thỉ đến nay ở trong ngu muội mê mờ mà chẳng tự hay biết, nhờ nguyện lực từ bi của Phật mà mở bày trí tuệ, khiến cho tất cả chúng sinh đều rõ biết mọi thứ và phát tâm thực hành. Có thể nói, các nhà nghiên cứu đời xưa đã cho ra đời các phát minh làm lợi ích cho toàn nhân loại đều là hóa thân của chư Phật và Bồ tát. Đối với những chúng sinh đang còn mê muội, chư Phật và Bồ tát thường hiện thân để chỉ dẫn, đưa ra những phát minh như: nhà cửa, chữ viết, cách cày cấy, dệt vải, v.v. các vật dụng công cụ, và vô số các học thuyết đúng đắn để chúng sinh biết cách ứng dụng trong đời sống thực tiễn. Văn hóa thế giới tiến bộ, các loại kỹ thuật khéo léo đều phát khởi từ lòng từ bi và trí tuệ của Phật, Bồ tát. Cho nên kinh nói: “Nếu Phật và Bồ tát không ra đời thì mọi thiện pháp của thế gian, mọi thứ vật dụng trong đời sống đều không có. Bởi vậy, chư Phật và Bồ tát hóa hiện nơi đời, không những chỉ bày cho chúng sinh tu thân dưỡng tâm mà còn hướng dẫn họ biết sử dụng tri thức và kỹ năng của mình”. Nói tóm lại, dù chúng ta ở thời đại nào, hay bất cứ nơi đâu, thì vẫn luôn được ánh sáng trí tuệ và từ bi của Đức Phật Dược Sư rọi chiếu, che chở và bảo hộ.
(3) Nguyện vật dụng đời sống đủ đầy
Nguyện lớn thứ ba: Ta nguyện đời sau, khi giác ngộ thành Phật, đem vô lượng vô biên trí tuệ phương tiện, khiến cho các hữu tình đều có được vật dụng đủ đầy và không để chúng sinh nào phải thiếu thốn.
Điều kiện tất yếu để một cá nhân tồn tại và duy trì được mạng sống trên thế gian là phải có đầy đủ vật dụng như: áo quần, lương thực, chỗ nghỉ ngơi, phương tiện đi lại, cho đến thuốc thang, v.v. Tất cả những đồ vật thường dùng này không chỉ cần phải có, mà còn phải có thật nhiều và phải đầy đủ, phong phú. Đôi khi, chỉ cần đời sống vật chất thiếu thốn một chút cũng có thể nảy sinh các loại tội nghiệp ở thế gian như: trộm cắp, cướp bóc, giết chóc, đấu tranh, v.v. thậm chí có thể làm ra các tội ác lớn hơn nữa. Do vậy, bi nguyện của Đức Dược Sư Như Lai là: không những khiến chúng sinh có được năng lực trong công việc hay tri thức sống, mà còn muốn đem vô lượng vô biên trí tuệ phương tiện để hiển bày ra vô số vật dụng, khiến tất cả hữu tình hễ mong cầu vật dụng cần thiết nào thì đều có thể được nhận đầy đủ. Đồng thời đem lại cho mọi người cuộc sống giàu có, sung túc và an lạc. Tuyệt đối không để cho chúng sinh đối với việc cung ứng vật chất có sự thiếu hụt, phát sinh hiện tượng bất đồng, người này có, người kia không.
Du già sư địa luận nói rằng: Nội dung mà Bồ tát phải thường cầu học là Ngũ minh. Ngoài Nội minh (kinh điển, giáo nghĩa Phật pháp) ra, còn có Công xảo minh (kỹ thuật), Y phương minh (y học), Thanh minh (ngôn ngữ học), và Nhân minh (logic học). Những ai tu học hạnh Đại thừa của Bồ tát, phàm học vấn và kỹ năng nào làm lợi lạc cho chúng sinh thì đều cần phải học. Trí tuệ mỗi ngày được tăng trưởng, cho đến khi thành Phật rồi thì tất cả công đức diệu pháp mới có thể viên mãn, nhận lãnh hết lòng thì diệu dụng mới trọn vẹn. Thế nên, giáo pháp Đại thừa hoàn toàn không phản đối sự phát triển của khoa học vật chất. Có người oán trách nền khoa học công nghệ tiến bộ của thế giới là vực sâu của tội lỗi. Thật ra là do nhân loại không khéo léo vận dụng nền khoa học tiên tiến ấy, nên mới dẫn đến những điều tai hại nghiêm trọng.
Nếu ai cũng siêng năng tu dưỡng đức tính, thương yêu vạn loại, khéo khống chế, khéo vận dụng, được như vậy thì sự phát triển của khoa học đối với nhân loại, chẳng hạn như cơ khí phát triển thì tăng thêm số lượng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, chẳng phải càng thêm phần lợi ích đó sao! Chính vì vậy, những gì mang đến lợi ích cho nhân sinh thì Bồ tát không bao giờ từ bỏ, ngược lại, cần phải học tập, trau dồi mọi kiến thức và kỹ năng. Nhờ đó, mới có thể khiến cho chúng sinh thoát khỏi cảnh thống khổ và những điều tội lỗi. Đại nguyện thứ ba của Đức Dược Sư Như Lai, đặc biệt chú trọng ở phương diện này.
(4) Nguyện đều được an trụ trong đạo Bồ đề
Nguyện lớn thứ tư: Ta nguyện đời sau, khi giác ngộ thành Phật, nếu có các hữu tình thực hành tà đạo, Ta sẽ khiến họ đều được an trụ trong đạo Bồ đề. Nếu người thực hành Thanh văn, Độc giác, Ta cũng đều dùng đạo Đại thừa mà an lập cho họ.
Đại nguyện thứ hai và thứ ba có phần thiên về thụ dụng vật chất và sự nghiệp, có thể nói là “văn minh vật chất”. Đại nguyện thứ tư lại đặc biệt nghiêng về sự thấy biết chân chính, cũng có thể nói là “văn minh tinh thần”.
Đức Phật Dược Sư khi còn ở Nhân địa phát nguyện rằng: Nếu có các hữu tình không tin nhân quả thiện ác; phủ nhận công đức của Tam bảo, mạt sát chân lý; gây các tội lỗi: sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ; hướng vào các nẻo: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh; những người đi lầm vào con đường tà đạo, bỏ quên con đường chân chính, Ta nguyện khi thành Phật đều khiến họ xa lìa tà đạo, thoát khỏi nẻo ác và mãi mãi an trụ trong đạo Bồ đề. Đạo Bồ đề chính là con đường Chính giác, ví như biết thiện ác nhân quả, biết có phàm Thánh, biết công đức của Tam bảo, biết Tứ đế, Mười hai nhân duyên, tu tập Giới, Định, Tuệ; không gây các tội sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ. Con đường này là nói chung cho cả pháp môn của Tam thừa (Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát). Khiến chúng sinh thoát khỏi con đường hiểm ác của sinh tử, để bước lên con đường bằng phẳng của Tam thừa, đây chỉ là một phương tiện để cứu độ chúng sinh của Đức Phật, chứ không phải là mục tiêu cứu cánh. Cho nên, Đức Phật Dược Sư lại nguyện: Đối với hành giả tu theo Thanh văn hay Độc giác, đều lấy pháp môn cứu cánh của Đại thừa mà an lập cho họ.
Nghe âm thanh giáo hóa của Đức Phật mà tu hành ngộ đạo, gọi là Thanh văn. Căn tính của những vị Độc giác cao hơn so với Thanh văn một bậc, những vị ấy không đợi Phật giáo hóa mà chỉ cần chứng kiến sự thay đổi vô thường biến hóa của ngoại cảnh thì liền tự phát tâm tu hành, khai ngộ chứng quả. Thời quá khứ, có một vị vua, trong lúc du ngoạn ở ngự viên, nhìn thấy nhành hoa đang nở rộ tươi tắn, đẹp đẽ đáng yêu vô cùng; hương thơm ngào ngạt, phảng phất cả một vùng trời, ai nấy cũng đều ưa thích. Thế nhưng, sau một vòng thưởng ngoạn, nhà vua trở lại thì thấy nhành hoa đã tàn tạ, chỉ còn cành lá trơ trọi, bởi vì đã bị các cung nữ vịn hái. Nhân đó, nhà vua tỏ ngộ được lẽ vô thường của vạn vật, bất giác nhận ra đời người cũng vô thường không khác. Một gia đình mỹ mãn, một quốc gia cường thịnh, trải qua một trận đại nạn, hay gặp cảnh chiến tranh, rồi cũng sẽ rơi vào cảnh hoang tàn, đổ nát, dẫn đến diệt vong, khiến con người tiếc nuối khôn nguôi. Từ những hiện tượng này mà ngộ được chân lý vô thường của kiếp nhân sinh và chứng được Thánh quả, đây gọi là “Độc giác”. Thanh văn và Độc giác đều có khả năng vượt ra ngoài sinh tử, từ bờ này vượt qua bờ kia, nên gọi là “Thừa”. Nhưng đây đều là tự độ, mà bản hoài của Đức Phật là nằm ở chỗ độ tha, nên Đức Dược Sư Như Lai khi còn ở Nhân địa đã phát nguyện, mong muốn đem giáo pháp Đại thừa để chuyển hóa họ, khiến họ từ tự độ hướng về độ tha, gom ba về một để đi vào Đại thừa rốt ráo.
Kinh Pháp hoa nói rằng: “Đức Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời”. Đại sự nhân duyên này chính là giúp cho tất cả chúng sinh đều ngộ nhập tri kiến Phật. Nhưng căn tính của chúng sinh có muôn vàn sai khác, nhạy bén - chậm lụt khác nhau, sự thật thì không thể lập tức giáo hóa tất cả chúng sinh đều nhập vào tri kiến Phật. Vì thế, Đức Thế Tôn một mặt đem mục đích cao quý này làm nguyên tắc, mặt khác sẽ tùy theo căn cơ mà giáo hóa. Thấy chúng sinh lầm bước trong nẻo tà, liền đem pháp môn Tam thừa hóa độ. Thấy Thanh văn, Độc giác dừng chân nơi hóa thành tự lợi, mới chỉ dạy cho họ pháp môn rốt ráo của Đại thừa, để họ bước tiếp về phía trước, thẳng đến bờ Niết bàn, vì Bảo sở mới là đích dừng chân cuối cùng. Đại nguyện thứ tư bao gồm việc bỏ đường tà đi về nẻo chính, từ tự độ hướng đến độ tha. Chữ “an trụ” và “an lập” trong kinh nghĩa là khiến họ vĩnh viễn không thoái chuyển. Ví dụ: phàm phu thật sự phát khởi tâm xuất ly, hướng đến Thánh đạo Nhị thừa, không còn trở lại phàm phu nữa; Đại thừa thật sự phát tâm Bồ đề rộng lớn tự lợi lợi tha, thì vĩnh viễn hướng đến Phật quả và không còn thoái tâm trở lại hàng Thanh văn mong cầu tự độ hoặc phàm phu.
(5) Nguyện giới hạnh thanh tịnh
Nguyện lớn thứ năm: Ta nguyện đời sau, khi giác ngộ thành Phật, nếu có vô lượng vô biên hữu tình, ở trong giáo pháp của Ta tu hành phạm hạnh, Ta đều khiến đạt được giới hạnh không khiếm khuyết, đủ Ba tụ giới. Nếu có hủy phạm, mà nghe danh hiệu Ta rồi, thì lại được thanh tịnh và không rơi vào nẻo ác.
Bốn nguyện trước nương vào công đức tự chứng của Đức Dược Sư Như Lai mà làm lợi ích chúng sinh, tức là đem đến sự an vui. Từ nguyện thứ năm trở đi, vì chúng sinh có chỗ khiếm khuyết, khổ đau nên cần được che chở cứu giúp. Có thể tóm lược, từ nguyện thứ nhất đến nguyện thứ tư là ban vui, từ nguyện thứ năm trở về sau là cứu khổ. Nhân nơi đại nguyện thứ năm này, lần lượt hiển bày công hạnh dứt trừ tai ương nạn ách và từ bi cứu độ những chúng sinh khổ nạn của Đức Dược Sư Như Lai.
Nguyện này nói rằng: Sau này khi thành Phật, giả như có vô lượng vô biên hữu tình tu hành phạm hạnh trong chính pháp của Ta (Phật Dược Sư)… Phạm hạnh nghĩa là:
1. Theo ý nghĩa phổ quát, là chỉ cho tất cả hạnh thanh tịnh (Phạm có nghĩa là thanh tịnh).
2. Theo ý nghĩa đặc thù, là chỉ cho giới không dâm dật của người xuất gia.
3. Theo ý nghĩa thường dùng, hễ là những giới hạnh do Đức Thế Tôn chế ra thì gọi là phạm hạnh.
Tu hành và thụ giới trong tịnh pháp ở cõi Phật Dược Sư: Dù là thụ Tỳ kheo giới, Sa di giới, Ngũ giới, hay Bồ tát giới, hễ chúng sinh nào tham dự qua pháp hội Dược Sư, nghe giáo pháp và xưng niệm danh hiệu của Ngài thì Ngài đều khiến cho họ đạt được “giới hạnh không khiếm khuyết”, viên mãn tròn đầy.
“Khuyết” có nghĩa là phạm giới hoặc chỉ hành trì một phần, không khuyết tức là có thể hành trì một cách trọn vẹn. Giả như người thụ năm giới, toàn bộ đều giữ gìn cẩn mật, trang nghiêm thanh tịnh, đó là giới không khuyết. Nếu chỉ giữ được ba hoặc bốn giới, hoặc phạm một phần tội nhẹ, tức là giới bị khuyết. Nhờ sức gia bị của uy đức và từ quang Đức Dược Sư, nên người thụ giới hoặc thụ giới mà có chỗ khuyết phạm, đều có thể được thụ trì giới viên mãn, hơn nữa đều có thể được đủ đầy “Ba tụ giới” của Bồ tát Đại thừa. Ba tụ giới nghĩa là:
1. Nhiếp luật nghi giới: Tức là thâu nhiếp tất cả các giới luật như năm giới, mười giới, hai trăm năm mươi giới, v.v. Tùy theo những giới mà mình đã thọ để hành trì.
2. Nhiếp thiện pháp giới: Là thâu nhiếp tất cả điều lành như tu Tứ nhiếp, Lục độ (bố thí, trì giới…), v.v.
3. Nhiêu ích hữu tình giới (Nhiếp chúng sinh giới): Là làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Đại thừa Bồ tát đều lấy lợi ích chúng sinh làm đầu, nếu chỉ tự lợi mà không có lợi tha, tức là phạm giới.
Nếu nương theo pháp môn Tịnh độ của Phật Dược Sư mà tu hành thì có thể đạt được Ba tụ giới viên mãn không khiếm khuyết. Việc thụ giới trong Phật pháp trước là chưa thụ khiến cho được thụ nhận, thụ rồi khiến vâng giữ hành trì. Sau khi đã thụ giới, không ai có thể đảm bảo chắc chắn rằng mình có thể nghiêm trì thanh tịnh nên trong Phật pháp mới có pháp môn sám hối. Đây là một hiện tượng mà rất nhiều người khó thể tránh khỏi. Ngay trong thời đại Đức Phật, các vị Thánh giả còn có người chưa thể vâng giữ trọn vẹn, huống hồ gì hạng phàm phu tầm thường phiền não sâu nặng như chúng ta? Nếu như chỉ biết thụ giới mà không biết giữ, hoặc hủy phạm mà không biết sám hối thì khó mà được thanh tịnh.
Vì vậy, bản nguyện của Đức Dược Sư Như Lai tiến thêm một bước nữa rằng: Nếu có chúng sinh hủy phạm giới cấm, nhưng do nghe được danh hiệu Ta (Phật), thì hoàn toàn có thể đạt được thanh tịnh. Thanh tịnh nghĩa là tội chướng tiêu trừ, một khi tội nghiệp tiêu trừ thì tự nhiên không rơi vào nẻo ác. Nẻo ác chính là ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Chúng sinh nhờ nghe được danh hiệu Phật và như pháp sám hối mà tránh khỏi rơi vào ba đường. Đây chính là lòng từ vô lượng và phương tiện thiện xảo của Đức Phật Dược Sư, cũng là để giúp chúng sinh sám hối nghiệp chướng.
Pháp sám hối trong Kinh Phương đẳng của Đại thừa là xưng niệm danh hiệu Phật, nhờ đó mà giới hạnh có thể được thanh tịnh trở lại. Tuy nhiên, không phải vừa nghe danh hiệu Phật thì liền được sám hối, mà cần phải nhất tâm nhất ý trì niệm danh hiệu Phật, và đối với việc sai trái lỗi lầm lúc trước, chí thành phát lộ sám hối, lễ bái, cúng dàng, luôn luôn nhiếp tâm vào Phật hiệu và Phật đức. Hành trì dài lâu thì tội nghiệp tự nhiên tiêu trừ, trong tâm cảm thụ được hào quang của Phật và đức hạnh thanh tịnh xưa nay lại được khôi phục.
(6) Nguyện các căn đủ đầy
Nguyện lớn thứ sáu: Ta nguyện đời sau, khi giác ngộ thành Phật, nếu các hữu tình thân thể hèn kém, các căn không đủ, xấu xí, khờ khạo, đui mù, tai điếc, câm ngọng, tay chân què quặt, lưng gù, lác hủi, điên cuồng, cùng các bệnh khổ, nghe danh hiệu Ta rồi thì tất cả đều được đoan chính, thông minh, các căn đủ đầy và không còn các bệnh khổ.
Nguyện lớn thứ sáu của Đức Dược Sư Như Lai nói rằng: Đời sau khi Ta thành tựu đại Bồ đề, nếu có các hữu tình do tội chướng nghiệp duyên chiêu cảm dẫn đến quả báo thân thể thấp hèn hạ liệt, mắt và các căn đều không đầy đủ, thân thể nhỏ thấp hoặc suy nhược, hoặc các bộ phận cơ thể không cân xứng, đầu to người nhỏ, thân dài chân ngắn cho đến các hình thù quái dị. Các căn không đủ, gồm có các bộ phận ở bên ngoài như tai mắt hư hoại, hoặc tay chân tàn tật khiếm khuyết, hoặc môi sứt, mũi tẹt, v.v. Nếu nhìn qua thì các bộ phận cơ thể hoàn toàn không khiếm khuyết thứ gì, nhưng trên thực tế, bên trong tai, mũi, tay, chân, v.v. đã bị tàn phế, mất hết công dụng. Lại cộng thêm tướng mạo của thân căn “xấu xí”, không được nghiêm trang đẹp đẽ. “Khờ khạo” là không hiểu sự lý của ý căn. Mắt không có khả năng nhìn thấy sự vật thì gọi là “đui mù”; tai không còn tinh, không nghe được âm thanh, gọi là “điếc”. “Ngọng” là cổ họng bị mất tiếng, ngữ âm không được trong. “Câm” là ú ớ không nói được. “Què” là không có khả năng duỗi thẳng, là sự khiếm khuyết ở tay, chân. “Lưng gù” là lưng bị còng xuống. “Lác hủi” là bệnh phong rất nặng. “Điên cuồng” là thần kinh không được bình thường.
Các thứ bệnh khổ này là những thứ bệnh tật khó chữa trị nhất trên thế gian, nhưng người mắc bệnh sau khi nghe được danh hiệu Dược Sư Như Lai, nếu chí tâm xưng niệm hoặc lễ bái, cúng dàng mong nhờ uy lực và công đức của Đức Dược Sư Như Lai gia bị mà tất cả đều được chữa khỏi, khiến thân tướng xấu xí chuyển thành đoan trang, ngu muội si ám cũng chuyển thành thông minh, trí tuệ. Các căn khiếm khuyết, hư hoại cũng đều trở nên đủ đầy.
Nói tóm lại, tất cả các bệnh tật như tay chân què quặt, v.v. nhờ sự gia bị của uy đức Phật Dược Sư đều được chữa khỏi, về sau không còn mắc các bệnh khổ ấy nữa. Chúng ta xưng tán Đức Phật là Đại Dược Sư, Đại Y Vương cũng chính là dựa trên ý nghĩa này vậy.
Chúng sinh nếu như có thiện căn, có nhân duyên, lại có thể theo sự hướng dẫn của pháp môn Dược Sư mà thực hành, thì hoàn toàn có thể tiêu trừ hết tất cả bệnh tật, hoạn nạn. Không chỉ riêng Đức Dược Sư Như Lai mà ngay cả Đức Thế Tôn lúc còn ở đời cũng như thế. Các chúng sinh bị bệnh khổ được chữa trị cũng nhiều không kể xiết.
Trong kinh có kể lại một câu chuyện, tại thành Xá Vệ, có một người phụ nữ, chồng cô ấy trong lúc làm ruộng thì bị trâu húc chết. Chẳng những vậy, lúc qua sông, hai đứa con của cô ấy, đứa nhỏ bị đại bàng quắp đi, còn đứa lớn lại bị nước cuốn trôi mất tích. Trở về quê nhà thì cô ấy hay tin cơn hỏa hoạn đêm qua đã thiêu rụi tất cả, cha mẹ và anh em đều đã qua đời. Phải chịu liên tiếp những cú sốc quá lớn như thế, nên cô đau khổ đến phát điên, ngay cả áo quần cũng chẳng buồn mặc vào, cứ chạy tán loạn khắp nơi. Một hôm, không biết nhân duyên thế nào mà cô ấy lang thang một hồi rồi chạy đến tinh xá Kỳ Hoàn. Đứng từ xa, thoáng thấy đức tướng trang nghiêm, hào quang rực rỡ của Phật, tâm trí cô ấy đột nhiên tỉnh táo trở lại. Nhìn lại mình không một mảnh vải che thân, cô vô cùng xấu hổ, bất giác ngồi sụp xuống đất ôm mặt bật khóc. Đức Phật bảo Tôn giả A Nan lấy áo quần cho cô ấy mặc vào, sau đó thuyết pháp khai thị cho cô về chân lý vô thường của cuộc đời. Nghe lời khai thị của Đức Phật xong, cô gái điên kia không những khỏi bệnh mà còn chứng được Thánh quả Dự lưu.
Thông thường, chúng ta chỉ thấy những căn bệnh trên thân chứ không rõ biết trạng thái các chứng bệnh trong tâm. Nhiều người tuy tai, mắt đầy đủ nhưng không thể phân biệt thiện - ác, phải - trái, không ưa nghe chính pháp, lời lành, thì có khác gì những người mắt mù, tai điếc đâu? Hoặc tuy chân tay đầy đủ nhưng biếng nhác, không làm việc chính đáng, cũng chẳng làm điều tốt lành, lại không đi trên con đường đúng đắn, như thế so với chân tay què quặt đâu có khác chút nào? Hoặc không có khí tiết, không hướng về chính nghĩa, chỉ luôn luồn cúi, thấp hèn, không chịu đứng thẳng lưng làm một người đường đường chính chính, đây há chẳng giống với kẻ gù lưng sao? Lác hủi là căn bệnh phong khó chữa và rất dễ truyền nhiễm, cũng như những tư tưởng xấu ác nguy hại cho xã hội, một khi lan truyền thì sẽ khiến vô số người lâm vào tình cảnh cay đắng, khó thể cứu vãn.
Trước kia, tại vùng Nam Ấn, có một vị giảng sư vì đại chúng mà thuyết pháp, nhấn mạnh về việc uống rượu sẽ đưa đến quả báo điên cuồng. Lúc ấy, quốc vương cũng đang ngồi nghe, liền đứng dậy chất vấn rằng: “Người uống rượu nhiều như thế, tại sao chỉ có vài người bị bệnh cuồng loạn?” Vị giảng sư im lặng không đáp, mà lấy tay chỉ vào thính chúng. Những người ngoại đạo đang ngồi nghe pháp đều cho rằng vị giảng sư kia hiểu biết nông cạn, chẳng có lời nào để đáp, vì vậy, họ không ngừng ca tụng trí tuệ của quốc vương. Liền khi ấy, quốc vương chợt ngộ ra lời pháp vi diệu của vị giảng sư kia. Những người mà ngài chỉ, chính là các ngoại đạo đang đắc ý. Trong số họ, có người thường để thân thể trần truồng, có người không ăn cơm mà chỉ ăn lá cây, cỏ dại, lại có những người ngày cũng như đêm, đều không ngủ nghỉ. Chưa kể, còn có những người, mùa đông ngâm mình trong nước lạnh buốt, mùa hạ lại phơi thân dưới mặt trời nắng gắt. Các tư tưởng tà vạy cùng những hành vi quái đản này, đều chẳng phải là sự “biến thái tâm lý” của những kẻ điên rồ cuồng loạn hay sao?
Đức Dược Sư Như Lai phát đại nguyện này, nguyện cho chúng sinh tâm lý bệnh hoạn, thân thể tật nguyền khiếm khuyết, nhờ nghe danh hiệu mà được chữa trị triệt để, đạt đến cuộc đời lý tưởng với thân tướng đoan trang xinh đẹp, tâm tính đoan nghiêm chính trực.
(7) Nguyện thân khỏe tâm an
Nguyện lớn thứ bảy: Ta nguyện đời sau, khi giác ngộ thành Phật, nếu có các hữu tình bị các thứ bệnh khổ bức bách, không ai cứu chữa, không nơi nương nhờ, không thầy không thuốc, không nhà cửa, không bạn bè thân thích, bần cùng khốn khổ. Một khi nghe qua tai danh hiệu của Ta, hết mọi thứ bệnh đều được dứt trừ, thân tâm an lạc; nhà cửa, quyến thuộc, của cải đều được sung túc, cho đến chứng được Vô thượng Bồ đề.
Nguyện này là nguyện cho chúng sinh đều được mạnh khỏe, vui vẻ; tuy vẫn là cứu giúp bệnh khổ cho chúng sinh, nhưng so với phần trước có chút khác biệt. Ở phần trước đặc biệt chú trọng các loại bệnh tật hiểm nghèo nơi thân, còn phần này tuy cũng cứu giúp các bệnh khổ thông thường, nhưng nhấn mạnh hơn về bệnh tật nghèo đói.
Khi còn trong Nhân địa, Đức Dược Sư Như Lai nói rằng: Đời sau khi Ta thành Phật, nếu có các hữu tình chịu sự bức thiết thống khổ, thúc ép của các thứ bệnh, đồng thời lại không có người chữa trị, không có chỗ nương nhờ; hoặc không đủ sức mời thầy thuốc, cũng chẳng có tiền mua thuốc; hoặc không người thân thích hay bạn bè bằng hữu, không cha mẹ anh em, vợ chồng con cái, cùng nhà cửa quyến thuộc, thì Ta có thể cung cấp đầy đủ.
Nghèo cùng khốn khó, bệnh tật triền miên, lại cô độc lẻ loi, thì đã khổ lại càng thêm khổ! Kiếp người như thế quả thật chẳng còn gì bất hạnh hơn nữa! Lành thay, một khi nghe danh hiệu Đức Dược Sư Như Lai thoáng qua tai, chúng sinh đau khổ kia liền được dứt trừ mọi thứ bệnh tật, thân tâm trở nên an lạc, thư thái. Thêm vào đó, gia đình thân thuộc, của cải vật chất đều được đủ đầy sung túc. Không chỉ như vậy, chúng sinh khi nghe được danh hiệu ấy, dùng thiện căn phúc đức nhân duyên để tiến tu trí tuệ, thẳng tiến đến Vô thượng Bồ đề.
Xưng niệm danh hiệu Đức Dược Sư Như Lai, tất cả bệnh khổ đều được dứt sạch, đây là một lẽ thường tình. Niệm danh hiệu Phật hoặc danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm, thì được chư Phật, Bồ tát gia hộ, nhân đó mà bệnh tật được tiêu trừ, phục hồi sức khỏe. Trong hàng đệ tử Phật chúng ta, những người có được kinh nghiệm chân thực như thế thật không phải ít. Có ý kiến cho rằng: Người không có gia đình quyến thuộc, mà vừa nghe qua danh hiệu Phật liền được đầy đủ, chuyện này tựa hồ không có khả năng xảy ra. Nên biết, ở đây không phải hàm ý cha mẹ chết rồi, niệm Phật thì họ sẽ sống trở lại; hoặc vốn không có gia đình quyến thuộc, một khi nghe qua danh hiệu Phật thì liền có đủ; mà có nghĩa rằng, đời trước bởi do nhân duyên không đủ, phúc đức kém cỏi nên phải nghèo khổ, cô độc. Nhờ thường xuyên xưng niệm danh hiệu Phật, mà thiện căn phúc đức tăng trưởng, thân tâm khôi phục khỏe khoắn, nỗ lực làm việc, xây dựng gia đình tốt đẹp; người thân, bạn bè cũng nhờ nhân duyên này mà được cải thiện nhiều hơn.
Lòng từ bi của Đức Phật tuy rộng lớn cùng khắp, nhưng riêng đối với chúng sinh cô đơn khổ sở, nghèo cùng bệnh tật thì Ngài đặc biệt chiếu cố nhiều hơn, che chở và cứu giúp. Do đó, Đức Thế Tôn khi còn ở đời đặc biệt khởi xướng dạy người bố thí, cấp phát thuốc men và khám bệnh, cứu tế cho những người cô độc. Bản thân chúng ta là Phật tử, tu học Phật pháp, thì phải ghi nhớ tinh thần của Đức Thích Ca Mâu Ni, học tập theo bản nguyện của Phật Dược Sư, và làm bất cứ điều gì mình có thể làm.
(8) Nguyện chuyển nữ thành nam
Nguyện lớn thứ tám: Ta nguyện đời sau, khi giác ngộ thành Phật, nếu có người nữ nào bị trăm điều xấu ác của thân nữ bức bách, não loạn, sinh lòng chán ghét, muốn bỏ thân nữ, nghe danh hiệu của Ta rồi, tất cả đều được chuyển nữ thành nam, đủ tướng trượng phu, cho đến chứng được Vô thượng Bồ đề.
Đại nguyện thứ tám của Đức Dược Sư Như Lai nói rằng: Nếu có người nữ vì mang thân nữ mà bị “trăm điều xấu ác” “bức bách, não loạn”, vô cùng đau khổ nên “sinh lòng chán ghét”, mong muốn có thể bỏ đi thân nữ. Sự vất vả khổ cực của người nữ rất nhiều cho nên mới nói là có “trăm điều xấu ác”, ở đây có thể phân ra hai phương diện sinh lý và tâm lý.
1. Phương diện sinh lý: Điển hình như một bé gái, khi đến tuổi trưởng thành thì sẽ có kinh nguyệt, cộng thêm việc sinh con đẻ cái cũng là chuyện cực kỳ đau đớn khổ sở.
2. Phương diện tâm lý: Người nữ lòng tật đố ghen tỵ, mơ mộng hão huyền, ưa thích danh tiếng, thông thường đều nặng hơn người nam.
Bên cạnh đó, người nữ còn chịu sự kỳ thị trong xã hội. Xưa nay, dù ở trong môi trường xã hội, gia đình hay đoàn thể, người nữ vẫn chưa hoàn toàn có được địa vị ngang bằng với người nam. Họ thường bị xem nhẹ, đây là vấn đề vẫn còn tồn tại nhan nhản trong xã hội. Thế nên, họ mới sinh lòng chán ghét, mong muốn được thoát khỏi thân tướng của người nữ.
Đức Dược Sư Như Lai vì muốn đáp ứng được mong cầu của chúng sinh, nên đặc biệt phát ra đại nguyện này: Nếu có người nữ nào nguyện bỏ thân nữ, mà nghe danh hiệu của “Ta” (Dược Sư Như Lai), một lòng xưng niệm, thành kính lễ bái cúng dàng thì đều được chuyển nữ thành nam, đủ đầy tướng đại trượng phu. Do đây tu hành mà chứng đắc Vô thượng Bồ đề.
Người nữ mong cầu thân nam, xưa nay là chuyện rất phổ biến trong xã hội. Thế nhưng, trong thời đại ngày nay, người nữ đối với bản thân không những không có tâm chán ghét, gần như lại còn vô cùng hài lòng, ưa thích trang điểm sửa soạn, ở bất cứ nơi nào cũng tỏ ra mình là thân nữ nhi cần được nam nhân quan tâm, chú ý đến. Điều này chứng tỏ họ thật sự yêu thích thân người nữ. Theo báo chí đăng tải, ở Mỹ có một triệu phú từng làm phẫu thuật thẩm mỹ để mong muốn được trải qua cuộc sống của người con gái thật sự. Nhờ có nền khoa học phát triển, y học hiện đại, những đau đớn vốn chỉ dành riêng cho người nữ như sinh sản, v.v. cũng đã được giảm đi rất nhiều. Đây tuy là tiến gần với lý tưởng bình đẳng nam nữ trong xã hội, nhưng hiện nay, địa vị của người nữ vẫn chưa thực sự bình đẳng. Mặt khác họ vẫn mải miết trong sự thích thú, đam mê nơi vật dục, say đắm bản thân, để rồi bỏ quên chính mình.
Trong giáo pháp Đại thừa, nam nữ xưa nay vốn bình đẳng. Song, tính cách của người nữ có phần thiên về tâm hẹp hòi và đố kỵ, đặc biệt phải kể đến là sự trau chuốt bản thân. Mong rằng các vị tín nữ hãy dốc hết lòng để sửa đổi chính mình, học làm bậc quân tử đại trượng phu. Kinh điển có dạy: “Học pháp Đại thừa, tu hạnh Bồ tát thì phải có tinh thần của bậc đại trượng phu mới được”. Liên quan đến vấn đề chuyển nữ thành nam, trong kinh có đề cập đến hai loại:
1. Thiện căn sâu dày, thực tâm chán ghét, cộng thêm tinh tiến tu hành, liền có thể chuyển nữ thành nam.
2. Theo sự chỉ dẫn của pháp môn Đại thừa, như pháp tu hành, hoặc xưng niệm Thánh hiệu, hoặc lễ bái cúng dàng, đời sau nhất định sẽ được chuyển đổi thành nam tử.
(9) Nguyện cải tà quy chính
Nguyện lớn thứ chín: Ta nguyện đời sau, khi giác ngộ thành Phật, khiến các hữu tình thoát khỏi lưới ma, giải thoát tất cả trói buộc của ngoại đạo, nếu có kẻ nào rơi vào rừng rậm ác kiến, Ta đều dẫn dắt họ về nơi chính kiến, dần dần tu tập các hạnh Bồ tát, mau chứng được đạo Vô thượng Bồ đề.
Chúng sinh không biết Phật pháp, lặn hụp trong tà đạo, chỉ cần nghe đến danh hiệu của Đức Dược Sư Như Lai liền có thể thoát khỏi nẻo tà, quay về đường chính. Những nơi không có Phật pháp thì càng chịu sự truyền bá, tiêm nhiễm của ngoại đạo nhiều hơn. Thiết nguyện Thánh hiệu của Đức Dược Sư Như Lai biến hóa khắp thế giới, khiến cho những ai rơi lạc trong vòng tà đạo biết bỏ đường mê quay về nẻo chính.
Đức Dược Sư Như Lai khi còn ở trong Nhân địa đã phát nguyện rằng: Nguyện đời sau khi Ta chứng được đạo Bồ đề, khiến cho tất cả hữu tình đều có thể ra khỏi lưới của ác ma, và thoát khỏi mọi sự ràng buộc của ngoại đạo. Lưới và võng, hình dáng gần giống nhau; dùng để đánh cá thì gọi là lưới, dùng để bắt thú thì gọi là võng. Mê tín tà thuyết của ma quỷ ngoại đạo, cũng giống như cá và muông thú bị lưới võng giăng bắt, không dễ gì thoát khỏi được. Chỗ khác nhau giữa ma quỷ và ngoại đạo là: giáo phái không thuộc Phật giáo thì gọi là ngoại đạo. Ý nghĩa của ma là giết hại, ma không phải là tôn giáo, mà chỉ như một loại chủ nghĩa, một loại học thuyết có thể khiến con người không tin quy luật nhân quả, phép tắc, miệt thị và xóa bỏ các giá trị đạo đức hoặc phủ định chân lý. Hoặc là những thứ xui khiến con người bỏ đi những lý tưởng cao thượng để hướng đến những điều thấp hèn; bỏ việc tu dưỡng thân tâm để mong cầu thỏa mãn vật dục; hại người, hại đời đều gọi là ma cả.
Nếu có chúng sinh nào rơi vào vòng lưới của ma, Đức Dược Sư Như Lai sẽ phương tiện giúp họ thoát khỏi móng vuốt của ma quỷ, quay về vòng tay che chở, bảo vệ của Phật pháp. Nếu có chúng sinh nào bị sự trói buộc của ngoại đạo tà kiến, Đức Phật Dược Sư cũng giúp họ ra khỏi lưới tà, quy hướng chính pháp. Dù là tà ma hay ngoại đạo, cũng đều gọi chung là “rừng rậm ác kiến”. Tà kiến hay ác kiến được ví như rừng rậm dày đặc, lỡ bước sa chân vào đó ắt sẽ mắc phải cây cối rậm rạp, gai góc chằng chịt, chẳng dễ gì tìm được lối ra. Nay bản nguyện của Đức Phật Dược Sư là muốn dùng vô số phương tiện khéo léo, đưa lối dẫn đường, giúp chúng sinh thoát khỏi tà kiến của ngoại đạo, và an lập họ vào trong “chính kiến” của Phật pháp. Dần dần khiến họ tu tập pháp Tứ nhiếp, Lục độ, v.v. cùng các hạnh Bồ tát, sớm chứng được Vô thượng Chính đẳng Bồ đề.
Ở nguyện này, Đức Phật dắt dẫn chúng sinh từ nơi tăm tối mê mờ của tà ma ngoại đạo về với ánh sáng chính pháp. Ác kiến của tà ma ngoại đạo có năng lực vô cùng to lớn, nếu chưa đạt đến trạng thái bất thoái chuyển thì đều có khả năng bị ngoại đạo, ma quỷ khuất phục. Lúc xưa, có một vị Tỳ kheo thấy ngoại đạo lõa thể bèn cười chê họ. Đức Phật nhắc nhở vị ấy rằng: “Đừng cười chê họ, nói không chừng ông lại muốn làm kẻ ngoại đạo”. Chúng ta tu học Phật pháp, đời này không rơi vào tà ma ngoại đạo, nhưng nếu chưa đạt được sự tin hiểu đúng đắn và sâu sắc, chưa được bất thoái chuyển, thì đời sau không biết chừng sẽ bị rơi vào trong lưới tà kiến. Cần phải phát tâm Bồ đề như Phật giáo Đại thừa, phát tâm xuất ly như Phật giáo Nguyên thủy, chừng nào được bất thoái chuyển, chừng đó mới rời xa được khu rừng rậm của tà ma ngoại đạo, mới có được niềm an vui chân chính. Ở đời mạt pháp tà thuyết tung hoành dữ dội này, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác, mới mong tránh được sự mê hoặc của tà ma ngoại đạo.
(10) Nguyện thoát khỏi buộc ràng
Nguyện lớn thứ mười: Ta nguyện đời sau, khi giác ngộ thành Phật, nếu có các hữu tình mắc phải vương pháp, bị xiềng xích đánh đập, giam giữ trong tù ngục, hoặc bị tử hình cho đến vô số những tai nạn nhục nhã khác, khiến buồn thảm khôn nguôi, thân tâm đau đớn; nếu nghe danh hiệu Ta, nhờ nơi sức uy thần phúc đức của Ta, tất cả đều được thoát khỏi ưu sầu đau khổ.
Ở đại nguyện thứ mười, Đức Phật Dược Sư khi còn ở Nhân địa phát bi nguyện rộng lớn, cứu thoát chúng sinh vi phạm vương pháp, bị bắt giữ giam cầm, nguyện rằng: Nếu có các hữu tình, do phạm tội hoặc bị oan ức mà “mắc phải vương pháp”... Pháp luật quốc gia, thời xưa gọi là vương pháp. “Mắc phải vương pháp”, là bị sự trừng phạt hoặc tra xét của pháp luật nhà nước, chịu sự trừng trị của pháp luật, hoặc dùng dây trói buộc, tra tấn đánh đập; hoặc bị tội hình, giam cầm trong lao ngục; tội càng nặng thì càng phải chịu các hình phạt nghiêm trọng như: trói tay, chặt chân, cắt tai, móc mắt, v.v. cho đến bị tử hình, cùng với vô lượng loại hình tra khảo khác nữa; bị khinh khi lăng mạ, nhạo báng hủy nhục, dẫn đến đau thương buồn bã, ưu sầu thôi thúc khôn nguôi, cả thân lẫn tâm đều thống khổ vô cùng vô tận. Những khổ nạn như thế, ở thời đại bây giờ lại càng phổ biến hơn.
Với lòng từ bi vô hạn, Đức Dược Sư Như Lai xót xa cho nỗi thống khổ của chúng sinh, nên nói rằng: Các hữu tình đang chịu những hình phạt, tai ương, hoạn nạn, nếu nghe được danh hiệu của “Ta”, nhờ vào năng lực phúc đức viên mãn và sức uy thần rộng lớn của “Ta” che chở, liền có thể giải thoát tất cả tai nạn, không còn buồn lo ưu sầu, đau đớn khổ não.
Quốc gia ban hành pháp luật, vốn là để trừng phạt kẻ ác, bảo vệ quyền lợi cho những người dân lương thiện, và duy trì an ninh cho xã hội. Xã hội tương đối phức tạp, con người sống với nhau thì khó tránh khỏi tranh cãi, người này đố kỵ người kia; tranh chấp, chê bai, lăng nhục, thóa mạ lẫn nhau. Tất cả mọi tội ác như: sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, há chẳng phải phát sinh từ những việc này sao? Thế nên, nếu muốn xã hội được trật tự, nhân dân được yên bình, thì cần phải thi hành pháp luật đúng đắn, và thực thi theo quy tắc, khuôn mẫu mới có thể đạt được. Thế nhưng, đương nhiên đôi khi cũng khó tránh khỏi nhầm lẫn, phát sinh những trường hợp oan uổng vì bị pháp luật xử phạt sai. Các loại tội phạm như trước đã nói, từ gông cùm xiềng xích rồi được tự do giải thoát có thể tóm lược trên hai phương diện:
1. Trường hợp bị oan ức: Do nghiệp cũ đời trước nay trổ quả, gặp người vu khống đến nỗi bị giam cầm, chịu các hình phạt. Chúng sinh nào gặp khổ nạn giống như vậy, nếu có thể xưng niệm danh hiệu Đức Dược Sư Như Lai thì nhất định sẽ được tiêu trừ nghiệp chướng, không bị các đại nạn ấy nữa.
2. Trường hợp vi phạm pháp luật: Những người thực sự phạm tội trộm cắp, giết người, cướp của, nhiễu loạn trị an, thao túng tiền tệ, phá hoại kinh tế quốc gia, hay tà dâm, v.v. dù có xưng niệm danh hiệu Phật Dược Sư thì cũng chẳng thể thoát được tội lỗi.
Nếu xưng niệm danh hiệu Phật mà có thể thoát tội, thì chẳng khác nào khuyến khích việc phạm tội. Không lâu trước đây, lúc Tổng thống Tưởng Giới Thạch lên nhậm chức, có người kiến nghị việc đại xá tù nhân. Khi tin tức vừa được lan truyền, tội nhân trong nhà tù lại trở nên đông hơn. Bởi vì họ luôn ôm trong lòng hy vọng sẽ được xá tội, nên không ngần ngại làm điều xấu, phạm pháp. Những người như thế, đương nhiên là không thể thoát tội. Mặc dù họ đáng phải chịu tội, tuy nhiên, nếu có thể sinh tâm thanh tịnh kiên cố đối với Đức Phật, có lòng hổ thẹn, chí thành khẩn thiết sám hối, nhận rõ lỗi lầm, lập nguyện thiết tha để sửa đổi, lễ bái, xưng niệm danh hiệu Đức Dược Sư Như Lai thì cũng có khả năng được thoát tội. Nên biết rằng nhà nước dùng pháp luật để xử phạt những ai vi phạm, hoàn toàn không phải ác ý, mà chỉ mong muốn người dân hướng đến đời sống hướng thiện và hướng thượng. Cho dù bất đắc dĩ phải xử tội chết, ấy cũng là vì giết một người để răn đe trăm người. Vậy nên, phạm tội mà có thể chân thành tha thiết ăn năn hối lỗi, những người này vốn không nhất thiết phải bị trừng trị. Cũng như ở nước ta hiện nay, đối với những ai biết tự thú và sửa đổi lỗi lầm, pháp luật sẽ luôn khoan hồng và dung thứ cho họ. Người nào phạm tội mà biết thành tâm sám hối, xưng niệm danh hiệu Đức Dược Sư Như Lai cảm ứng đạo giao, thì đều có thể thoát khỏi mọi thứ đau khổ, hoạn nạn.
(11) Nguyện được thức ăn ngon lạ
Nguyện lớn thứ mười một: Ta nguyện đời sau, khi giác ngộ thành Phật, nếu có các hữu tình bị đói khát bức bách, vì tìm miếng ăn mà tạo các nghiệp ác, được nghe danh hiệu Ta, một lòng thụ trì, thì trước hết Ta sẽ đem thức ăn ngon để họ dùng no đủ, rồi sau đem pháp vị an lạc, giải thoát để huân đúc cho họ.
Đại nguyện thứ mười một nói rằng: Nguyện đời sau khi Ta thành Phật, nếu cuộc sống của chúng hữu tình khốn đốn phải bị đói khát bức bách, vì duy trì sự sống mà bất chấp thủ đoạn để tìm kiếm miếng ăn, gây nên các nghiệp ác nặng nề. Miếng ăn ở đời không phải có sẵn mà hễ cầu là có liền. Người có tri thức, có tài năng, dùng tri thức và thể lực để mưu sinh, nhưng tài năng không có, của cải cũng không thì biết lấy gì để sinh sống? Vì muốn duy trì cuộc sống mà con người không cướp bóc mờ ám thì cũng chiếm đoạt trắng trợn, hoặc là lừa gạt, hoặc là đe dọa. Từ đó sẽ tạo nên sự bất an, hỗn loạn cho xã hội, dĩ nhiên đây chẳng phải là việc đúng đắn, tốt lành gì cả. Qua đây, chúng ta có thể hiểu rằng, làm ác cũng có hai loại:
1. Do phiền não trong lòng quá sâu nặng.
2. Do hoàn cảnh bắt buộc, những chuyện xảy ra đều là do bất đắc dĩ.
Nếu do phiền não sai khiến mà tạo tội ác, thì nên dùng tư tưởng, v.v. để giải quyết vấn đề. Và nếu do thực sự bần cùng túng quẫn, vì không đủ miếng cơm, manh áo, thì nên giải quyết ở phương diện vật chất. Đức Dược Sư Như Lai khi còn ở Nhân địa phát ra đại nguyện này, chính là để giải quyết những khổ nạn về vật chất này. Cho nên nói rằng: Tất cả chúng sinh đói lạnh không thức ăn, không áo mặc, nếu được nghe danh hiệu Ta, nương theo lời chỉ dạy, một lòng chuyên cần nhớ nghĩ, kính tín, vâng giữ để thực hành. Được như vậy, trước hết Ta sẽ đem thức ăn ngon lạ để họ dùng cho no đủ, rồi sau đó mới đem pháp vị Vô thượng huân đúc cho họ thực hành theo chính pháp của Phật, và được an lạc giải thoát rốt ráo.
Cứu giúp miếng ăn thức uống chỉ mang tính chất tạm thời, không phải là biện pháp căn bản để giải quyết vấn đề. Nếu tư tưởng con người bất chính, hành vi phóng đãng, không giữ chữ tín, không làm việc ngay thẳng, dẫn đến kinh tế kiệt quệ, cuộc sống khốn khổ, thì lẽ cố nhiên không thể giải quyết vấn đề bằng cách cứu tế được. Nếu chúng ta đem cho họ các đồ ăn thức uống để được no đủ trước, rồi sau đó khuyên họ sống đời sống chính hạnh, truyền dạy cho họ tri thức, kỹ năng để cải thiện cuộc sống, chuyên tâm vào công việc, như thế mới có thể giải quyết tương đối phần nào những vấn nạn kia. Tiến thêm một bước nữa là dẫn dắt họ tu học Phật pháp, ngay nơi Bảo tạng phong phú của Phật pháp mà đạt được pháp lạc Vô thượng hy hữu ở đời, đó mới là sự cứu tế rốt ráo. Cổ đức có dạy:
Cơm ăn áo mặc đủ đầy
Nhân từ đức độ, thêm dày lễ nghi.
Đức Dược Sư Như Lai nhìn nhận được thực tế này, nên đã phát nguyện: Trước ban cho vật thực, sau mới ban cho pháp vị. Có người nói, Phật pháp là pháp xuất thế, hoàn toàn không quan tâm đến đời sống nhân sinh, điều này thật thiển cận và sai lầm. Phật pháp luôn chú trọng đến đời sống “hiện pháp lạc trú”, an vui ngay trong hiện tại của nhân sinh. Chúng ta chỉ cần nhìn vào bản nguyện của Phật Dược Sư thì có thể thấu cảm được điều này. Phật giáo Trung Quốc suy yếu, dường như là do đã quá xem nhẹ việc “độ sinh” của pháp môn Dược Sư, tức giải quyết các vấn đề đời sống của con người ngay trong kiếp hiện tại, mà chỉ chú trọng đến việc truyền bá Phật giáo cho chúng sinh theo cách thức “độ tử”, nghĩa là quan tâm đến cảnh giới của con người sau khi chết và mong muốn xây dựng một Phật giáo xuất ly thế gian, xa rời quần chúng, xa rời thực tiễn. Do vậy, hàng đệ tử Phật đời này và đời sau, cần phát triển và xiển dương mạnh hơn nữa tinh thần của Đức Phật Dược Sư, và càng phải ứng dụng thực hành việc cứu tế một cách đúng nghĩa, thiết thực. Đức Dược Sư Như Lai ở Nhân địa phát ra đại nguyện rộng lớn này, đối với chúng ta đúng là một sự khai thị vô cùng ý nghĩa!
(12) Nguyện được y phục và vật dụng quý đẹp
Nguyện lớn thứ mười hai: Ta nguyện đời sau, khi giác ngộ thành Phật, nếu có các hữu tình nghèo khó không có áo quần, ruồi muỗi cắn đốt, nóng lạnh dãi dầu, đêm ngày khổ sở; nếu nghe danh hiệu Ta, một lòng thụ trì, khiến được như ý muốn, liền được vô số áo quần đẹp đẽ, lại được các món báu trang nghiêm, tràng hoa, phấn sáp cùng các món âm nhạc, tùy tâm vui thích, đều được đầy đủ.
Đại nguyện thứ mười hai của Đức Dược Sư Như Lai là: Ngài mong muốn đời sau, khi được thành Phật, sẽ khiến cho tất cả hữu tình nghèo cùng khốn khổ đều được mọi thứ y phục đẹp đẽ, cùng đồ trang sức, vật dụng, vui chơi, giải trí.
Giả sử có các hữu tình, vì nghèo cùng khốn khổ, không có áo quần để mặc, cũng không có chăn màn chiếu gối, bị khổ sở vì muỗi mòng; trời lạnh thì không có áo quần để chống rét, trời nóng cũng chẳng có áo quần để che thân; đêm ngày khổ sở bức bách như vậy, không sao chịu được nỗi xót xa thống khổ. Đức Dược Sư Như Lai vì thương xót chúng sinh, nguyện khiến cho tất cả chúng hữu tình đang khốn khổ ấy đều được an lạc, cho nên nói rằng: Nếu nghe danh hiệu của “Ta” - Phật Dược Sư Như Lai, một lòng xưng niệm, tinh chuyên thụ trì đúng như pháp. Từ đó nương nhờ sức uy thần công đức bản nguyện của Phật Dược Sư, có thể như tâm nguyện của họ, mong ước điều gì thì liền được điều ấy, có vô số y phục đủ loại: dài - ngắn, dày - mỏng, tốt đẹp, cao sang, v.v.
Đồng thời, cũng có thể được vô số món báu trang nghiêm như các loại trang sức, đá quý, còn có tràng hoa, phấn sáp. Đây đều thuộc về những đồ trang sức nơi thân thể. Ngoài ra, lại còn trống kèn âm nhạc, các thứ vui thú, tức là các loại công cụ vui chơi giải trí. Nói tóm lại, tùy theo lòng mong muốn thưởng thức của chúng sinh nghèo khổ, Đức Dược Sư Như Lai đều có thể khiến cho họ có được đầy đủ.
1.2.1.3. Tổng kết
Này Mạn Thù Thất Lợi! Đó là mười hai lời nguyện nhiệm mầu của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chính Đẳng Giác đã phát nguyện khi Ngài còn đang hành đạo Bồ tát.
Ở phần trên đã phân biệt, giải thích rõ mười hai đại nguyện, đây là phần tổng kết. Đức Thế Tôn nói xong mười hai đại nguyện của Đức Dược Sư Như Lai, rồi bảo rằng: “Này Mạn Thù Thất Lợi! Đó là mười hai lời nguyện nhiệm mầu của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chính Đẳng Giác đã phát nguyện khi Ngài còn đang hành đạo Bồ tát”. Như Lai, Ứng Cúng, Chính Đẳng Giác, như trước đã nói, đều là danh hiệu chung của các Đức Phật. Ở trong kinh, về danh hiệu Phật, có lúc dùng đủ cả mười danh hiệu, có lúc gọi tắt ba danh hiệu, cũng có khi chỉ nói một danh hiệu. Ở đây thường dùng ba danh hiệu, không mở rộng cũng không khái lược. Mười hai nguyện này, không thể so sánh với những thệ nguyện thông thường, bởi đó là những đại nguyện lợi tha, hoàn toàn được lưu xuất từ tâm đại bi, nên gọi là những đại nguyện vô thượng, vi diệu nhiệm mầu.
Nếu đưa ra nhận xét về nội dung của mười hai đại nguyện thì đại nguyện thứ nhất là hạnh nguyện chúng sinh và Phật đều bình đẳng. Từ nguyện này trở về sau là những nguyện tư tưởng đúng đắn, hành vi hợp lý, đời sống sung túc; bổ sung thêm vào chỗ thiếu cho đủ đầy, bệnh tật thì cứu chữa, đau khổ thì ban cho pháp an lạc; không những chú trọng chuyện cơm ăn áo mặc và đời sống vật chất, mà còn chú ý đến việc giáo dục, vấn đề sức khỏe, cùng những trò giải trí đời thường, đạt đến cuộc sống an bình, hạnh phúc cho nhân loại. Học Phật không phải chỉ để mong cầu cuộc sống tốt đẹp ở đời sau, mười hai đại nguyện của Đức Dược Sư Như Lai đã nói lên điều này rất rõ ràng. Do vậy, việc hoằng truyền Phật pháp trong thế gian là vô cùng đúng đắn, cần thiết và phù hợp, để người đời sau có thể nhận lĩnh được ân huệ.
Đại sư Thái Hư khởi xướng chủ trương Phật giáo vì nhân sinh, tức chú trọng đến việc cải thiện và giải quyết nhu cầu đời sống con người. Ở đây không hoàn toàn nói đến chuyện cơm ăn áo mặc, mà là nhắc nhở chúng ta phải dựa trên cơ sở thực tế, vì làm lợi lạc cho nhân sinh mà phát tâm Đại thừa. Tinh thần của Bồ tát chính là phụng sự chúng sinh. Những ai tu học Phật pháp, thực hành theo tinh thần Bồ tát dấn thân vào thực tiễn cuộc sống, thì đó cũng chính là Bồ tát. Mọi người thử nghĩ xem, nếu ai ai cũng nương theo mười hai đại nguyện của Đức Phật Dược Sư, và vâng theo lời dạy của Đại sư Thái Hư trong Phật giáo nhân sinh để thực hiện, thì thế giới này chẳng phải đâu đâu cũng là Tịnh độ, quốc gia nào cũng đều vững mạnh và yên ổn, xã hội sẽ trở nên lý tưởng đó sao?
Pháp môn Dược Sư ngoài việc chú trọng vấn đề ăn mặc, nghỉ ngơi, đi lại, đời sống sinh hoạt, v.v. và đề cập đến vấn đề sức khỏe, vệ sinh, vui chơi giải trí trong cuộc sống, còn đặc biệt chú trọng đến khía cạnh đúng đắn trong tư tưởng. Cho nên, trọng tâm của pháp môn Dược Sư trong mười hai đại nguyện rất ăn khớp với tinh thần chủ nghĩa dân sinh. Nếu chúng ta có thể đem tinh thần này để chuyển hóa thân tâm, tịnh hóa chính mình và xây dựng quốc gia; rộng hơn nữa, là thanh lọc tư tưởng và sửa đổi hành vi nhân loại, phát triển sản nghiệp nhân gian, v.v. thực hiện thế giới hòa bình, cũng chính là đã có hy vọng rồi.
Vào năm Dân quốc thứ 22 (năm 1933), Viện trưởng Đới đã khởi xướng pháp hội Dược Sư ở núi Bảo Hoa, tiếp nối tinh thần Đức Phật Dược Sư, hướng dẫn đại chúng phát mười hai đại nguyện. Việc này hoàn toàn thực hành trên tinh thần Dược Sư, kết hợp với yêu cầu của chính trị dân sinh, nhờ vào nguyện lực của Đức Dược Sư Như Lai mà hy vọng Tịnh độ Dược Sư được thực hiện ở cõi nhân gian. Chúng ta phải nương vào bản nguyện của Đức Như Lai để thực hành, đó mới là người thực sự có thể tu học pháp môn Tịnh độ Dược Sư.
1.2.2. Quả đức
1.2.2.1. Nói tóm lược để chỉ cái rộng lớn
Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi! Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia đã phát đại nguyện khi thực hành đạo Bồ tát, cùng công đức trang nghiêm ở cõi Phật ấy. Dù trong một kiếp hay hơn một kiếp, Ta nói cũng không hết được.
Hạnh nguyện rộng lớn mà Đức Như Lai đã tu tập khi còn ở Nhân địa trên đây đã lần lượt nói rõ, nay xin hiển bày quả đức thành tựu khi chứng đại Bồ đề. Giờ đây, chúng ta cần bàn thảo một luận đề khác, nên Phật nói: “Lại nữa”. Đức Thế Tôn bảo ngài Mạn Thù Thất Lợi rằng: Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ở cõi Tịnh độ Đông phương kia, khi còn ở Nhân địa, nhờ phát bi nguyện rộng lớn trong khi tu hành đạo Bồ tát, nên đến khi thành Phật, Ngài đã có được công đức thù thắng, trang nghiêm thanh tịnh của cõi Phật ấy. “Ta” (Đức Phật Thích Ca tự xưng) dù là ở trong khoảng thời gian một kiếp hoặc hơn một kiếp, cũng nói không hết được. “Kiếp”, Phạn ngữ gọi là “Kalpa”, là chỉ cho đơn vị thời gian dài, gồm có tiểu kiếp, trung kiếp và đại kiếp.
Theo các thuyết trong Phật giáo, thế giới khi mới thành lập, con người sống thọ 84.000 tuổi. Cứ 100 năm sẽ giảm một tuổi, giảm dần cho tới khi tuổi thọ con người chỉ còn 10 tuổi, rồi cứ sau 100 năm lại tăng thêm một tuổi, liên tục tăng đến lúc được 84.000 tuổi. Một lần giảm một lần tăng như vậy thì gọi là một tiểu kiếp, 20 tiểu kiếp là một trung kiếp, và 80 tiểu kiếp thành một đại kiếp. Như đã nói ở đây, hạnh nguyện của Bồ tát thật vô lượng vô biên, quả đức của Đức Phật cũng vô cùng vô tận, nhiều không kể xiết. Nên Đức Thế Tôn nói bản nguyện công đức và quả báo trang nghiêm của Đức Dược Sư Như Lai, đều chỉ nói lược qua một phần mà thôi. Tuy là nói giản lược nhưng kỳ thực là nói trong thời gian một kiếp hoặc nhiều hơn một kiếp cũng nói không hết được.
1.2.2.2. Lấy Tây phương để dụ cho Đông phương
Nhưng cõi nước của Đức Phật ấy một bề thanh tịnh, không có người nữ, cũng không có đường ác, không có tiếng khổ. Đất làm bằng lưu ly, có dây bằng vàng giăng bên đường đi; thành quách, cung điện, lầu gác, mái hiên, cửa sổ, các lớp lưới giăng, cũng đều do bảy báu làm thành. Chẳng khác gì các công đức trang nghiêm ở thế giới Cực lạc Tây phương.
Đức Thế Tôn trước khi trình bày pháp môn Dược Sư đã từng nói Kinh A Di Đà, mở bày pháp môn Tịnh độ ở thế giới Cực lạc Tây phương. Cho nên bản kinh này có liên quan đến cõi nước thanh tịnh của Phật Dược Sư, không cần trình bày thêm gì nhiều, lấy ngay thế giới Cực lạc làm ví dụ. Đạo của chư Phật đều đồng nhau nên cảnh giới Tịnh độ của chư Phật cũng hoàn toàn không có sai khác. Nay sẽ trình bày sự trang nghiêm ở Tịnh độ Đông phương từ hai phương diện: một là Chính báo của chúng sinh, hai là Y báo của thế giới. Thế giới Tịnh lưu ly của Đức Dược Sư Như Lai, từ khi hình thành cho đến nay vẫn luôn là thế giới thanh tịnh. Thế giới của chúng ta hoặc khi ban sơ thì thanh tịnh, về sau thì biến thành ô uế; hoặc ban đầu ô trược, về sau chuyển thành thanh tịnh; nhưng Tịnh độ Đông phương thì trước sau như một. Vậy, rốt cuộc thế nào là thanh tịnh?
Thứ nhất, không có người nữ. Như trước đã nói qua, thân người nữ có trăm điều xấu ác. Hơn nữa, có nam có nữ ắt phải có vợ chồng, từ đó sẽ phát sinh đủ mọi điều không thanh tịnh. Cõi Tịnh độ Đông phương của Phật Dược Sư không có người nữ, tất cả đều là bậc đại trượng phu; hay nói cách khác, không có tướng nam nữ, tất cả đều bình đẳng như nhau, không có khái niệm phân biệt giữa nam và nữ.
Thứ hai, không có đường ác. Tất cả đường ác đều là sự chiêu cảm của tội lỗi nghiệp chướng. Những chúng sinh sinh về cõi Tịnh độ thì đều đã dứt sạch nghiệp chướng, đầy đủ căn lành. Kinh A Di Đà đã nói: “Cõi nước của Đức Phật kia không có ba đường ác... Cõi Phật ấy, ngay cả tên gọi đường ác còn không có, huống hồ là có đường ác thật ư?”
Bởi không có đường ác, nên mới dẫn đến điều thứ ba là không nghe âm thanh của sự thống khổ. Dưới đây là trình bày về y báo của cõi Tịnh độ: Cõi nước của Đức Dược Sư Như Lai, mặt đất là do ngọc lưu ly thiên nhiên tạo nên. Nó bằng phẳng, sáng trong và đẹp đẽ, dùng dây bằng vàng chia ranh giới để làm đường. “Thành” tức là thành quách, trên cổng thành có lầu gác, “cung” chính là cung điện, “gác” là những lầu nhỏ, “hiên” là mái hiên nhô ra trên nhà. Cho đến “cửa sổ”, “lưới giăng” đều làm từ bảy thứ châu báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, mã não. Tất cả công đức trang nghiêm, hoàn toàn không khác gì với thế giới Cực lạc Tây phương. Nếu muốn biết rõ ràng các chi tiết, có thể đọc Đại bản Kinh A Di Đà.
1.2.2.3. Nêu người cộng sự để ca ngợi vị lãnh tụ
Ở trong cõi nước ấy có hai vị đại Bồ tát là Nhật Quang Biến Chiếu và Nguyệt Quang Biến Chiếu, là hai vị thượng thủ trong vô lượng vô số chúng Bồ tát, tiếp đến được bổ xứ làm Phật, và đều đủ khả năng giữ gìn kho báu chính pháp của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.
Cõi Tịnh độ Đông phương không chỉ có Đức Phật Dược Sư Như Lai, mà còn có vô lượng vô biên Bồ tát trợ giúp việc giáo hóa. Cũng như trong quốc gia, ngoài vị nguyên thủ tối cao ra còn có bá quan văn võ phò tá việc trị vì đất nước. Tịnh độ Đông phương cũng giống như vậy, còn có hai đại Bồ tát là những vị trợ thủ đắc lực, giúp Đức Phật xiển dương giáo hóa. Vị Bồ tát thứ nhất là “Nhật Quang Biến Chiếu”, vị thứ hai là “Nguyệt Quang Biến Chiếu”, là bậc thượng thủ trong vô lượng vô biên chúng Bồ tát ở quốc độ kia. Thượng thủ là vị lãnh đạo. Ở đây dùng ví dụ để diễn tả rằng: Trong hư không sáng đẹp, ánh sáng của mặt trời, mặt trăng là đứng đầu trong vô lượng vô biên ánh sáng của các vì sao. Hai vị đại Bồ tát là những vị kế thừa Đức Phật Dược Sư Như Lai, sau này lần lượt sẽ lên thay thế Đức Phật Dược Sư, thành Phật ở cõi này. Vị được bổ xứ ở cõi Sa bà là Đức Phật Di Lặc. Vị bổ xứ làm Phật ở cõi Tịnh độ Tây phương chính là Bồ tát Quán Âm và Bồ tát Thế Chí. Và ở thế giới Tịnh lưu ly chính là hai vị đại Bồ tát Nhật Quang và Nguyệt Quang.
Công đức trí tuệ của hai vị Bồ tát rất lớn, đều có thể giữ gìn kho báu chính pháp của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Ví như thái tử con vua có thể thúc đẩy thi hành rộng rãi chính sách cai trị của vua cha thì mới có thể kế thừa được vương nghiệp. Bồ tát bổ xứ là vị kế thừa chính pháp của Đức Phật, đương nhiên có thể gìn giữ kho báu chính pháp của Phật. Pháp của chính pháp ấy là thật tướng thường tại, bao trùm khắp. Pháp ấy chẳng phải tà nên gọi là chính, cũng có thể gọi là diệu pháp, tức là pháp ấy không phải thô thiển mà vi diệu, lìa khỏi hẳn nhị biên (chấp thường, chấp đoạn), và cũng gọi là pháp Trung đạo. Tạng là một cái kho, tất cả tiền của, báu vật quý giá, khi chưa dùng đến thì có thể cất vào đó, lúc cần thì đem ra. Tất cả công đức pháp tài vi diệu thanh tịnh đều được lưu xuất từ “kho” chính pháp này; tất cả pháp môn và vô biên công đức cũng đều được cất giữ trong đó, cho nên chính pháp được gọi là “Bảo tạng” (kho báu). Hai vị đại Bồ tát này có thể gìn giữ kho báu chính pháp ấy, không để lạc mất, xiển dương và lưu truyền cho đến vô tận.
1.2.3. Tóm tắt và khuyến khích vãng sinh
Cho nên Mạn Thù Thất Lợi! Những vị thiện nam, tín nữ nào có lòng tin, hãy nên nguyện sinh về thế giới của Đức Phật ấy”.
Từ đây trở về trước là nêu rõ hạnh nguyện, y báo, chính báo và quả đức ở Nhân địa, tức là biết cõi Tịnh độ Đông phương trang nghiêm như thế. “Cho nên Mạn Thù Thất Lợi!” Phàm là những “vị thiện nam, tín nữ nào có lòng tin” đối với pháp môn Dược Sư, thì hãy nên lập chí nguyện kiên cố, cầu được sinh về thế giới Tịnh lưu ly của Phật Dược Sư. Không những của cải vật chất giàu có sung mãn, mà mọi người cũng an vui vô cùng, và còn được Đức Phật giáo hóa, chỉ đường dẫn lối. Theo đoạn văn ở phần sau nói, phàm có thể sinh về Tịnh độ Đông phương, liền được bất thoái chuyển nơi Bồ đề. Pháp môn như thế, các cõi Tịnh độ trong mười phương cũng khó mà có được, nên cần phát nguyện vãng sinh mới đúng.
2. Phương tiện khéo léo
2.1. Lợi ích của việc nghe và ghi nhớ danh hiệu
2.1.1. Lợi ích của việc xa lìa điều xấu ác
2.1.1.1. Xa lìa tâm tham lam, keo kiệt
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo Mạn Thù Thất Lợi đồng tử rằng: “Này Mạn Thù Thất Lợi! Có các chúng sinh không biết thiện ác, chỉ ôm lòng tham lam bỏn xẻn, không biết bố thí và quả báo của sự bố thí, ngu si không có trí tuệ, thiếu mất đức tin, chứa nhiều tài sản của báu rồi chỉ bo bo nắm giữ. Thấy người nghèo đến xin thì họ không vui, giả như buộc phải bố thí thì họ coi như cắt thịt nơi thân, trong lòng vô cùng đau đớn, nuối tiếc. Lại có vô lượng chúng sinh tham lam, bỏn xẻn, tích chứa tiền của, đến ngay bản thân mình còn chẳng dám tiêu dùng, huống gì có thể cho cha mẹ, vợ con, tôi tớ, kẻ giúp việc và người hành khất xin ăn? Các chúng hữu tình ấy, ở đời này khi mạng chung sẽ đọa xuống cõi ngạ quỷ, hoặc đầu thai vào loài bàng sinh.
Trong lời khai thị của Đức Phật, y báo, chính báo cùng hạnh nguyện đã được giảng xong, nay xin nói tiếp về phương tiện thiện xảo của Phật Dược Sư. Đức Dược Sư Như Lai nương vào năng lực bản nguyện trong nhân quá khứ, cùng vô biên công đức quả Phật hiện chứng cứu độ tất cả khổ ách cho chúng sinh. Việc độ sinh chủ yếu là lòng từ bi, nhưng từ bi luôn ẩn tàng trong tâm, cần phải có phương tiện khéo léo cao độ mới hiển bày ra được. Lợi ích của việc cứu độ chúng sinh có thể chia ra ba loại: lợi ích của việc nghe và ghi nhớ danh hiệu; lợi ích của việc trì chú trị bệnh; lợi ích của việc cúng dàng thụ trì. Trong phần lợi ích của việc nghe danh hiệu lại có hai loại là: xa lìa điều xấu ác và được lợi ích tốt đẹp. Xa lìa điều xấu ác cũng có bốn loại, trước tiên xin nói rõ việc xa lìa điều xấu như tham lam, bỏn xẻn.
Đây là một đoạn văn lớn khác, nên mới mở đầu lại là “lúc bấy giờ”, nghĩa là lúc Đức Thế Tôn mở bày Tịnh độ của Phật Dược Sư trang nghiêm như thế nào và Ngài khuyến khích mọi người nên vãng sinh về cõi ấy. Đức Thích Ca Thế Tôn lại nói với ngài Mạn Thù Thất Lợi đồng tử rằng: Có các chúng sinh không thể phân biệt rõ ràng điều thiện điều ác, mà chỉ luôn ôm lòng tham lam, bỏn xẻn thấp hèn. Việc không biết rõ thiện ác này không phải là do ngu dốt. Trên thế gian có vô số người thông minh, bụng đầy mưu chước, tài trí hơn người, nhưng việc tốt thì không làm, ngược lại cứ mê muội làm chuyện ác. Không rõ thiện ác ở đây là muốn ám chỉ những kẻ phủ nhận nhân quả thiện ác, mạt sát, xem nhẹ giá trị đạo đức. Do không biết nhân quả thiện ác, nên cũng không biết ý nghĩa của việc bố thí, cho đến quả báo của việc bố thí. Có một số người, chỉ trong chốc lát có thể đặt cược thua rất nhiều tiền, nhưng khi gặp việc từ thiện công ích, thì đến một chút ít cũng không chịu bỏ ra quyên góp. Còn một số người, có thể vì những chuyện vô nghĩa như ăn uống chơi bời, trai gái, bạn bè mà tiêu xài đến hàng trăm hàng vạn, nhưng lại không thể mở lòng bố thí nổi một bát cơm cho người ăn xin nghèo cùng túng khổ.
Những hạng người này không hẳn là hạng người keo kiệt, mà vốn dĩ họ chưa hiểu được giữa người với người, họa phúc tương quan với nhau nên cần phải có sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau, nên bố thí để tăng trưởng công đức cho bản thân, cầu mong được phúc báo giàu sang cho chính mình. Của cải vật chất vốn có được nhờ công đức bố thí. Cũng giống như gieo một hạt lúa, hạt đậu thì sẽ thu hoạch được nhiều gấp bội lần. Thế nhưng, có một số người không biết nhân quả thiện ác, cho rằng bố thí là việc hoàn toàn chẳng có lợi ích gì. Những người này không biết nhân quả thiện ác, không tin Tam bảo, là “ngu si vô trí”. Do không biết nhân quả, không tin Tam bảo, nên đối với tất cả những người nghèo khổ, bệnh tật đều không chịu mở lòng bố thí, càng không biết đến cúng dàng. Từ sáng đến tối họ luôn tham lam, keo kiệt, khổ sở vì bo bo gìn giữ của cải, không muốn buông ra. Nếu thấy có người nghèo khổ đến xin cơm áo, hoặc cơ quan từ thiện đến vận động quyên góp, thì trong lòng họ càng lo sợ không vui. Thế nhưng, có lúc vì liên quan đến công việc hoặc thể diện, bất đắc dĩ phải bố thí thì cũng giống như lấy dao cắt thịt trên thân mình vậy, lòng sẽ vô cùng tiếc nuối, đau khổ.
Những người giống như vậy, vì thỏa mãn ham muốn của bản thân mà có thể bỏ tiền ra tiêu xài, tuy nhiên lại dùng vào những việc hoàn toàn không chính đáng. Lại có vô số chúng hữu tình tham lam, keo kiệt, chỉ biết đem của cải, tài sản tích chứa cho nhiều, đối với bản thân mình còn không dám bỏ ra để tiêu xài, huống chi là nghĩ đến việc hiếu dưỡng cha mẹ, chu cấp cho vợ con? Đối với kẻ hầu hạ, người giúp việc (người làm thuê) ở trong gia đình thì hà khắc, bạc đãi khỏi phải nói. Và thậm chí, gặp kẻ ăn mày đến xin thì họ lại càng hắt hủi, chẳng thí lấy một đồng. Trong mắt của những người này chỉ có tiền là trên hết, càng nhiều tiền càng tốt, còn dùng tiền vào việc gì thì xưa nay họ chưa hề nghĩ tới.
Các hữu tình tham lam keo bẩn, bo bo như vậy, sau khi giã từ cõi đời này nhất định sẽ sinh vào cảnh giới ngạ quỷ, hoặc là đọa lạc nơi loài bàng sinh. Ở đây nói lược, nếu nói đủ thì còn có cõi địa ngục nữa. Ngạ quỷ, nghe tên liền hiểu được ý nghĩa, loài này luôn luôn ở trong tình trạng tìm cầu miếng ăn, nhưng chẳng bao giờ được một lần no dạ. Đến ngay cả nước uống cũng không tìm được một giọt, mãi mãi sống trong sự thúc bách, thiêu đốt của sự đói khát. Đây là quả báo mà họ phải chuốc lấy do tham lam không biết đủ, có tiền của mà không chịu bố thí. Bàng sinh hay còn gọi là súc sinh, một số chúng sinh cũng do tham lam, keo kiệt mà đọa lạc vào đó. Ở trong cõi súc sinh thường rất khó tìm kiếm được thức ăn, dù hung hãn như hổ và sói nhưng cũng khó tránh khỏi đôi lúc vẫn phải bị đói. Người tham lam không biết chán thì mãi mãi không được đủ đầy, nghĩa là mắc ác báo mãi mãi không được đầy đủ.
Nhưng nhờ khi xưa ở nhân gian, từng được nghe qua danh hiệu của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, nay ở nơi cõi ác, tạm nhớ nghĩ đến danh hiệu của Đức Phật ấy, liền từ nơi đó chết đi, tái sinh trở lại làm người. Nhớ lại kiếp trước, sợ đau khổ nơi đường ác nên không say đắm dục lạc, thích làm việc bố thí, ca ngợi người bố thí, không tham tiếc bất cứ thứ gì, dần dần còn có thể đem cả thân mình như: đầu, mắt, tay, chân, máu huyết, v.v. bố thí cho người đến xin, huống còn tiếc gì các thứ của cải vật dụng khác.
Như đoạn trước đã nói, chúng sinh vì tham lam, bỏn xẻn mà phải đọa vào nẻo ác, nhưng nhờ lúc trước ở nhân gian từng nghe danh hiệu Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, trong lúc vô tình hay cố ý đã xưng niệm qua, trong tâm còn lưu lại hạt giống thiện lành, nên ngay khi họ bị đọa vào đường ác, bị những nỗi khổ đau giày vò, thiêu đốt, không cách nào có thể trốn được, bỗng nhiên tạm nhớ lại danh hiệu của Đức Phật ấy, sinh lòng chí thành tha thiết mà quy y. Nhờ vào công đức nhớ nghĩ danh hiệu Đức Như Lai trong giây lát ấy mà từ nơi ba đường ác kia chết đi, kết thúc kiếp sống đau khổ, được sinh trở lại làm người. Nhờ vậy, có thể thấy được sức từ bi phương tiện của Đức Dược Sư Như Lai. Tình cờ nghe qua danh hiệu của Ngài mà có được công đức lớn như thế, quả thật ân đức của Phật khó có thể kể hết. Chúng sinh nghe danh hiệu Phật, trong tâm liền lưu lại hình ảnh, Phật giáo gọi là “văn huân tập”.
Một khi gặp phải khổ nạn liền có thể nhớ lại, do đây mà được thoát khổ. Thường thì, có một số người, ngày thường không có niềm tin kiên cố, lúc gặp nạn mới nhớ lại danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm, cùng các Thánh hiệu khác rồi chí thành xưng niệm, nhờ đó mà tránh khỏi tai nạn. Sau khi được sinh trở lại ở cõi người, nhớ được kiếp trước đã từng trải qua, mình phải đọa vào đường khổ là do tham lam, keo kiệt, bỏn xẻn, không chịu bố thí. Do vậy, đời này thường sợ sự đau khổ nơi đường ác, dốc lòng sửa đổi những lỗi lầm trước, không còn ích kỷ, chỉ biết lo cho bản thân, ham vui say đắm ngũ dục (tài sản, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ). Ngược lại, có thể làm lợi ích cho người khác, thích làm chuyện bố thí, hoặc bố thí cho người ăn xin, hoặc cúng dàng Tam bảo, hoặc nhiệt tâm làm việc từ thiện, công ích của xã hội. Không chỉ bản thân thích làm bố thí, mà còn tùy hỷ, vui vẻ, ca ngợi việc bố thí của người khác. Như thế, tất cả của cải mà bản thân có được đều không tham lam, luyến tiếc, mà có thể đem bố thí, dần dần tiến tu từ việc bố thí ngoại tài đến phát tâm bố thí nội tài. Ngay đến cả các bộ phận nơi thân như: đầu, mắt, tay, chân, máu huyết của mình cũng có thể dễ dàng bố thí cho người đến xin, huống là những của cải, vật chất bên ngoài thân? Việc này đều nhờ nghe danh hiệu của Đức Dược Sư Như Lai mà có thể thoát khỏi hành vi ác và quả báo xấu của sự tham lam, keo kiệt.
2.1.1.2. Xa lìa các điều ác, phạm giới, phá phép tắc, hủy hoại chính kiến, Tăng thượng mạn
Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi! Nếu có các hữu tình, tuy nhận các học xứ từ nơi Đức Phật, mà lại phá giới. Có vị tuy không phá giới mà lại phá phép tắc. Có vị tuy không sai phạm giới và phép tắc, nhưng hủy hoại chính kiến. Có vị tuy không hủy hoại chính kiến mà lại bỏ đa văn, đối với nghĩa lý sâu xa trong khế kinh mà Đức Phật nói, không thể hiểu rõ. Có vị tuy đa văn, nhưng lại Tăng thượng mạn, do Tăng thượng mạn che lấp tâm tính nên cho mình là đúng, người khác sai quấy, chê bai chính pháp, kết đảng với ma. Những người ngu si như vậy, tự bản thân đã làm việc tà kiến, lại khiến vô lượng ức chúng hữu tình rơi xuống vực sâu nguy hiểm. Các hữu tình này đọa vào địa ngục, bàng sinh, ác thú lưu chuyển không cùng; nếu được nghe danh hiệu Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, liền bỏ việc làm xấu ác, tu các pháp lành, không đọa vào đường ác.
Đức Thế Tôn lại bảo ngài Mạn Thù Thất Lợi rằng: Nếu có các hữu tình tuy trong chính pháp của Đức Phật, thụ các học xứ mà lại phá hoại giới pháp. Học xứ, tức là Giới luật, chính là các giới điều mà đệ tử Phật cần phải tu học. Phật pháp có vô số học xứ, như chúng tại gia thụ năm giới, chúng Tỳ kheo thụ giới của Tỳ kheo, chúng Bồ tát thì thụ giới của Bồ tát, học xứ của mỗi chúng đều không giống nhau. Đã thụ học xứ rồi thì phải gìn giữ, hành trì không để vi phạm. Nhưng chúng sinh phiền não nặng nề, hoặc do môi trường xấu, hoặc do sự phóng dật mà hủy phạm. Phạn ngữ gọi là “śīla” (Thi la), có nghĩa là thanh tịnh, dịch nghĩa là “Giới”. Trì giới thì có thể diệt trừ tất cả phiền não, nghiệp chướng, đạt được sự thanh tịnh, an vui và tự tại, nên gọi là Thi la. Phá Thi la, tức là đã hủy phạm và phá mất các tính giới như: sát, đạo, dâm, vọng, v.v.
Có người tuy không phá tính giới Thi la, nhưng lại phá phép tắc. Đệ tử Phật thụ giới rồi, lại còn phải vâng theo các quy tắc liên quan đến đời sống Tăng đoàn, hoặc là các quy tắc ứng xử ở chốn đông người trong xã hội. Phá Thi la là phạm trọng tội, nhưng chỉ làm tổn hoại đức hạnh cá nhân, còn phá quy tắc là vi phạm quy luật chung của đoàn thể. Phạm các giới liên quan đến tập thể thì tội lỗi rất lớn. Việc này có thể hiểu là: tuy đức hạnh cá nhân thì tốt nhưng lại làm cho thanh danh của tập thể bị ảnh hưởng.
Có người giữ gìn, thực hành được giới luật, phép tắc cũng chưa từng hủy phạm, nhưng lại làm “hủy hoại” chính kiến. Việc này có nghĩa là hành vi tuy không sai phạm, nhưng tư tưởng lại sai lạc, không đúng đắn. Biết có thiện ác, nhân quả, có sinh tử, giải thoát, có Thánh hiền, phàm phu, đây là chính kiến của thế gian. Liễu ngộ khổ, không, vô thường, vô ngã, Niết bàn tịch tịnh, Pháp tính như như, đó là chính kiến xuất thế gian. Khi Đức Thế Tôn còn tại thế, có một Tỳ kheo cho rằng: Niết bàn hoàn toàn không có thật. Đây là tà kiến phá hoại chính kiến. Giới đức, quy luật tuy giữ gìn đầy đủ, thế nhưng phá hủy chính kiến, thì tội lỗi càng lớn hơn. Bởi phá hủy chính kiến sẽ ảnh hưởng đến người khác, chẳng hạn như: từ sự thấy biết không đúng đắn về Phật pháp, mà truyền bá giáo pháp sai lầm tà vạy… như thế thì số người bị tổn hại sẽ càng nhiều hơn.
Có người tuy có thể không hủy hoại chính kiến, nhưng lại bỏ mất đa văn. Các chúng sinh dạng này, tri kiến mặc dù đúng đắn, thế nhưng lơ đễnh tinh thần “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, và đối với họ, chỉ cần một bộ kinh, một câu kệ của Phật là đã đầy đủ rồi, thậm chí xem những kinh luận khác là quá dư thừa.
Như vậy, làm sao họ có thể thấu hiểu được nghĩa lý thâm sâu mà Đức Phật đã nói trong khế kinh, trước sau vẫn lầm nhận giáo nghĩa Bất liễu nghĩa là Liễu nghĩa. Nếu những người học Phật đều như thế thì Tam tạng Thánh điển vô giá, phong phú khác nào chỉ được trưng bày nơi lầu cao gác rộng! Đoạn mất tuệ mạng của mọi người, che mất con mắt trí tuệ của thế gian thì tội lỗi ấy nặng nề biết nhường nào!
Có người tuy không bỏ đa văn, thấu hiểu Phật pháp rất sâu sắc, trình độ uyên thâm, nhưng lại sinh tâm Tăng thượng mạn, sinh ra kiêu mạn, nghĩa là chưa chứng mà nói đã chứng, chưa đắc mà xưng đã đắc. Học giả ở thế gian, học thức mới cao hơn mọi người một ít mà đã sinh lòng kiêu mạn. Người học Phật đôi khi cũng mắc sai lầm như vậy, học rộng hiểu nhiều hoặc có chút kinh nghiệm tu tập Thiền quán thì liền khởi Tăng thượng mạn. Hạng người này do lòng Tăng thượng mạn che lấp tâm trí, ngông cuồng, ngạo nghễ, xem thường người khác, hống hách tự cho mình là đúng, chê bai người khác, nói người khác không đúng. Kết quả là kẻ ấy chê bai, nhạo báng chính pháp, tự cho mình là trưởng tử của Như Lai, riêng mình chứng được chính pháp, mà không biết thật ra mình đã “kết đảng với ma”. “Người ngu si như vậy”, không những bản thân mình tà kiến, mà lại còn khiến cho vô lượng ức hữu tình cũng rơi vào vực sâu nguy hiểm của tà kiến.
Những hữu tình này học Phật pháp mà lầm đường lạc lối, tội lỗi đầy rẫy, nên bị đọa vào địa ngục, bàng sinh, ngạ quỷ, trôi lăn trong vòng sinh tử vô cùng vô tận, luôn phải chịu các khổ não vây quanh. Nhưng nhờ uy lực từ bi của Đức Phật Dược Sư vốn bất khả tư nghì, nên trong khoảng đời sống từ khi người ấy phá giới đến lúc khởi lòng Tăng thượng mạn, nếu được nghe danh hiệu Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia, thì liền có thể ghì giữ dây cương ngựa bên bờ vực thẳm, tha thiết sửa lỗi xưa, bỏ đi tất cả ác hạnh. Lỡ phạm giới cấm có thể hồi đầu phản tỉnh, chuyên tâm gìn giữ tịnh giới, lỡ hủy phạm phép tắc thì vẫn có thể trở lại tuân thủ phép tắc, cho đến không bỏ đa văn, không sinh lòng Tăng thượng mạn; mà còn tinh tiến dũng mãnh, tu tập vô lượng thiện pháp: trì giới, chính kiến, đa văn, lìa Tăng thượng mạn, v.v. Chính những điều này đã kéo những người ấy về với nẻo thiện, giúp cho họ không còn bị trở lại, đọa lạc vào đường ác nữa. Việc này cũng giống như kẻ từ lầu cao rơi xuống đất, nhưng nửa chừng lại được cứu vớt vậy.
Giả sử có người không thể bỏ được các hạnh ác, tu tập pháp lành, phải rơi vào nẻo ác, nhưng nhờ uy lực bản nguyện của Đức Phật kia, khiến cho người đó trong hiện tại được tạm nghe danh hiệu; nhờ đó, mạng chung, sinh lại loài người, thấy biết chân chính, tinh tiến, khéo điều hòa được tâm ý, liền có thể bỏ cuộc sống gia đình để phát tâm xuất gia. Ở trong giáo pháp của Như Lai, thụ trì giới cấm mà không hủy phạm; được chính kiến, đa văn, thấu rõ nghĩa lý thâm diệu, lìa tâm Tăng thượng mạn, không nhạo báng chính pháp, không làm bạn với ma, lần lần tu tập các hạnh của Bồ tát, mau được viên mãn.
Người nghiệp chướng nhẹ mà căn lành sâu dày, nếu xưng niệm Thánh hiệu của Đức Dược Sư Như Lai, có thể nhờ vào sự gia bị của nguyện lực từ bi mà bỏ làm việc ác, hướng đến điều thiện, không bị rơi vào nẻo ác. Giả như có người tội lỗi nghiệp chướng quá nặng, căn lành lại mỏng, không thể xoay chuyển tư tưởng, hành vi trong thoáng chốc được. Dĩ nhiên, chẳng bỏ các hạnh ác, không tu tập pháp lành thì đâu thể tránh khỏi bị rơi vào nẻo ác. Nhưng nhờ vào uy lực bản nguyện của Đức Phật Dược Sư, khiến những chúng sinh tội lỗi ác nghiệp trong lúc ấy tạm được nghe danh hiệu của Phật Dược Sư, nhờ công đức này liền được từ nơi đường ác kia, mạng chung và sinh lại cõi người. Ở cõi người nghe được lời dạy bảo, nếm trải quá nhiều đau khổ, nhớ lại khổ xưa thì càng thấm thía sâu sắc sự sai quấy của việc phá kiến, phạm giới lúc trước, mà được đứng vững trên nền tảng của “chính kiến”, sau đó “tinh tiến” tu hành, khéo hay giữ được an lạc trong tâm.
Bởi vì họ đã thực sự nếm trải những điều đáng kinh hãi trong ba đường ác, cảm nhận sâu xa ân đức và bi nguyện độ sinh cao quý của Phật nên không còn lưu luyến thế gian, có thể rời bỏ gia đình hướng đến con đường xuất gia. Ở trong chính pháp của Đức Phật, thụ trì các giới cấm (học xứ), sợ hãi, thận trọng giữ gìn giới cấm không có hủy phạm, lại còn khởi chính kiến, cầu được đa văn, thấu rõ nghĩa lý sâu mầu trong khế kinh, xa lìa Tăng thượng mạn, không còn hủy báng chính pháp, không bị rơi vào hố ma và làm bạn với chúng ma nữa. Tiến tu dần dần như vậy, tu tập Lục độ vạn hạnh của chư Bồ tát thì công đức càng có thể mau chóng đạt đến chỗ viên mãn.
Đoạn văn này, đối với những người tu học Phật pháp, đặc biệt là thời mạt pháp như hiện nay, càng trở nên quan trọng. Nếu phạm vô số tội lỗi ở trên, sẽ đọa lạc mà không cách gì cứu được mình, thế thì càng phải ngay nơi đời này gia tâm tu tập pháp môn Dược Sư, xưng niệm danh hiệu Ngài, cầu được nguyện lực từ bi của Đức Phật Dược Sư Như Lai gia bị, giúp chúng ta tiêu trừ nghiệp chướng, chừa bỏ điều ác, hướng đến điều lành. Đừng đợi đến khi đọa vào ba đường ác chịu khổ rồi mới hồi tâm tu hành.
2.1.1.3. Xa lìa tâm đố kỵ và chê bai
Lại nữa Mạn Thù Thất Lợi! Nếu có các hữu tình tham lam, keo kiệt, đố kỵ, khen mình chê người, phải đọa vào trong ba đường ác, vô lượng trăm nghìn năm chịu các thống khổ; chịu đau đớn khổ sở ấy rồi, mạng chung, sinh trở lại nhân gian, làm thân trâu ngựa, lừa và lạc đà, thường bị đánh đập, đói khát thiêu đốt bức bách, lại phải chở nặng đi đường dài. Hoặc được làm người, sinh vào nơi hạ tiện, làm thân tôi tớ, bị người khác sai khiến, không khi nào được tự do.
“Đố kỵ”, có nghĩa là không chịu được trước sự vinh hiển của người khác, điều này phát sinh từ tâm tham lam, hẹp hòi. Bởi do lòng đố kỵ nên tất nhiên sẽ “khen mình chê người”. Chẳng hạn, thấy người có tiền của, có thế lực hoặc có danh tiếng, có địa vị, có học thức, có năng lực, có đạo đức, tất cả đều hơn mình thì liền sinh lòng đố kỵ ngăn cản, vì không thể chịu được; thêm vào đó là khen mình chê người, vì sợ không chê bai người khác thì sẽ không bộc lộ được cái hay ho của mình. Nhưng cần phải hiểu rằng, khen mình chê người là tội lỗi rất nặng, sau này sẽ đọa vào trong ba đường ác, trải qua vô lượng trăm nghìn năm, chịu đủ các sự thống khổ, vô cùng thảm khốc. Không những chịu nhiều đau khổ trong địa ngục, ngạ quỷ, mà ngay khi chịu quả báo đau khổ cùng cực xong rồi, từ nơi cõi ác ấy mạng chung, sinh trở lại nhân gian, hoặc làm thân các loài súc sinh như: trâu, ngựa, lạc đà, lừa, v.v. luôn luôn bị người đánh đập, cam chịu các thứ đói khát thiêu đốt, thúc ép; lại thường chở nặng đi xa. Hoặc được làm người, cũng lại sinh vào nơi hạ tiện, ngu dốt không có năng lực, suốt đời làm kẻ tôi tớ bị người khác sai khiến, chi phối, không tự làm chủ được bản thân và không được tự do, tự tại. Tự khen mình chê người chỉ vì mong được chễm chệ ở trên cao, nhưng quả báo lại bị sinh vào nơi hạ tiện, bị người khác sai khiến.
Nếu xưa ở trong cõi người, từng nghe danh hiệu Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, do nhân lành này mà nay nhớ lại rồi thành tâm quy y. Nhờ thần lực Đức Phật mà thoát khỏi các khổ, các căn thông lợi, trí tuệ đa văn, hằng mong cầu giáo pháp thù thắng, thường gặp bạn lành, dứt hẳn lưới ma, phá nát vỏ vô minh, tát cạn sông phiền não, giải thoát tất cả sinh, già, bệnh, chết, ưu tư, sầu bi, khổ não.
Nếu các chúng sinh này, lúc xưa sống trong loài người, từng nghe qua danh hiệu Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, nhờ nơi nhân lành tích góp đời trước này, giờ đây nhớ lại danh hiệu Đức Như Lai, sinh lòng xấu hổ, thành tâm quy y và khẩn thiết mong cầu được cứu độ. Lúc đó, Đức Phật liền đem thần lực uy hùng thương xót mà hộ niệm, bất luận là súc sinh, trâu ngựa, hoặc là nô tì, phu dịch, vô biên thống khổ, hoàn toàn đều được giải thoát. Hơn thế, còn được các căn thông lợi, trí tuệ đa văn, luôn luôn biết mong cầu Phật pháp thù thắng, thường gặp được bạn lành, xa lìa bạn ác, vĩnh viễn dứt trừ lưới tà kiến của ma ngoại đạo, đập nát vỏ vô minh.
“Vỏ”, chính là vỏ trứng. Giống như con gà lúc chưa ra khỏi trứng, bị nhốt ở trong vỏ là nơi tối tăm và không được tự do; chúng sinh ở trong lớp vỏ che lấp của vô minh phiền não, ngu si mông muội, không được giải thoát tự tại cũng giống như gà con ở trong vỏ vậy. Cho nên phá trừ vô minh, được gọi là đập nát vỏ vô minh. Con “sông phiền não” đầy hiểm nguy hung tợn, chính là nơi chúng sinh bị chìm đắm, cũng nhờ vào sự gia trì thần lực của Đức Phật, tinh tiến tu hành mà làm cho sông ấy khô “cạn” đi. Vô minh và phiền não chính là nguồn nước nuôi dưỡng dòng sinh tử. Một khi đã phá vỡ được vỏ bọc vô minh, tát cạn sông phiền não, thì tất cả: sinh, già, bệnh, chết, ưu tư, sầu thương, khổ não, đương nhiên cũng được giải thoát hoàn toàn.
2.1.1.4. Tránh xa các điều ác, tranh kiện, đấu đá
Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi! Nếu có các hữu tình ưa thích sự ngang trái chia lìa, tranh đấu, kiện tụng lẫn nhau, não loạn mình và người, đem thân, miệng, ý làm lớn mạnh thêm vô số ác nghiệp, thường làm những chuyện không ích lợi, oán kết rồi mưu hại lẫn nhau. Chiêu mộ các thần núi, thần cây, thần gò đồi; sát hại chúng sinh rồi lấy máu thịt cúng tế quỷ Dược xoa, La sát, v.v. Viết tên người oán cừu, làm hình tượng của những người ấy, dùng chú thuật tà ác để nguyền rủa. Hoặc dùng cách yểm đối, ma quái, đầu độc, niệm chú chiêu vời quỷ tử thi, khiến cho kẻ oán thù phải tán thân, mất mạng.
Đây là lời nguyền rủa xấu ác, những hành vi tranh đấu, kiện tụng, nguyền rủa, mưu hại, v.v. của chúng sinh không có đạo đức, tất cả đều bắt nguồn từ lòng sân hận. Những việc này cũng có thể nhờ niệm danh hiệu Đức Dược Sư Như Lai mà được giải trừ.
Trong Kinh Bản nguyện công đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai lại nói rằng: Nếu có các hữu tình, do lòng sân hận quá nặng nề, hai bên lại ở cùng nhau, đã không chịu tìm cách hòa giải, lượng thứ cho nhau mà lại thích gây chuyện thị phi, ưa thích ly gián, ngang trái đến nỗi ngày càng tranh đấu, kiện tụng lẫn nhau. Tranh đấu nghĩa là ẩu đả, kiện tụng nghĩa là tranh biện hoặc chỉ trích, bới móc trên văn tự đơn từ, hoặc kiện cáo trước pháp luật. Kết quả hai bên đều bị thương tổn, làm não loạn cho bản thân, lại còn gây não loạn cho người khác, cả hai bên đều vô cùng đau đớn, khổ sở.
Giữa người với người nếu không chịu sống hòa thuận với nhau, sẽ gây nên sự chia rẽ trong gia đình, xáo trộn trật tự cho xã hội. Giữa quốc gia với quốc gia mà không chịu chung sống hài hòa, thì rất dễ dẫn đến các cuộc chiến tranh quốc tế. Nói tóm lại, con người không thể chung sống hòa bình, tương trợ lẫn nhau đều do sự quấy rối của lòng sân hận và phiền não gây ra. Chúng sinh ưa thích sự chống trái chia lìa, ưa não loạn mình và người, dùng ba nghiệp “thân, miệng, ý” làm lớn mạnh thêm vô số nghiệp ác. Người hại ta, ta hại lại người, hoặc công khai hoặc mờ ám, mưu hại lẫn nhau tạo nên vòng báo oán luẩn quẩn, thường làm những việc xấu ác, không ích lợi gì cho chúng sinh.
Người có thế có lực có thể trực tiếp mưu hại đối phương, nhưng người không thế không thân thì nghĩ một hướng tà ác, bí hiểm khác. Ví như khấn vái, triệu mời các quỷ thần ở nơi núi rừng, cây cỏ, cho đến những nơi mồ mả, nhờ họ thay thế báo thù. Hoặc sát hại lấy máu thịt các loài chúng sinh như: trâu, dê, gà, vịt, v.v. để tế quỷ Dược xoa và quỷ La sát bà, v.v. “Dược xoa”, dịch nghĩa là “khinh tiệp”, nghĩa là hành động cực kỳ mau lẹ, và có sức mạnh rất lớn. “La sát bà” dịch nghĩa là ‘‘bạo ác”. Hai loài này đều có sức mạnh rất lớn trong các loài ác quỷ, nên nhiều người vẫn thường cúng tế chúng, mong nhờ chúng sát hại kẻ thù địch. Hoặc là viết tên họ của kẻ thù (ở Trung Quốc còn viết thêm phần ngày tháng năm sinh), dùng cây cỏ làm hình nộm, dùng chú thuật độc ác để trù rủa đối phương.
Hoặc dùng lối yểm đối, ma quái, đầu độc để hại. “Yểm đối”, giống như người thợ mộc oán ghét người chủ đối xử không tốt, liền giấu các vật như dao, tên, hình nộm vào đòn dông nhà, nơi tường vách, khiến người chủ ở không yên. “Ma quái”, gần giống như loài yêu tinh mà người Trung Quốc nói đến. “Đầu độc”, là gom các con trùng độc lại, để chúng tàn sát lẫn nhau, đến khi chỉ còn lại một con thì đem giết nó đi, nghiền nát thành bột nhỏ, rồi lén bỏ vào trong đồ ăn hoặc quần áo của người thù oán, làm cho họ bị trúng độc mà chết. Lại còn “niệm chú chiêu vời quỷ tử thi”, nghĩa là đối trước thây chết niệm chú khiến cho đầu thây chết hoạt động trở lại, đưa dao súng cho nó rồi yêu cầu nó đi cướp đoạt mạng sống của người thù oán, hoặc hủy hoại thân thể kẻ kia. Những việc làm này đều xuất phát từ lòng sân hận, hại người không được liền nghĩ phương pháp chú thuật tà ác, đây đều là việc làm không có đạo đức. Ở thời đại tiến bộ như ngày nay, người ta rất ít dùng các phương pháp chú thuật tà ác hại người như vậy, nhưng sự oán hận, thù hiềm giữa người với người vẫn rất sâu nặng, và thủ đoạn ám hại lẫn nhau ngày càng tàn khốc, nham hiểm hơn.
Do vậy, các hữu tình, nếu được nghe danh hiệu Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì những việc tà ác kia, đều không thể hại được. Tất cả người oán thù đều sinh lòng từ bi, lợi ích an vui, không có ý tổn thương, não hại và tâm đố kỵ, oán hận. Ai ai cũng đều hỷ xả, vui vẻ, đối với những việc mà mình phải chịu đều hoan hỷ biết đủ, không tổn hại, nhạo báng nhau, mà sẽ cùng nhau làm điều ích lợi.
Các hữu tình này bị người ác tâm ám hại, nếu được nghe danh hiệu Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai và có thể nương uy lực từ bi của Đức Phật ấy, khiến các việc ác ở trên mất đi hiệu lực và không còn nguy hiểm nữa, việc này còn được gọi là tà không thể thắng chính. Tà thần ác quỷ, bất luận có uy lực lớn mạnh đến mức nào cũng không thể sánh kịp từ bi, nguyện lực của Phật. Ví như có người gặp phải sự mưu hại, vu khống, bị cơ quan chính phủ cấp dưới giam giữ, chỉ cần một lệnh phóng thích của cơ quan tối cao đương nhiệm thì ai dám không phục tùng. Cho nên, công đức xưng niệm Thánh hiệu Đức Dược Sư Như Lai có uy thần năng lực rất lớn.
Theo lời Phật dạy, phàm gặp việc gì, trước phải suy nghĩ đến nguyên nhân của nó. Nếu chúng ta thực sự bị người khác làm hại, thế thì bản thân của chúng ta nhất định có vấn đề. Như Đức Phật, thân tâm Ngài chẳng còn một mảy may ô nhiễm, mà thanh tịnh tinh khiết, không chút cấu uế, bất luận thế lực của ma có đen tối, hung bạo đến mức nào đi nữa, cũng không thể làm tổn thương được một sợi lông của Đức Phật. Ví như nơi phần da của cơ thể chúng ta bị thương khi dính phải thuốc độc, thì độc tố đó liền ngấm vào máu. Nhưng nếu phần da hoàn toàn lành lặn, khỏe mạnh thì sẽ không hề bị ảnh hưởng. Lúc Đức Thế Tôn còn tại thế, rất nhiều ngoại đạo dùng thuốc độc, thần chú ác độc, voi điên, tảng đá lớn, v.v. muốn hãm hại Ngài, nhưng tất cả đều không có kết quả.
Cho nên, muốn không bị ám hại thì phải làm giảm bớt sự độc hiểm của đối phương, và càng phải tăng cường sức mạnh của bản thân. Nếu gặp phải vô số mưu hại, não loạn, thúc ép, thì cần phải chí thành tha thiết thụ trì pháp môn Dược Sư, nương vào năng lực gia bị của Đức Dược Sư Như Lai để tăng cường thêm sức mạnh nội tại cho chính mình, xua tan dẹp bỏ và kháng cự với năng lực tà ma từ bên ngoài.
Nếu được gia hộ từ sức uy lực của Đức Dược Sư Như Lai, thì không những mọi chuyện xấu ác đều không thể xâm hại, mà ngay cả những ý niệm độc ác, sân hận, não loạn hại người cũng đều được hóa giải. Giữa hai bên có thể dần dần chung sống vui vẻ, hòa thuận với nhau, ai nấy đều phát khởi lòng từ, cùng giúp đỡ lẫn nhau, làm tăng thêm nhiều điều lợi ích để mọi người cùng được an lạc. Giữa hai bên không còn tồn tại lòng oán hận hay ý muốn làm tổn hại, não loạn nhau. Mọi người đều dùng nét mặt từ ái và những lời yêu thương, hoan hỷ, vui vẻ để khích lệ nhau. Đối với quả báo mà bản thân phải gánh chịu, khiến cho đời này phải khổ sở, đau đớn, thì cũng có thể tự mình an trong cảnh nghèo, vui cùng với đạo, sinh tâm hoan hỷ, biết đủ không còn tổn hại, khinh khi, lăng nhục lẫn nhau, mà cùng tương trợ, hợp tác để làm nhiều việc ích lợi.
Phần trên đây nói về việc xa lìa bốn loại ác hạnh:
1. Phát xuất từ tâm tham lam, keo kiệt, hà tiện, không chịu làm việc bố thí.
2. Phát xuất từ lòng kiêu mạn, hủy báng Tam bảo.
3. Phát xuất từ tâm ghen ghét, đố kỵ, khen mình chê người.
4. Phát xuất từ tâm sân hận, tranh đấu, kiện tụng, trù rủa lẫn nhau.
Trong pháp Đại thừa, đây là những tội ác rất lớn, chẳng khác gì việc phạm vào các đại giới căn bản như giới sát, giới trộm cướp, v.v. Trong tất cả kinh: Kinh Thắng Man phu nhân, Kinh Phạm võng, Kinh Bồ tát Anh Lạc, Kinh Du già Bồ tát giới đều đặc biệt nhấn mạnh: Nếu phạm bốn loại ác hạnh này, tức là đã phạm tội Bồ tát Ba la di, vi phạm giới luật Đại thừa. Nếu mỗi cá nhân không thể dứt trừ bốn loại tội ác này thì không thể thực hành Bồ tát đạo. Loài người nếu không thể giảm bớt những tội lỗi này, thì mãi mãi không thể hy vọng có một thế giới hòa bình. Vì thế, chúng ta muốn thực hành Bồ tát đạo, mong tiêu trừ nghiệp chướng nhiều đời, ngăn chặn đấu tranh cuồng bạo, xây dựng một thế giới lý tưởng, hòa bình đại đồng, thì thực sự cần phải tu trì và nên xiển dương pháp môn Tịnh độ Dược Sư này.
2.1.2. Được lợi ích tốt đẹp
2.1.2.1. Lợi ích được vãng sinh Tịnh độ
Lại nữa Mạn Thù Thất Lợi! Nếu có bốn chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ, cùng các tịnh tín thiện nam, tín nữ khác đều có thể thụ trì tám phần trai giới trong một năm, hoặc chỉ ba tháng thụ trì giới pháp. Đem căn lành này, nguyện sinh thế giới Cực lạc Tây phương của Đức Phật Vô Lượng Thọ, được nghe chính pháp nhưng chưa quyết định.
Phần trước là trình bày lợi ích của việc xa lìa bốn loại ác hạnh, từ phần này trở đi nói rõ về việc được những lợi ích tốt đẹp, cũng gồm có bốn loại. Trước tiên là nói về ích lợi của việc được sinh về Tịnh độ.
Đức Thế Tôn lại bảo ngài Mạn Thù Thất Lợi rằng: “Nếu có bốn chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ”. Tỳ kheo (Phạn ngữ là “Bhikṣu”, thường đọc là “Bí sô”), Tỳ kheo ni (Phạn ngữ là “Bhikṣuṇī”, thường đọc là “Bí sô ni”) là hai chúng nam nữ xuất gia. Cận sự nam (Phạn ngữ là “Upāsaka”, thường đọc là “Ưu bà tắc” hoặc “Ô ba sách ca”), cận sự nữ (Phạn ngữ là “Upāsikā”, hay đọc là “Ưu bà di” hoặc “Ô ba tư ca”) là hai chúng nam nữ tại gia. Tên gọi của hai chúng tại gia được dịch nghĩa là “cận sự nam” và “cận sự nữ”, vì họ đều đã kính tín, phụng trì Tam bảo, thân cận Phật pháp. Ngoài bốn chúng đệ tử ra, những người tin Phật pháp mà chưa thụ tam quy, ngũ giới, thì gọi là “tịnh tín thiện nam, tín nữ”. Các chúng đệ tử Phật có thể thụ trì tám phần trai giới. Tám phần trai giới, hay còn gọi là “Bát quan trai giới”:
1. Không sát sinh.
2. Không trộm cắp.
3. Không hành dâm.
4. Không nói dối.
5. Không uống rượu.
6. Không đeo tràng hoa, không xoa phấn sáp vào mình.
7. Không ca múa và đi xem ca múa.
8. Không nằm giường cao tốt, rộng lớn.
Tám điều này là giới, ngoài ra còn có thêm một quy định là không ăn phi thời, được gọi là trai, cộng chung thành tám phần trai giới. Thời gian thụ trì tám phần trai giới, nếu lâu thì trải qua một năm, còn nhanh thì chỉ nội trong ba tháng (tháng một, tháng năm, tháng chín). Đem căn lành của việc thụ giới này, hồi hướng cầu nguyện sinh về cõi Tịnh độ, thế giới Cực lạc Tây phương của Đức Phật Vô Lượng Thọ, để được nghe lời khai thị chính pháp của Đức Phật A Di Đà và các vị đại Bồ tát.
Thế nhưng đây chỉ là nguyện vọng, trên thực tế có thể vãng sinh được hay không, vẫn chưa thể quyết định. Vì thế giới Sa bà quá phức tạp và nhiều chướng ngại, tu học chính pháp cũng chẳng dễ dàng gì nên chúng ta cần phải phát nguyện vãng sinh về Tịnh độ Tây phương; cũng là vì mong có được một nơi yên ổn, tương đối lý tưởng và thích hợp cho việc tu học Phật pháp. Phát nguyện như vậy, nhưng vẫn chưa chắc chắn sẽ được vãng sinh, thế nên, tu trì pháp môn Dược Sư chính là một phương cách để bổ sung vào những khiếm khuyết. Vãng sinh Tịnh độ, ngoài việc nhất tâm xưng niệm danh hiệu Đức Phật còn phải tu học các công đức khác để tích chứa căn lành, chứ không phải chỉ đơn thuần là xưng niệm danh hiệu A Di Đà Phật. Như trong phần này đã nói, đó là thụ trì tám phần trai giới. Lại nữa, Kinh A Di Đà cũng nói: “Không thể dùng chút ít nhân duyên, thiện căn, phúc đức mà được sinh vào cõi nước ấy”. Thế nên, tu tập vãng sinh Tịnh độ ngoài việc tín, nguyện thì còn phải thực hành các công hạnh bố thí, trì giới, v.v.
Nếu nghe danh hiệu Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đến khi mạng chung sẽ có tám vị đại Bồ tát xuất hiện, danh hiệu các vị ấy là: Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Quán Thế Âm Bồ tát, Đắc Đại Thế Bồ tát, Vô Tận Ý Bồ tát, Bảo Đàn Hoa Bồ tát, Dược Vương Bồ tát, Dược Thượng Bồ tát, Di Lặc Bồ tát. Tám vị đại Bồ tát này nương hư không đến, chỉ rõ đường cho người ấy, liền được tự nhiên hóa sinh trong hoa báu đủ các màu sắc ở thế giới kia.
Các chúng sinh nguyện sinh về Tây phương nhưng vẫn chưa quyết chắc, nếu có thể được nghe danh hiệu Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai mà chí tâm trì niệm, nhờ vào công đức xưng niệm này và bốn nguyện lực của Đức Phật liền có thể nhận được sự trợ lực. Vậy nên, ngay khi mạng chung, liền có tám vị đại Bồ tát: Văn Thù (Mạn Thù) Sư Lợi Bồ tát, Quán Thế Âm Bồ tát, Đắc Đại Thế (Đại Thế Chí) Bồ tát, Vô Tận Ý Bồ tát, Bảo Đàn Hoa Bồ tát, Dược Vương Bồ tát, Dược Thượng Bồ tát, Di Lặc Bồ tát nương hư không đến chỉ cho người đó con đường vãng sinh Tịnh độ. Trong khoảnh khắc liền được tự nhiên hóa sinh trong những hoa báu đủ màu sắc ở thế giới kia.
Hoa báu nơi cõi nước Cực lạc, theo Kinh A Di Đà nói: “Hoa lớn như bánh xe, hoa màu xanh có ánh sáng xanh, màu vàng có ánh sáng vàng, màu đỏ có ánh sáng đỏ, màu trắng thì ánh sáng trắng, mùi hương tinh khiết, nhiệm mầu”. Chúng sinh vãng sinh về Tây phương, liền ở trong hoa báu đủ các màu sắc khác nhau, không cần nhân duyên cha mẹ mà có thể tự nhiên hóa sinh. Niệm A Di Đà Phật, khi sắp mạng chung có hai vị đại Bồ tát là Quán Âm và Thế Chí đến tiếp dẫn, nếu niệm danh hiệu Dược Sư Như Lai thì có tám vị đại Bồ tát đến nghinh đón. Ở đây đặt ra vấn đề, chữ “kia” ở câu “ở thế giới kia” trong kinh, rốt cuộc là chỉ cho thế giới Lưu ly ở Đông phương hay là chỉ cho thế giới Cực lạc Tây phương? Có thể nói theo hai cách:
1. Được tám vị đại Bồ tát dẫn đường vãng sinh Tây phương Tịnh độ, đây là việc rất hợp tình hợp lý.
2. Ban đầu phát nguyện vãng sinh Tây phương Tịnh độ, vì không có quyết chắc, sau đó lại được nghe danh hiệu Đức Dược Sư Như Lai, mới có tám vị đại Bồ tát tiếp dẫn vãng sinh cõi Tịnh độ Đông phương.
Hai cách nói này đều đúng, bởi vì Phật Phật bình đẳng nhau, cõi Tịnh độ đương nhiên cũng giống nhau. Chúng ta sinh đến cõi Tịnh độ nào đều nhờ vào nguyện lực công đức quá khứ của chính mình. Nếu có niềm tin dũng mãnh đối với Đức Phật A Di Đà, hiện đời xưng niệm Đức Dược Sư Như Lai, thì Phật Dược Sư Như Lai liền dùng nguyện lực từ bi, trợ lực chúng ta vãng sinh về thế giới Cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Đức Phật A Di Đà dùng thần lực đưa tay tiếp nhận chúng ta, lại còn được thần lực của Đức Phật Dược Sư ở phía sau hỗ trợ thêm một phần, thì việc vãng sinh Tây phương Cực lạc sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.
Nếu hiện đời có niềm tin sâu sắc, xưng niệm danh hiệu Đức Dược Sư Như Lai, và trước đây đã từng trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà, thì bây giờ Đức Phật A Di Đà sẽ trợ lực cho chúng ta vãng sinh về cõi Tịnh độ của Phật Dược Sư. Ý nghĩa của Tịnh độ là giống nhau, ưa thích cảnh Tây phương thì vãng sinh về Tây phương, ưa thích cõi Đông phương thì liền được vãng sinh về cõi Đông phương. Phật Phật đạo đồng, Tịnh độ và Tịnh độ bình đẳng không có sai khác.
2.1.2.2. Lợi ích được sinh lên cõi trời
Hoặc có người nhân công đức này mà được sinh lên cõi trời, tuy sinh lên cõi trời, nhưng thiện căn ấy cũng vẫn chưa hết, không còn sinh trở lại vào các đường ác khác.
Việc cứu độ và làm lợi ích chúng sinh của pháp môn Dược Sư rộng lớn, trùm khắp tất cả. Hoặc có chúng sinh nhân vì được nghe danh hiệu Đức Dược Sư Như Lai, nhờ công đức này mà sinh lên cõi trời. Không sinh về Tịnh độ mà sinh về cõi trời không phải do Đức Dược Sư Như Lai không gia hộ mà là do tín tâm, nguyện lực và tư lương của chúng sinh chưa đủ điều kiện để vãng sinh về Tịnh độ, chỉ có thể cảm được niềm vui sinh về cõi trời. Tuy nhiên, việc này không giống với việc sinh lên cõi trời thông thường khác.
Thông thường, những chúng sinh trên thiên giới khi hưởng hết phúc ở cõi trời liền bị đọa lạc, thế nhưng các chúng sinh này nhờ từng nghe danh hiệu Đức Phật Dược Sư trong quá khứ nên sinh lên trời tuy đã hưởng hết phúc, đến khi mạng chung mà căn lành xưa sinh về cõi trời cũng chưa thể cùng tận. Cho nên, tuyệt đối có thể bảo đảm rằng, không còn sinh trở lại vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, v.v. cùng các nẻo ác khác, sẽ không giống với khả năng bị đọa lạc của các chúng trời người thông thường khác.
2.1.2.3. Lợi ích được sinh trở lại nhân gian
Tuổi thọ cõi trời đã hết, sinh trở lại nhân gian, hoặc làm Chuyển luân thánh vương, thống nhiếp cả bốn châu, uy đức tự tại, giáo hóa cho vô lượng trăm nghìn chúng hữu tình quay về đường thiện, hoặc sinh vào Sát đế lợi, Bà la môn, cư sĩ giàu có, của tiền dư dật, kho đụn tràn đầy, tướng mạo đoan trang, quyến thuộc sum vầy, thông minh trí tuệ, dũng mãnh uy hùng như đại lực sĩ.
Phúc ở cõi trời đã hết, nhưng lại không bị đọa lạc vào ba ác đạo, đến khi tuổi thọ cõi trời mãn tự nhiên được sinh trở lại nhân gian. Mọi người thường nói cõi thế gian lắm điều khổ não, kỳ thực nhân gian là một nơi rất tốt. Tại sao Đức Thế Tôn không đản sinh ở cõi trời, mà lại sinh ở cõi người? Chúng ta có thể nhận thấy rằng, cõi nhân gian đối với con đường hành đạo của Bồ tát có giá trị cao quý đến mức nào. Hoàn cảnh môi trường ở cõi người, không quá khổ cũng không quá vui, vừa không bị mê hoặc bởi dục lạc của cõi trời, vừa không bị bức não thống khổ cùng cực của ba đường ác, nhân gian thật sự là một nơi rất lý tưởng, vô cùng thích hợp để tu hành, học đạo. Nếu chúng ta có thể tận dụng hoàn cảnh này, tinh tiến tu tập phúc tuệ để làm tư lương, thế thì quả Phật sẽ không quá xa chúng ta.
Các hữu tình từ cõi trời sinh trở lại nhân gian, nhờ lúc trước đã từng nghe danh hiệu Đức Dược Sư Như Lai, thành tựu được căn lành sâu dày, nên phần lớn họ là những người lãnh đạo có uy tín và quyền lực, hoặc làm Chuyển luân thánh vương, thống nhiếp cả bốn châu thiên hạ. Theo Phật giáo, ngay chính giữa thế giới này có một ngọn núi tên là Tu Di, ở các phía Đông, Tây, Nam, Bắc là bốn đại bộ châu, mỗi châu có rất nhiều vị vua nhỏ cai trị. Trong đó, Kim luân vương thống nhiếp cả bốn bộ châu, Ngân luân vương thống nhiếp ba bộ châu, Đồng luân vương thống nhiếp hai bộ châu, Thiết luân vương thống nhiếp một châu. Ở đây, Kim luân vương thống lĩnh cả bốn bộ châu, cũng tức là thống lĩnh cả thiên hạ. Uy đức của vị ấy rất lớn, quyền lực vô song, đều có thể tự tại theo ý muốn. Luân vương cai quản thiên hạ là vì muốn cho toàn thể nhân loại đều có được một cuộc sống lý tưởng, nghĩa là dùng nền chính trị nhân từ, để người người đều được sống một đời sống hướng thượng, đầy ý nghĩa, cho nên nói: “Giáo hóa cho vô lượng trăm nghìn chúng hữu tình quay về đường thiện”. Chính trị hoàn mỹ là vận hành bộ máy chính trị theo đường thiện, tức Thập thiện (mười nghiệp lành).
Mười nghiệp lành đó là:
1. Không sát sinh.
2. Không trộm cắp.
3. Không tà dâm.
4. Không nói dối.
5. Không nói lời hai chiều.
6. Không nói lời hung ác.
7. Không nói lời thêu dệt.
8. Không tham lam.
9. Không sân hận.
10. Không tà kiến.
Trong kinh nói rằng, quyền cai trị của Luân vương chỉ trong một khu vực, vua các nước nhỏ đem vàng bạc châu báu dâng hiến cho vị ấy nhưng vị ấy không nhận, mà luôn tha thiết khuyến khích vua các nước nhỏ nên đem mười nghiệp lành để cai trị đất nước. Thế giới lý tưởng của Luân vương chính là mười điều thiện được ban bố khắp thiên hạ, chính trị ở đây là một loại chính trị đạo đức, đưa con người tiến đến một môi trường sống mỹ mãn, an lạc và hướng thượng. Cho nên trong kinh thường nói, Chuyển luân thánh vương gần giống với hóa thân Bồ tát. Khổng Tử cũng đã nói: “Lấy đức để lãnh đạo, lấy lễ để bình trị”, gần giống với nền chính trị đạo đức của Luân vương. Điều quan trọng ở đây là khơi dậy được đạo đức, nhằm tịnh hóa tư tưởng từ trên nền tảng tinh thần văn minh, xây dựng một đời sống đạo đức hướng thượng, dung hòa đạo đức và chính trị trở thành một tổng thể hòa hợp.
Chúng sinh phúc đức càng lớn, thì sẽ còn được sinh trở lại cõi người làm Luân vương, kém hơn một chút thì hoặc sinh vào dòng Sát đế lợi tức giai cấp võ sĩ quý tộc; hoặc sinh vào dòng Bà la môn tức giai cấp tôn giáo; hoặc sinh vào cư sĩ đại gia, là một nhà công thương tự do trong dân chúng. Ngoài việc được sinh trở lại vào ba dòng lớn ở trên, họ còn được hưởng các phúc lành khác, một là giàu có sung túc, tiền của dồi dào, kho đụn tràn đầy; hai là tướng mạo khi sinh ra đoan chính trang nghiêm đẹp đẽ; ba là cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, v.v. quyến thuộc đều đầy đủ không thiếu; bốn là khi sinh ra rất thông minh, trí tuệ, học rộng hiểu nhiều; năm là dũng cảm tráng kiện, uy phong không ai sánh kịp, chẳng khác gì vị đại lực sĩ có thể hàng phục tất cả và không bị người khác khuất phục. Những ai được sinh vào cõi người, đầy đủ mọi điều kiện ưu việt như vậy, thì mới đúng là cuộc sống hạnh phúc mỹ mãn.
2.1.2.4. Lợi ích được sinh làm người trượng phu
Nếu là người nữ, được nghe danh hiệu Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, chí tâm thụ trì, thì đời sau không còn sinh lại làm thân nữ nữa.
Nếu một người trước đây là thân nữ, đối với thân người nữ sinh lòng chán ghét, nhờ được nghe danh hiệu Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai mà chí tâm lĩnh thụ và hành trì, thì người đó có thể mãi mãi không sinh lại thân nữ nữa, đem thân tướng trượng phu tinh tiến tu hành, hướng đến quả Phật.
Trên đây là nói về việc lìa bốn loại tà ác, được bốn điều an lạc, đều vì nghe được Thánh hiệu Đức Dược Sư Như Lai, rồi chí thành xưng niệm và tu tập hành trì, đúng như pháp mà đạt được hiệu quả. Chúng ta nếu muốn xa lánh điều ác, đạt được sự an vui, thì phải nương vào giáo pháp này rồi kính tín, tùy thuận và thực hành theo.
2.2. Lợi ích của việc trì chú trị bệnh
2.2.1. Từ bản nguyện mà quán sát sự khổ
Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi! Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia khi chứng được đạo Bồ đề, nhờ bản nguyện, quán xem các hữu tình gặp phải các thứ bệnh khổ, da vàng, gầy ốm, cảm nhiệt, v.v. hoặc trúng phải những thứ yểm đối, thuốc độc; hoặc là chết yểu, hoặc bị chết ngang, muốn khiến các thứ bệnh khổ ấy được tiêu trừ, lòng mong cầu được mãn nguyện”.
Trong các phương tiện thiện xảo mà Đức Phật khai thị, giờ đây chúng ta đề cập đến lợi ích thứ hai là trì chú, trị bệnh. Lợi ích của việc nghe danh hiệu có nội dung rất lớn, có thể xa lìa các thứ tội ác, được vô số niềm vui an lành; lợi ích của việc trì chú ít hơn, chỉ có thể trị bệnh. Chúng sinh nếu có các bệnh khổ, thành khẩn chí thiết trì tụng Chú Dược Sư thì liền có thể tiêu trừ nguồn gốc gây bệnh, phục hồi sức khỏe.
Đức Thế Tôn trước đã nói về lợi ích của việc nghe danh hiệu, nay lại bảo ngài Mạn Thù Thất Lợi rằng: Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ở Đông phương kia, lúc Ngài chứng được đại Bồ đề, do nơi bản nguyện đã phát nguyện khi còn ở Nhân địa Bồ tát, muốn từ bi cứu độ tất cả khổ nạn cho chúng sinh, đặc biệt là bệnh khổ, do đó liền dùng tuệ nhãn xem xét bệnh trạng của chúng hữu tình. Dưới đây chỉ nêu sơ lược một vài loại bệnh khổ mà chúng sinh thường gặp phải:
1. Gầy ốm: Tức là bệnh phổi, v.v. ngày xưa gọi là bệnh lao lực.
2. Cảm nhiệt: Trong sách y Trung Quốc gọi là chứng tiêu khát, biểu hiện của người này là miệng khô khát, bụng đói, ăn nhiều mà đi ngoài cũng nhiều, ngày càng khô gầy đi.
3. Da vàng: Là bệnh hoàng đán, nhiệt độ của thân thể rất cao, cả mắt và sắc mặt đều ửng vàng.
Ba thứ bệnh này là những bệnh nặng rất phổ biến ở thời bấy giờ, nên Đức Thế Tôn nêu ra để dẫn chứng.
Những căn bệnh này đều thuộc về sinh lý. Thứ đến, hoặc bị yểm đối, ma quỷ nhiễu hại, cụ thể hơn là bị người khác lén lút giở thủ đoạn, khiến cho thần thức điên đảo, sức khỏe nguy hại; hoặc bị trúng độc dẫn đến tán thân mất mạng. Chúng sinh gặp phải các loại bệnh tật và độc hại, hoặc bị chết yểu (tuổi còn trẻ, chưa hết tuổi thọ mà đã chết); hoặc bị chết ngang, như bị dao mác đâm chém, bị chết đuối, cho đến bị lửa thiêu chết, v.v. Phúc báo của con người đã hết mà thọ mạng vẫn còn thì gọi là chết yểu, phúc báo và thọ mạng đều chưa hết mà đột nhiên dứt mạng sống thì gọi là chết ngang. Đức Dược Sư Như Lai phát đại từ bi nguyện, muốn khiến cho tất cả bệnh tật, hoạn nạn của chúng sinh đều được dứt khỏi, khiến cho mọi nguyện ước của chúng sinh (tiêu trừ tai nạn, tuổi thọ kéo dài) đều được đủ đầy như ý muốn.
Có người nói niệm Phật tốt, có người thì lại nói niệm chú tốt. Theo như bản kinh này, công đức xưng niệm danh hiệu Phật Dược Sư là rất lớn, ác nghiệp gì cũng đều có thể dứt sạch, nguyện vọng gì cũng đều có thể thực hiện. Công đức trì chú tuy rất mầu nhiệm, nhưng chỉ hạn cuộc trong việc trị bệnh. Nếu chúng ta muốn cầu dứt trừ tai ương, thoát khỏi hoạn nạn, tu trì hằng ngày, tốt hơn hết là hãy siêng năng xưng niệm Thánh hiệu Đức Dược Sư Như Lai nhiều hơn, nếu vì tâm nguyện dứt trừ bệnh khổ thì có thể thường xuyên trì niệm thần chú Dược Sư.
2.2.2. Nhập định nói chú
Lúc đó, Đức Thế Tôn nhập vào đại định, được gọi là định “diệt trừ tất cả khổ não cho chúng sinh”. Khi vào định rồi, từ trong nhục kế phóng ra luồng hào quang lớn, trong luồng hào quang ấy diễn nói chú đại Đà la ni:
Phần trước nói do nguyện lực đại từ bi, Đức Dược Sư Như Lai đã quán sát nỗi khổ và thấu tỏ các căn bệnh của chúng sinh, vì muốn thỏa nguyện mong ước của họ nên đặc biệt bày ra phương tiện nhập định tuyên nói thần chú.
Khi đó, Đức Thế Tôn (Dược Sư) nhập vào đại định (Tam ma địa). “Tam ma địa” Phạn ngữ là “Samādhi”, Hán dịch là “Đẳng trì”, tức là giữ tâm quân bình, không hôn trầm, không trạo cử, khiến cho tâm giữ được sự thăng bằng, an tịnh mà chuyên chú vào một cảnh. Trong kinh chép rằng, lúc Phật sắp nói pháp, nói chú, hoặc lúc hiện thần thông, thì trước tiên thường nhập định. Đức Phật vốn không lúc nào không trong trạng thái định, dù là đắp y, thụ thực hay thuyết pháp độ chúng sinh, tâm của Đức Phật đều thường an trú trong định. Tuy nhiên, vì muốn làm mô phạm cho chúng sinh, và để thích ứng với tâm tính của họ nên mỗi khi muốn thuyết pháp, nói chú, hiện thần thông, thì trước tiên Ngài đều nhập định. Phật pháp tuy không đặc biệt chú trọng về định, nhưng tất cả công đức trí tuệ thực sự đều lưu xuất từ trong định. Có rất nhiều loại định, căn cứ vào tác dụng khác nhau của mỗi loại mà đặt tên. Ở đây, đại định mà Đức Dược Sư Như Lai đang nhập vào được gọi là định “diệt trừ tất cả khổ não cho chúng sinh”.
Sau khi Đức Dược Sư Như Lai nhập định, liền ở trong nhục kế phóng ra luồng hào quang lớn. Nhục kế trên đỉnh đầu là một trong ba mươi hai tướng của Phật, còn gọi là “Vô kiến đỉnh tướng”. Phần đầu là nơi cao nhất, quý nhất của thân thể. Nay từ nơi tướng Vô kiến đỉnh của Phật phóng ra ánh hào quang lớn, việc này biểu thị rằng: từ nơi tầng định cao nhất phát ra luồng trí tuệ cứu cánh. Đầu tiên là trên thân phát ra ánh sáng, kế đến là ánh sáng trí tuệ trong tâm cũng theo đó mà xuất hiện. Trí tuệ phát ra từ định, mà việc thuyết pháp nói chú lại là phương tiện thiện xảo từ trí tuệ lưu xuất, nên từ trên tướng Vô kiến đỉnh phóng ra luồng hào quang lớn. Chú ngữ mà kinh Đại thừa nói đến, luôn từ tướng Vô kiến đỉnh của Đức Phật phóng quang nói ra, đại loại như Chú Lăng nghiêm chính là từ đỉnh đầu Đức Phật phóng quang hóa Phật mà nói ra chú này. Đỉnh nhục kế nằm ở chỗ cao nhất trên thân Phật, chúng ta không thể nhìn thấy được, chứng tỏ chú này được lưu xuất từ trong trí tuệ siêu việt của Đức Phật, thậm thâm vi diệu và không thể nghĩ bàn.
Trong hào quang, Đức Thế Tôn diễn nói thần chú đại Đà la ni. “Đà la ni” Phạn ngữ là “Dhāraṇī”, dịch là “Tổng trì”, nó bao hàm hai nghĩa: Trì và Già. Trì là khả năng thu nhiếp mọi công đức, còn Già là ngăn ngừa tất cả tội ác; cũng tức là thâu tóm tất cả các pháp, giữ gìn vô lượng nghĩa mầu. Trong kinh Phật gồm có nhiều loại như: văn tự Đà la ni, ngôn ngữ Đà la ni, ở đây là chú Đà la ni, vì công dụng của nó rất lớn, nên gọi là đại Đà la ni.
Nam mô bạc già phạt đế, bệ sái xã lũ rô, bệ lưu ly, bát lạt bà, hát la xà giã. Đát tha yết đa gia, a la hát đế. Tam miệu tam bột đà gia, đát điệt tha. Án, bệ sái thệ, bệ sái thệ, bệ sái xã, tam một yết đế sa ha.
Namo bhagavate Bhaisajya guru vaidurya Prabha rajaya tathagataya arhate samyaksam buddhaya tadyatha om bhaisajye bekhajye bekhajya rajaya samudgate svaha.
Xưa nay hầu hết mọi người đều cho rằng thần chú là một tạng bí mật, trì niệm thì được nhưng không thể giải thích được. Thực ra, hầu hết các chú ngữ đều có thể giải thích, chỉ có rất ít câu ở trong khoảng có thể giải thích và không thể giải thích. Ví dụ: chữ “Nam mô - Namo”, có nghĩa là “Quy y, quy mạng”; “Bạc già phạt đế - Bhagavate”, là một cách dịch khác của từ “Bạc Già Phạm”, cũng tức là “Thế Tôn”; “Bệ sái xã lũ rô - Bhaisajya guru”, dịch là “Dược Sư”; “Bệ lưu ly - Vaidurya”, chính là “Lưu Ly”; “Bát lạt bà - Prabha”, dịch là “Quang”; “Hát la xà giã - Rajaya”, dịch là “Vương”; “Đát tha yết đa gia - Tathagataya”, dịch là “Như Lai”; “A la hát đế - Arhate”, dịch là “Ứng” (Cúng); “Tam miệu tam bột đà gia - Samyaksam buddhaya”, dịch là “Chính Đẳng Giác”.
Tổng hợp các câu này lại thì có nghĩa là: “Quy mạng lễ Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai, Ứng, Chính Đẳng Giác”. Phần sau đây mới là tâm chú: “Đát điệt tha - tadyatha”, có nghĩa là “liền nói chú rằng”. “Án - om”, nên đọc âm là “Ông”, có rất nhiều ý nghĩa:
1. Quy y: Tức là tập trung thân tâm để hướng về Tam bảo.
2. Cảnh giác: Tức là nâng cao sự chú ý, cũng tức là tập trung tinh thần lại, chuyên chú vào một điểm.
“Bệ sái thệ, bệ sái thệ, bệ sái xã - bhaisajye bhaisajye bhaisajya” tức là nói: “Dược! Dược! Dược!”; “Tam một yết đế - samudgate”, tức là “Phổ độ”, nghĩa là cứu độ rộng khắp tất cả chúng sinh; “Sa ha - svaha”, cũng gọi là “sa bà ha”, có nghĩa là mau chóng được thành tựu, tương tự như câu “cấp cấp như luật lệnh” (mau mau thực thi theo mệnh lệnh) trong văn thư thời Trung Quốc cổ đại.
Nửa phần trên của câu thần chú này là quy y Đức Dược Sư Như Lai, nguyện cầu sự gia hộ; nửa phần dưới là nói dùng thuốc để trị liệu hết mọi bệnh khổ của chúng sinh, hy vọng lập tức được lành bệnh.
Chú ngữ trong Phật giáo đa phần là hình thức giống như vậy, mở đầu là quy y Đức Phật hay vị Bồ tát nào đó, giống như câu: “Nam mô hát la đát na đá la dạ da” của Chú Đại bi, có nghĩa là quy y Tam bảo, quy y Đức Quán Thế Âm Bồ tát. Câu “Nam mô a di đa bà dạ” của Chú Vãng sinh, chính là quy y Đức Phật A Di Đà. Lại như Chú Thiện Thiên Nữ cho đến rất nhiều chú ngữ khác, cũng đều bắt đầu bằng hai chữ quy y. Vậy, rốt cuộc việc trì chú có linh nghiệm hay không? Đương nhiên là có và tác dụng tiềm tàng của nó rất khó nghĩ bàn, nhưng cũng có kèm theo điều kiện. Trong tình huống đặc biệt, như tình huống nguy cấp ập đến, một lòng thành kính, tha thiết niệm chú thì thường có kết quả. Hoặc là trải qua một thời gian rất dài, mỗi ngày đều siêng năng trì niệm thì mới phát sinh hiệu lực. Có người trì Chú Đại bi 10 năm hoặc 20 năm thì đạt được sự cảm ứng linh nghiệm, có thể trị bệnh cho mọi người, chỉ cần một niệm cũng có thể phát sinh tác dụng. Việc này liên quan đến quá trình hành trì lâu dài. Có người lúc lâm nạn, niệm chú vài biến, tuy nhiên tâm không tập trung, không tha thiết, hoặc hành trì đứt quãng, không chuyên cần, thì sẽ không có linh nghiệm. Giống như tập thái cực quyền, thời gian ngắn ngủi, không thường tập luyện thì chẳng có chút ích lợi gì cho thân thể cả. Nếu không ngừng luyện tập trong khoảng thời gian lâu dài thì mới có được bản lĩnh. Cũng vậy, trì chú và niệm Phật đều phải hành trì lâu dài và phải một lòng chuyên chú.
Tụng kinh, niệm Phật và trì chú ít nhiều cũng có điểm khác nhau. Tụng kinh thì phải hiểu rõ nghĩa lý trong kinh, niệm Phật cũng phải biết được danh hiệu và bản nguyện công đức của Đức Phật ấy. Trì chú thì không như vậy, hàm nghĩa của câu chú rất nhiều, không nhất thiết phải hiểu rõ, hành giả chỉ cần tập trung tinh thần trì niệm là được. Tuy không thể hiểu rõ được ý nghĩa trong đó, nhưng lại có một năng lực tiềm tàng. Loại năng lực này tiềm ẩn chứ không hiện rõ, nhìn không thấy, nghĩ không thông, nhưng có tác dụng rất vô cùng. Chúng ta hành trì Chú Dược Sư, nương vào uy lực của thần chú này liền có thể giao cảm với nguyện lực của Đức Dược Sư Như Lai, nhờ đó, bệnh tật được mau chóng dứt trừ. Việc này cũng giống như người thế gian, có lúc dùng lời nói, cũng có lúc dùng thông tin để có thể bày tỏ ý kiến một cách rõ ràng, khiến cho người đối diện hiểu được. Hoặc có lúc giữa đôi bên chủ động có mật ước, hoặc chỉ dùng một câu nói, hoặc dấu hiệu, hoặc mật mã, v.v. người ngoài tuy không hiểu, nhưng giữa hai người ấy lại có thể dựa vào điều đó để biểu lộ tình ý hay trao đổi ý kiến với nhau. Chú Dược Sư chính là một loại mật mã để khi chúng sinh có bệnh tật thì hướng đến Đức Phật Dược Sư khẩn cầu cứu độ. Chúng ta không nhất định phải hiểu rõ ý nghĩa trong câu chú, chỉ cần chí tâm trì niệm, thì sẽ phát sinh tác dụng giao cảm với từ bi nguyện lực của Phật Dược Sư Như Lai, giúp chúng ta đạt đến mục đích dứt trừ bệnh khổ. Còn các chú ngữ khác, phàm có chỗ nào không thể giải thích thì chúng ta đều nên lý giải như vậy.
Khi ấy, trong ánh hào quang Đức Thế Tôn nói chú này rồi, đại địa rúng động, phóng ánh hào quang lớn, mọi bệnh khổ của chúng sinh đều được dứt trừ và an ổn, vui vẻ.
Lúc ấy, sau khi Đức Thế Tôn Dược Sư Như Lai ở trong hào quang nói thần chú này rồi, vì uy lực hào quang của Ngài tác động, nên khiến cho cả đại địa đều rúng động mạnh. Đồng thời Ngài phóng luồng hào quang lớn bao trùm rộng khắp, soi chiếu tất cả, khiến chúng sinh dứt hẳn túc nghiệp, mọi thứ bệnh khổ đều được tiêu trừ, cuộc sống an ổn, vui vẻ, không còn bị bệnh khổ trói buộc, quấy nhiễu nữa, mãi mãi sống mạnh khỏe, yên vui. Đức Dược Sư Như Lai tuyên bày thần chú này ở thế giới Tịnh độ Đông phương, thường khiến thân tâm của tất cả chúng sinh ở cõi ấy được khỏe mạnh, không có bệnh tật, được tự tại, yên ổn và vui vẻ. Đại địa chuyển động, phóng hào quang trừ diệt tất cả bệnh tật, v.v. chính là biểu thị công lực của thần chú này vĩ đại biết nhường nào! Đức Thế Tôn vì lòng bi mẫn xót thương, nên đặc biệt giới thiệu uy lực của Đức Phật ấy với thế giới Sa bà tràn ngập vô số bệnh khổ, hy vọng chúng ta có thể nương theo lời chỉ dạy để hành trì, và cũng nhờ sự gia hộ của Đức Dược Sư Như Lai mà đoạn tuyệt tất cả bệnh tật, cũng giống như chúng sinh ở cõi Tịnh độ Đông phương, được sống trong sự yên ổn, vui vẻ và khỏe mạnh.
2.2.3. Trì chú diệt khổ
“Này Mạn Thù Thất Lợi! Nếu thấy người nam hoặc người nữ nào mắc phải bệnh khổ, thì nên nhất tâm vì người bệnh ấy, thường tắm gội súc miệng sạch sẽ, hoặc trong đồ ăn, hoặc nơi thuốc uống, hoặc trong bát nước không có vi trùng, trì chú này một trăm linh tám biến rồi cho người ấy uống, thì tất cả bệnh khổ đều tiêu trừ. Nếu có mong cầu điều gì, chí tâm niệm tụng chú này thì cũng được như ý muốn, không bệnh, sống lâu. Sau khi qua đời, sinh về thế giới ấy, được bất thoái chuyển, cho đến khi chứng được đạo Bồ đề.
Niệm chú để trị bệnh, tốt hơn hết là người bệnh tự mình niệm. Nhưng nếu tình trạng bệnh đã quá trầm trọng, bản thân không thể trì niệm được thì người khác có thể trì tụng thay.
Đức Thế Tôn lại bảo Bồ tát Mạn Thù rằng: Giả sử nếu nhìn thấy có người nam hoặc người nữ nào vướng phải các loại bệnh khổ, thì cần phải nhất tâm vì người bệnh ấy thành kính trì tụng thần chú Dược Sư Như Lai, khiến người kia thoát khỏi bệnh tật. Lúc bình thường, nếu như chịu hạ thủ công phu, siêng năng trì niệm, thường xuyên niệm, niệm đến khi nhất tâm bất loạn, đến lúc đem ứng dụng thì tất nhiên sẽ có linh nghiệm. Khi thay thế người bệnh trì tụng chú này, cần phải tắm rửa súc miệng, thường giữ gìn thân miệng sạch sẽ. Sau đó, đem các loại như: thức ăn, đồ uống, cháo, hoặc thuốc nước, thuốc viên mà người bệnh dùng, hoặc cũng có thể dùng nước tinh khiết không có vi trùng, trì một trăm linh tám biến thần chú rồi đưa cho người bệnh uống. Được như vậy thì tất cả bệnh khổ mà người bệnh mắc phải, liền có thể được dứt trừ. Nếu có các mong ước khác, chẳng hạn như: cầu mong được khỏi nạn chết yểu, hoặc khỏi chết bất đắc kỳ tử, chết đói, v.v. hoặc sau khi bình phục lại sức khỏe, mà chí tâm tụng niệm thần chú Dược Sư thì có thể nhờ Đức Phật gia hộ được không tật bệnh, mạng sống dài lâu. Thêm vào đó, sau khi mạng chung, nương vào năng lực thần chú này mà có thể dần dần thành tựu công đức, vãng sinh về thế giới Tịnh lưu ly ở Đông phương. Chỉ cần vãng sinh về cõi Tịnh độ Đông phương thì nhất định sẽ được bất thoái chuyển, cho đến rốt ráo chứng được đại quả Bồ đề, giống như cõi Tịnh độ Cực lạc Tây phương không khác.
2.2.4. Tổng kết và khuyến khích thụ trì
Cho nên, này Mạn Thù Thất Lợi! Nếu có người nam, người nữ nào, hết lòng ân cần, tôn trọng, cung kính, cúng dàng Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai và thường trì chú này, đừng để cho quên mất.
Đến phần lợi ích của việc trì chú, chúng ta có thể đưa ra kết luận rằng, Đức Thế Tôn trịnh trọng khuyến khích, hướng dẫn đại chúng cung kính thụ trì. Ngài bảo Mạn Thù Thất Lợi rằng: Do đó, nếu có người nam hoặc người nữ nào mà có thể hết lòng ân cần, tôn trọng, cung kính, cúng dàng Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì đối với thần chú Dược Sư này cũng nên thường xuyên thụ trì đọc tụng, tự lợi lợi tha, chớ để quên mất thần chú ấy.
2.3. Lợi ích của việc cúng dàng thụ trì
2.3.1. Cúng dàng được gia hộ
2.3.1.1. Thực hành phép cúng dàng
Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi! Nếu có thiện nam, tín nữ nào được nghe tất cả danh hiệu của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng, Chính Đẳng Giác. Nghe rồi tụng trì, sớm mai thức dậy, súc miệng, tắm rửa thân thể sạch sẽ, dâng các loại hoa, đốt hương, xoa dầu thơm, xướng các món âm nhạc để cúng dàng hình tượng.
Trong phần lợi ích của việc cúng dàng thụ trì, trước là nói về lợi ích của việc cúng dàng được gia hộ. Đối với Đức Dược Sư Như Lai, không những xưng niệm danh hiệu, trì chú, mà đồng thời còn thực hành các phép cúng dàng. Đầu tiên là nói về cúng dàng Phật Dược Sư.
Đức Thích Ca Thế Tôn lại bảo: Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi! Nếu có người nam hay người nữ có niềm tin thanh tịnh, trong sáng đối với Phật pháp, được nghe tất cả danh hiệu cùng hạnh nguyện bi thiết và ân đức từ bi dứt trừ tai ương, hoạn nạn của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng, Chính Đẳng Giác, sau khi nghe xong, cung kính thụ trì. Việc này bao gồm cả lễ bái cúng dàng, như mười hạnh nguyện rộng lớn của Bồ tát Phổ Hiền là các nguyện “xưng tụng tán thán Đức Như Lai” và “rộng tu pháp cúng dàng”, v.v. Thế nhưng, cúng dàng Phật Dược Sư thì nên làm như thế nào? Ở đây nói rằng, sáng sớm thức dậy, trước hết là súc miệng và tắm rửa. Ở Ấn Độ ngày xưa, tập quán hằng ngày của người dân là sáng sớm thức dậy, nhai loại cây tẩy răng chứa một chất đắng có thể khử mùi hôi trong miệng, dùng nhành cây này chà xát, thì cũng giống như thời nay dùng bàn chải và kem đánh răng vậy.
Sau khi súc miệng tắm rửa, thân tâm đều được sạch sẽ, thanh tịnh, rồi sau mới cung kính dâng hoa thơm và đốt các loại hương quý, xoa các thứ hương bột, sáp hương lên mình, đồng thời xướng các món âm nhạc ca tụng, tán thán. Đức Dược Sư Như Lai ở thế giới Đông phương, chúng sinh ở cõi Sa bà này không thể đối trước Ngài để cúng dàng, cho nên các món hương hoa này chỉ có thể cúng dàng hình tượng của Đức Phật, tức là các loại tượng vàng, tượng gỗ, tượng đồng, hình tượng trên giấy vải, v.v. Có người hỏi rằng: Đức Phật không ở thế giới này, chúng ta cúng dàng cho Ngài thì có được lợi ích không? Việc này có thể giải thích bằng ví dụ sau: Giả sử Tổng thống ở Đài Bắc, mà khắp mọi nơi trên đất nước Đài Loan, từ người dân địa phương cho đến kiều bào hải ngoại đều chúc thọ Tổng thống, thì đương nhiên ngài sẽ nhận được lời chúc mừng của mọi người, không thể nói việc này không có chút ý nghĩa gì được. Chúng ta cúng dàng Đức Phật, thì đương nhiên Đức Phật sẽ nhận được sự cúng dàng ấy. Hơn nữa, nếu chúng ta cúng dàng với tâm thành kính, thanh tịnh, thì dĩ nhiên có thể thành tựu được công đức, lợi ích.
Đối với kinh điển này, nếu tự mình chép, hoặc bảo người khác chép, nhất tâm thụ trì, suy nghĩ nghĩa lý trong kinh.
Một mặt tỏ lòng cung kính cúng dàng hình tượng Đức Dược Sư Như Lai, mặt khác chúng ta cũng nên cúng dàng thụ trì Kinh Bản nguyện công đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai này; hoặc là tự mình biên chép, hoặc bảo người khác chép. Hiện nay, kỹ thuật in ấn đã phát triển, thì không nhất định phải sao chép bằng tay, mà chúng ta có thể thay thế bằng cách bỏ tiền ra cúng dàng cho việc sao in, ấn tống kinh sách. Ngoài ra, lại phải nhất tâm thụ trì, lắng nghe và suy nghĩ nghĩa lý của kinh này. Thụ trì, bao gồm tất cả những việc từ nghe kinh mà tư duy, từ tư duy mà thực hành tu tập tất cả. Không nên cho rằng đây là một cách để học tập, mà phải hiểu đây chính là thụ trì và cúng dàng giáo pháp một cách chân chính.
Đối với vị Pháp sư kia, thì nên cúng dàng tất cả những vật cần dùng cho vị ấy, chớ để cho thiếu thốn. Được như vậy, thì nhờ chư Phật hộ niệm mà mọi mong cầu đều được mãn nguyện, cho đến chứng được đạo Bồ đề”.
Chúng ta không chỉ cúng dàng Đức Phật Dược Sư và pháp môn của Ngài, mà còn phải cúng dàng vị Pháp sư truyền bá pháp môn ấy. Cho nên nói rằng, đối với vị Pháp sư giảng giải pháp môn Dược Sư cũng nên cúng dàng một cách đủ đầy. Cổ đức có nói: “Người hoằng dương đạo, chứ chẳng phải đạo hoằng dương người”. Sở dĩ Phật pháp có thể lưu truyền dài lâu, phát triển rộng khắp làm cho chính pháp được trụ ở đời, tuệ mạng được tiếp nối liên tục, hoàn toàn là nhờ công lao của các vị Pháp sư.
Đối với bất cứ quyển kinh nào, thuộc pháp môn nào, nhờ có Pháp sư (tức là vị thầy Tỳ kheo xuất gia) đề xướng và xiển dương thì mọi người mới biết đến công đức thù thắng và rất nhiều điều tốt đẹp nơi quyển kinh đó. Nhờ đó mới có người phát tâm in chép kinh sách, có người điêu khắc tượng Phật, có người thụ trì đọc tụng, lễ bái cúng dàng, cho đến nương theo giáo pháp để tu tập. Cho nên, có Pháp sư thì ba ngôi Tam bảo “Phật, Pháp, Tăng” sẽ được hoàn bị hơn. Do đó, đối với vị Pháp sư hoằng dương pháp môn Dược Sư, chúng ta cũng nên sinh tâm cung kính, cúng dàng. Phàm tất cả những vật dụng đời sống cần thiết như áo quần, thức ăn, vật dụng, v.v. chu cấp cho vị Pháp sư đều nên cúng dàng, đừng để hoàn cảnh thiếu thốn gây trở ngại cho việc tu tập hay hoằng pháp của vị ấy. Cúng dàng Pháp sư thiết thực nhất là nên nghĩ tưởng đến sự báo ân, nghĩ đến việc làm lợi ích cho chúng sinh. Nếu có thể cúng dàng Tam bảo như vậy, thì không những được Đức Dược Sư Như Lai hoan hỷ hộ niệm, mà mười phương chư Phật cũng đều hoan hỷ hộ niệm, giúp cho mọi nguyện ước, mong cầu của hữu tình đều được thành tựu viên mãn, cho đến chứng được Bồ đề.
2.3.1.2. Lợi ích của việc được hộ trì
(1) Bồ tát Mạn Thù hộ trì
Lúc ấy, Mạn Thù Thất Lợi đồng tử bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con nguyện sang thời kỳ tượng pháp, sẽ dùng vô số phương tiện, khiến cho những thiện nam, tín nữ có lòng tin trong sạch, đều được nghe danh hiệu của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, cho đến trong giấc ngủ con cũng đem danh hiệu Phật thức tỉnh bên tai họ.
Đức Thế Tôn nói rằng, hễ có chúng sinh thụ trì, cúng dàng pháp môn Dược Sư, thì Đức Dược Sư Như Lai cùng chư Phật đều sẽ hộ trì, gia hộ cho họ. Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi liền vâng theo lời dạy của Phật mà nói rằng, chính ngài cùng chư Thiên cũng sẽ hộ trì. Trước tiên là nói về phát nguyện hộ trì của Bồ tát Mạn Thù.
Ngay khi Đức Thế Tôn khai thị về lợi ích của việc cúng dàng, thì Mạn Thù Thất Lợi đồng tử bạch Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Thụ trì việc cúng dàng có công đức to lớn như vậy, vì muốn lợi lạc cho hữu tình nên con xin phát đại thệ nguyện, trong buổi giao thời tượng pháp sẽ dùng vô số phương tiện khéo léo, khiến tất cả thiện nam tín nữ có lòng tin trong sạch, tất cả mọi người đều được nghe danh hiệu của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Thậm chí, ở trong giấc ngủ say, con cũng đem danh hiệu của Phật Dược Sư để họ nghe được, nhân đó được thức tỉnh và giác ngộ.
Đây là bi nguyện mà Bồ tát Mạn Thù đã phát nguyện trước Đức Phật. Nay mọi người đều được nghe Thánh hiệu của Đức Dược Sư Như Lai, và trực tiếp được nghe Kinh Bản nguyện công đức Dược Sư Quang Như Lai, có thể nói đều nhờ bi nguyện của Bồ tát Mạn Thù gia bị. Ở trong giấc mộng thấy Phật hoặc nghe danh hiệu Phật, cũng là chuyện thường xảy ra.
Lúc trước có một vị cư sĩ bảo rằng: Ở Đài Trung có một bà lão, vốn là giáo đồ của Thiên Chúa. Một đêm nọ, bà nằm mộng thấy một khối không giống cây cũng không giống đá, trên đó có khắc sáu chữ lớn “Đại Bi Tâm Đà La Ni”. Bà đem việc này hỏi rất nhiều người, ai cũng bảo không hiểu. Về sau gặp một tín đồ Phật giáo, vị ấy mới bảo cho bà biết đúng là bên Phật giáo có một bộ kinh gọi là Đại bi tâm Đà la ni. Từ đó, bà trở thành một Phật tử, và còn phát tâm ấn hành bộ kinh ấy. Nhân duyên việc này có hai phương diện: một là căn lành của bản thân đã đến giai đoạn thành thục, hai là nguyện lực đại bi của Bồ tát, khiến tự nhiên hiện đến trong giấc mơ của chúng sinh. Đại chúng trong pháp hội hôm nay, không nên cho rằng mình không có thiện căn, trong mộng chưa từng được thấy có vị Bồ tát chỉ điểm. Trong lúc tỉnh táo, chúng ta nghe hoặc trì niệm danh hiệu Phật Dược Sư và có thể nghe được pháp môn Dược Sư này, chứng tỏ thiện căn sâu dày hơn rất nhiều so với việc trong mộng thấy được Phật, nghe được pháp ở trên.
(2) Chư Thiên hộ trì
Nếu đối với kinh này, thụ trì đọc tụng, hoặc giảng nói, chỉ dẫn cho người khác, hoặc tự mình chép, hoặc bảo người chép, cung kính tôn trọng, đem các thứ hương hoa, dầu thơm, hương bột, hương đốt, tràng hoa, anh lạc, phướn lọng, các món âm nhạc để cúng dàng, đem tơ lụa năm màu làm túi đựng kinh, quét dọn một nơi sạch sẽ, chưng dọn tòa cao làm nơi để kinh. Lúc ấy, bốn vị đại Thiên vương cùng quyến thuộc của mình, và vô lượng trăm nghìn Thiên chúng đều đến nơi đó cúng dàng hộ trì.
Sự hộ trì của chư Thiên có chút khác biệt so với ngài Mạn Thù. Ngài Mạn Thù thì đem các thứ phương tiện khiến mọi người được nghe danh hiệu của Phật Dược Sư, còn chư Thiên thì hộ trì mọi người tu học pháp môn Dược Sư.
Ngài Mạn Thù lại nói: Nếu có người nào đối với Kinh Bản nguyện công đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai này, có thể tự mình thụ trì, lĩnh hội được nghĩa lý, trì tụng xưng niệm không quên mất; đọc, xem, tụng thuộc làu, hoặc là giảng nói, chỉ dẫn cho người khác đúng như sự thật; hoặc tự mình chép, hoặc khuyến khích, hướng dẫn người khác biên chép, thì đây đều là những việc cần phải thực hành khi tu pháp môn Dược Sư. Dù đọc tụng hay giảng nói, biên chép kinh thì đối với Pháp bảo cần phải sinh lòng cung kính, tôn trọng, như câu kệ mở đầu bài kinh có nói:
Vô thượng thậm thâm pháp nhiệm mầu
Trăm nghìn ức kiếp khó tìm cầu.
Đối với kinh, nên đem các thứ hương hoa, dầu thơm, hương bột, hương đốt, tràng hoa, anh lạc, phướn lọng (phan cái), các món âm nhạc để cúng dàng. “Anh lạc” là dùng sợi dây xâu các châu báu đủ màu lại. “Phan” là lá phướn dài hình dẹp. “Cái” là chiếc dù che nắng, phần đầu hình tròn, có thể ngăn che ánh nắng. “Âm nhạc” là các nhạc cụ như: đàn tỳ bà, ống tiêu, ống sáo, đàn cầm, và lời ca tán dương Đức Phật, v.v. Chúng ta tu trì pháp môn Dược Sư, cần phải sinh lòng tôn kính chí thành chí thiết, nên đem hương hoa, bảo cái cúng dàng, đồng thời lấy tơ lụa năm màu làm thành túi đựng kinh để trưng bày Kinh Dược Sư. Sau đó quét dọn một chỗ thật sạch sẽ, rồi thiết lập tòa cao làm đàn tràng để dâng cúng và trưng bày kinh điển.
Người học Phật thường dùng vàng bạc hoặc lấy máu viết kinh để bày tỏ sự chí thành cung kính cúng dàng. Cúng dàng kinh điển khiến mọi người sinh lòng cung kính. Khó hơn nữa là từ việc nghe kinh, đọc tụng, thụ trì nghĩa lý của kinh này và nương theo sự hiểu biết mà thực hành. Thông thường, các chùa chiền, tự viện thỉnh tạng kinh về rồi tôn trí nơi gác cao, cúng dàng rất long trọng, nhưng lại không đem ra đọc tụng thụ trì, không biết nghiên cứu, tìm hiểu pháp vị trong kinh để nuôi lớn tuệ mạng cho chính mình. Điều đó đã làm giảm đi ý nghĩa và giá trị cao quý của việc cúng dàng Pháp bảo. Phật pháp lấy tín tâm làm gốc, để chúng sinh dễ dàng lĩnh thụ sự giáo giới (khuyên dạy) trong kinh. Các kinh sách Đại thừa đều rất xem trọng việc cúng dàng long trọng, cho nên pháp hội Dược Sư cũng y theo khuôn phép đã quy định, trong đàn tràng cần nên cung kính cúng dàng Kinh Dược Sư.
Trong pháp đàn trang nghiêm thanh tịnh, đại chúng (ai cũng như vậy) nếu có thể như pháp cúng dàng tu trì, thì lúc đó bốn đại Thiên vương cùng quyến thuộc của các vị ấy, và vô lượng trăm nghìn Thiên chúng khác đều đến nơi ấy để cúng dàng, hộ trì cho người tu hành. Chư Thiên xuống nơi đạo tràng, một là vì tôn trọng Pháp bảo; hai là thấy pháp đàn thiết trí đúng pháp, hành giả thành tâm, một lòng phụng trì, nên đến đó để tùy hỷ nghe kinh lễ bái, v.v. ba là đến để hộ trì đạo tràng, tránh khỏi sự quấy rối, nhiễu loạn của quỷ thần, ma quái bạo ác. Bốn đại Thiên vương, xưa nay Phật giáo thường gọi là hộ pháp, cổng Tam quan của các tự viện lớn đều tôn thờ hình tượng bốn vị này. Người tu học Phật pháp chân chính thì dù không thỉnh mời, chư Thiên cũng sẽ tự đến. Nếu pháp đàn thiết trí không đúng pháp, không thanh tịnh, người tu tập không có tâm chí thành, không có lòng cung kính thì dù cho mời thỉnh các vị ấy thế nào, họ cũng sẽ không đến.
Trong kinh nói rằng: Nếu có thể chí thành một lòng tu tập, thì không những bốn đại Thiên vương, mà ngay cả Đế Thích, Phạm Thiên cũng sẽ đến hộ trì. Kinh cũng nói rằng: “Giảm bớt A tu la, tăng thêm chúng chư Thiên”. Chúng sinh dốc lòng phát tâm tu học Phật pháp, thì chính là hướng về điều thiện, hướng đến ánh sáng, cho dù không được giải thoát cũng được sinh lên cõi trời. Vậy nên người tu học Phật pháp càng nhiều, thì Thiên chúng cũng nhân đó mà thêm đông, và A tu la (là loài chư Thiên chuyên quấy phá) tự nhiên sẽ giảm bớt. Do vậy, hễ thấy người nào tu học Phật pháp, chư Thiên liền sinh lòng tùy hỷ, thệ nguyện sẽ hộ trì. Lúc chư Thiên đến, tuy mọi người không thấy nhưng có những hiện tượng đặc thù, có thể chứng minh:
1. Có mùi hương lạ bay khắp phòng.
2. Hoa tươi dâng cúng tuy cách ngày nhưng không tàn héo, vẫn tươi tắn đẹp đẽ như mới cắt từ trên cây xuống.
3. Đại chúng đều thấy ánh sáng, chứ chẳng phải là ảo giác của một người nào.
Hiện tượng chư Thiên xuống thế gian hộ pháp có rất nhiều, ở đây không bàn thêm nữa. Tóm lại, tham dự pháp hội Dược Sư, nếu có thể chân thật đúng như pháp tu trì, thì đương nhiên có các việc cảm ứng trên. Bàn đến chuyện hộ pháp, tốt nhất là không mời thỉnh mà đến, do đạo hạnh cảm hóa thôi thúc mà đến thì động cơ ấy rất chân thành và thuần khiết, mới có thể mãi mãi, trước sau cũng một lòng hộ pháp. Nếu đợi thỉnh cầu mới đến thì thân tâm của mình chưa được thuần khiết, có lúc không những không hộ pháp, lại còn muốn làm chướng ngại. Thiên thần mà hộ pháp như thế, thì sự hộ pháp của quan chức chẳng lẽ không như thế sao? Nếu đạo tràng có thể thanh tịnh, đời sống nghiêm cẩn, tiến tu đạo nghiệp, hoằng dương Phật pháp, được mọi người tôn kính, tín nhiệm, thì quan chức tự động đến hộ pháp, đó là nhờ nơi tự lực của bản thân mà cảm vời được tha lực. Nếu không được như vậy mà phải chờ thỉnh cầu mới đến hộ pháp, thì có khi sẽ tăng thêm nhiều trắc trở.
Bạch Thế Tôn! Nếu nơi nào lưu hành kinh báu này, lại có thể thụ trì, thì nhờ vào năng lực bản nguyện công đức của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ấy và năng lực của việc nghe danh hiệu Phật, nên biết rằng chỗ ấy không còn bị bệnh chết ngang, cũng không còn bị quỷ thần xấu ác đoạt lấy tinh khí. Giả sử có bị đoạt mất cũng được trở lại nguyên vẹn, thân tâm an lạc”.
Bồ tát Mạn Thù lại nói tiếp: Bạch Thế Tôn! Nếu nơi nào lưu hành kinh báu này, lại có thể thụ trì, một mặt nhờ vào năng lực bản nguyện công đức của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia, mặt khác nhân nơi năng lực, nghe danh hiệu của Đức Dược Sư Như Lai mà nhớ nghĩ rồi thụ trì, thì chính nhờ vào công đức và căn lành này, “nên biết rằng chỗ ấy không còn bị bệnh chết ngang”, nghĩa là trong khu vực Kinh Dược Sư lưu hành sẽ không có chuyện ai đó chưa đáng chết mà phải chết ngang, đồng thời cũng sẽ không bị các quỷ thần xấu ác đoạt mất tinh khí.
Có vài người, bình thường tinh thần phấn chấn, khí lực sung mãn, đột nhiên cách vài ngày thì ủ rũ xuống, sắc diện suy giảm, tinh thần không bị chấn động gì mà trở nên điên đảo cuồng loạn, đây chính là tướng trạng của bệnh gặp phải tà thần ác quỷ cướp mất tinh khí. Nếu tu trì nương theo pháp môn Dược Sư, thì không đến nỗi gặp phải tai nạn nguy hiểm này. Giả sử đã bị đoạt mất, cũng sẽ dần dần hồi phục sức khỏe trở lại giống như lúc bình thường không khác, thân tâm an lạc. Tục ngữ có nói: “Tà không thắng chính”, nếu chúng ta tu học Phật pháp, lòng dạ sáng suốt, tư tưởng hành vi đều thuần khiết, trang nghiêm, như thế thì tất cả quỷ thần tà ác không những không dám đến cướp tinh khí, mà ngay cả tiếp cận chúng ta, chúng cũng không dám. Chúng ta tu học Phật pháp thì nên hiểu rõ sự việc này, cẩn thận chớ để khởi lên tư tưởng không chân chính và các hành vi không đúng pháp, để tự mình tránh khỏi chuốc lấy khổ não.
2.3.2. Thụ trì được gia hộ
2.3.2.1. Phép tắc thụ trì
Đức Phật bảo Mạn Thù Thất Lợi rằng: “Đúng thế! Đúng thế! Đúng như lời con nói. Này Mạn Thù Thất Lợi! Nếu có những vị tịnh tín thiện nam, tín nữ nào muốn cúng dàng Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia, thì trước hết nên tạo lập hình tượng Đức Phật ấy, chuẩn bị một tòa cao thanh tịnh rồi tôn trí lên đó; rải các thứ hoa, đốt các loại hương, dùng các loại tràng phan để trang nghiêm nơi ấy. Trong bảy ngày bảy đêm, giữ tám phần trai giới, ăn thức ăn thanh tịnh, tắm gội bằng hương thơm thanh khiết, mang y phục thanh tịnh, không sinh lòng cấu uế, tâm không giận dữ. Đối với mọi hữu tình sinh lòng lợi ích an lạc, tâm từ, bi, hỷ, xả, bình đẳng, trỗi nhạc ca tụng tán thán và đi nhiễu về phía bên phải quanh tượng Phật. Lại nên nhớ nghĩ bản nguyện công đức của Đức Phật kia, đọc tụng kinh này, suy nghĩ nghĩa lý trong kinh rồi giảng nói khai thị.
Từ đoạn này trở về sau là nói rõ về lợi ích của việc thụ trì và được sự gia hộ của Đức Phật Dược Sư; nên thụ trì như thế nào mới có thể đúng pháp và được cảm ứng? Đối với quy tắc tu trì pháp môn Dược Sư, trước tiên xin nói rõ thêm:
Đức Phật Thích Ca cho rằng, ngài Mạn Thù nói rất đúng nên ấn khả rằng: “Đúng thế! Đúng thế! Đúng như lời con nói”. Tiếp theo, Phật liền bảo ngài Mạn Thù rằng: “Nếu có những vị tịnh tín thiện nam, tín nữ nào muốn cúng dàng Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia, thì trước hết nên tạo lập hình tượng Đức Phật ấy”, rồi sau thiết trí tòa cao thanh tịnh để tôn trí tượng Phật lên đó. Như đã nói ở phần trước, chất liệu khắc tượng Phật có khi bằng gỗ, bằng đồng hoặc bằng vải, giấy, với nhiều hình thức và kiểu dáng khác nhau. Theo kinh nói, trong đàn tràng Dược Sư phải thiết cúng đủ bảy tôn tượng Phật Dược Sư. Phía trước chỗ dâng cúng tượng Phật, nên rải các thứ hoa. Rải hoa là một nghi thức tôn kính của Ấn Độ. Đương thời, khi Đức Thế Tôn đi du hóa thuyết pháp, thính chúng thường đến rải hoa, còn đốt các thứ hương như hương bột, hương chiên đàn, hương trầm, v.v. Đồng thời, đem các thứ tràng phan để trang nghiêm nơi ấy.
Những việc này liên quan đến việc bài trí, sắp xếp nơi đàn tràng. Đến như ở phương diện tu trì của hành giả, thì cũng cần phải trong bảy ngày bảy đêm, giữ tám phần trai giới. Ở đây, nói đến tín chúng tại gia gồm những vị chưa thụ giới hay chỉ thụ năm giới. “Ăn thức ăn thanh tịnh”, ví dụ như thụ Bát quan trai giới mà dùng cơm chiều thì tức là không thanh tịnh rồi; hoặc ăn tỏi, hẹ, thịt, v.v. cùng các thức ăn mặn đều thuộc thức ăn bất tịnh. Đối với thân thể cũng phải thường tắm gội bằng hương thơm thanh khiết, thường xuyên thay đổi y phục sạch sẽ. Và điều quan trọng hơn nữa, là tham dự pháp hội Dược Sư thì trong tâm cần phải thanh tịnh, không khởi lên một chút tâm niệm cấu uế, nhiễm ô nào, cũng không nổi giận, hoặc có ý bất lương gây hại cho mọi người, bởi vì Phật pháp rất chú trọng lòng từ bi. Đặc biệt, tinh thần căn bản nhất của pháp môn Dược Sư chính là từ bi cứu độ và làm lợi lạc cho chúng sinh. Nếu như khởi tâm phẫn nộ gây hại thì không còn tương ứng với pháp môn Dược Sư. Vậy nên, đối với cha mẹ, sư trưởng, anh em, vợ con, chúng ta không những không sinh lòng phẫn nộ, gây hại, mà còn phải tận tâm làm lợi ích và an lạc cho tất cả mọi người. Tất cả đều dùng tâm từ, bi, hỷ, xả và bình đẳng để cư xử.
Từ là ban vui, bi là cứu khổ. Vừa đem đến cho người nhiều niềm vui, lại vừa xua tan bớt nỗi khổ niềm đau cho mọi người, thì gọi là từ bi. Hỷ là tâm không ganh tỵ, thấy người khác lìa khổ được vui liền sinh lòng hoan hỷ. Xả là tâm bình đẳng không phân biệt người thân kẻ oán, kẻ ghét người thương, với mọi người đều đối xử bình đẳng. Bốn loại tâm này được gọi là Tứ vô lượng tâm. Tâm này rất rộng lớn, vì phát khởi đối với tất cả chúng sinh, mà chúng sinh thì vô biên nên tâm này cũng phải vô lượng, cho nên gọi là Tứ vô lượng tâm. Thân tâm đều đã chỉnh đốn cho thanh tịnh rồi, sau mới tu trì.
1. Trỗi nhạc ca tụng tán thán: Trỗi nhạc cũng giống như gióng tiếng kiền chùy, ca tụng tán thán, chẳng hạn như ngâm đọc kệ tán thán Phật Dược Sư, v.v.
2. Đi nhiễu về phía bên phải quanh tượng Phật: Đi nhiễu về phía phải quanh tượng Phật là để biểu thị lòng tôn kính Đức Phật. Nếu như Trung Quốc cho bên trái là cao quý, thì Ấn Độ lại quan niệm rằng bên phải mới là cao quý, thế nên nhiễu Phật đều nhiễu từ phải qua trái.
3. Nên nhớ nghĩ bản nguyện công đức của Đức Thế Tôn Dược Sư ấy: Niệm Phật, không chỉ là xưng niệm danh hiệu Phật ở nơi miệng, mà còn phải nhớ nghĩ công đức của Phật ở trong tâm. Nhất là Đức Dược Sư Như Lai, lại càng phải nhớ nghĩ nhiều hơn nữa đến mười hai đại nguyện khi còn ở trong Nhân địa và tinh thần từ bi cứu độ, tiêu trừ tai nạn cùng vô lượng công đức y báo, chính báo của Ngài, như thế mới có thể tương ứng với tâm nguyện của Ngài.
4. Đọc tụng Kinh Dược Sư này cần phải tư duy thật kỹ: Để mong hiểu được ý nghĩa uyên thâm trong kinh. Nương vào sự lĩnh hội để phát tâm thực hành, đó là “hành giải tương ưng”.
5. Vì mọi người “giảng nói khai thị”: Đây là điều kiện đầy đủ để Đức Thế Tôn khai thị, khởi sáng pháp hội Dược Sư. Chúng ta tham dự pháp hội để cùng tu tập, hoặc là một mình chuyên tu, đều cần tuân thủ quy tắc mà Đức Thế Tôn đã chỉ dẫn, rồi sau mới có thể đạt được thành quả như ước nguyện.
2.3.2.2. Công năng của việc thụ trì
(1) Được phúc báo
Tùy theo mong cầu mà tất cả đều được toại nguyện như: cầu sống lâu được sống lâu, cầu giàu sang được giàu sang, cầu quan vị được quan vị, cầu con trai, con gái thì được con trai, con gái.
Nương theo phương tiện khéo léo của Đức Như Lai để thiết bày quy tắc tu học pháp môn Dược Sư, thì nhất quyết có thể đạt được lợi ích hiệu dụng. Trong lợi ích hiệu dụng ấy được chia làm hai, trước tiên là nói về lợi ích có được phúc báo.
Nhờ vâng giữ và thực hành pháp môn Dược Sư, nên có thể đạt được bốn loại phúc báo là: sống lâu, giàu có, được quan vị và được con trai, con gái. Có thể thấy rằng, pháp môn Dược Sư rất chú trọng đến việc làm an vui trong đời hiện tại. Mong muốn được an vui trong đời sống hiện tại là ước muốn bản năng của hầu hết mọi người. Con người trong cuộc đời này, ai ai cũng mong có thể đạt được tuổi thọ dài lâu, kinh tế sung túc, quyền uy, địa vị chính trị cao tột, con cháu đầy nhà. Dường như đây được cho là đỉnh cao hạnh phúc của kiếp người, ai mà không mong cầu? Thông thường, từ khi sinh ra cho đến khi chết đi, con người bận bịu suốt cả đời, chẳng qua chỉ là để thỏa mãn tham vọng. Thế nhưng, những ham thích, mê đắm chốn nhân sinh chưa bao giờ là đủ cả, dù cho có nỗ lực truy cầu thế nào cũng khó thể thực hiện trọn vẹn. Chỉ có nương pháp môn Dược Sư để hành trì, nhờ vào sức gia hộ và nguyện lực từ bi rộng lớn của Đức Dược Sư Như Lai, mới có thể tùy theo lòng mong cầu mà tất cả đều được toại nguyện.
Tôi nhận thấy rằng, việc tu trì pháp môn Dược Sư để được thỏa nguyện những mong ước thì dễ, chỉ có điều sau khi đạt được hạnh phúc ấy rồi thì sẽ vận dụng vào đời sống này như thế nào, đó mới là điều đáng suy ngẫm. Ví dụ như, tận dụng sự sống lâu để làm nhiều việc lợi ích cho chúng sinh, lập công bồi đức; tận dụng khả năng kinh tế giàu có sung túc để trợ cấp, cứu tế cho người cô độc bần cùng, thi hành rộng rãi các việc làm mang tính nhân văn, từ thiện và công ích; tận dụng quyền lực, uy tín lúc làm quan để cách tân xã hội, cải thiện dân sinh, làm lợi ích cho nhân dân, đất nước, hoặc tiến thêm một bước nữa là tận dụng thời gian còn làm quan ấy để hộ trì Tam bảo, phát huy tinh thần Phật giáo, thúc đẩy sự kiện toàn chính trị. Nếu có con cái thì phải nuôi nấng và dạy dỗ những điều lương thiện, đạo đức; bồi dưỡng, rèn luyện để chúng trở thành một người công dân ưu tú với đầy đủ tố chất tốt đẹp, là nhân tài hữu dụng cho quốc gia, xã hội.
Từ phương diện bản thân, người con hiếu thảo là một người hết lòng phụng dưỡng, cung cấp, chăm sóc và hiếu thảo với bố mẹ đến cuối cuộc đời, tương lai mình cũng có thể cậy nhờ con cháu khi già yếu. Cuộc sống như vậy không chỉ hạnh phúc mỹ mãn mà còn là cuộc sống có ý nghĩa, và phù hợp với nguyện ý gia hộ của Đức Dược Sư Như Lai. Ngược lại, những người thọ mạng tuy dài lâu mà hành vi, việc làm toàn là những chuyện bại hoại, gây nguy hiểm cho quốc gia, xã hội thì thà chết sớm một chút còn giữ được chút gì trong sạch.
Nếu có tiền của mà không biết làm việc từ thiện công ích, tự mình tiêu xài hoang phí vô độ, hoặc truyền dạy cho con cháu đời sau những việc làm xấu ác, thì sao tốt bằng nghèo khó mà có thể an vui trong lẽ đạo. Cầu được quan vị mà cậy thế ỷ quyền, khinh rẻ người yếu thế, hiếp đáp người hiền lương, hoặc tham ô gian lận, dẫn đến thân bại danh liệt, như thế thì đau đớn biết mấy? Lại như sinh con cái đầy nhà, nhưng toàn là những kẻ bất hiếu ngỗ nghịch, không biết xấu hổ, đã không hiếu kính cha mẹ lại còn không tuân thủ pháp luật của nhà nước, suốt ngày lêu lổng hoang đàng, không làm nên nghề nghiệp gì chính đáng, kết quả là phá hết sản nghiệp, làm càn làm bậy, quấy rối và gây hại cho mọi người. Sinh nhiều con cái mà quá nhiều đau khổ phiền toái, thử hỏi như vậy có gì tốt không?
Do vậy, chúng ta tu học Phật pháp, đối với bốn điều này, phải nên nguyện cầu được viên mãn, làm gì cũng phải suy nghĩ thận trọng, mới không chuốc lấy tai họa. Từ những điều này, chúng ta có thể hiểu rằng: An vui hiện đời tuy tốt nhưng không bền vững, cần phải khéo léo vận dụng, và vận dụng sao cho hợp lý, như thế thì đi trên con đường xuất thế của Đại thừa mới có thể đem đến ích lợi chân thật.
Như đã nói ở phần trên, Đức Dược Sư Như Lai phát mười hai đại nguyện, đối với các chúng sinh bị đói khát bức não, trước đem thức ăn ngon lạ để cho thân thể họ được no đủ, rồi sau mới đem pháp vị vô thượng, khiến họ được sự an vui rốt ráo từ cạn đến sâu. Bốn việc này có thể giải thích sâu hơn qua ví dụ sau. Ví như chuyện trường thọ của thế gian, dẫu cho con người có sống từ 100 đến 200 tuổi đi chăng nữa chẳng qua cũng chỉ là “tia lửa lóe lên khi cọ đá”, như một tia sáng mong manh ngắn ngủi, vừa lóe lên đã lập tức trở về với sự hoại diệt, huyễn hóa. Nếu từ trí tuệ như thật, chứng được pháp thân tuệ mạng, đến cuối đời vị lai cũng không sinh không diệt, đó mới là thành tựu thọ mạng chân thật.
Bàn đến sự giàu có, Kinh Pháp hoa nói rằng, Đức Phật là bậc đại phú trưởng giả, Bồ tát có vô lượng bản nguyện công đức, Phật quả có vô biên pháp tài, thụ dụng bất tận. Cõi Tịnh độ Phật Dược Sư do báu lưu ly tạo thành, thế giới Cực lạc của Đức Phật A Di Đà cũng đều lấy vàng bạc, bảy báu, v.v. để nghiêm sức, như thế thì sự giàu có tầm thường của nhân gian đâu thể sánh được? Đức Phật ở trong tất cả pháp đạt được Đại tự tại, là đấng Pháp vương của ba nghìn đại thiên thế giới, địa vị cao tột ấy, vượt qua tất cả những người có quan vị, quyền lực.
Lại nói đến nam nữ, Phật pháp thường lấy thiện tâm và thành thật để ví cho người nam, lấy nhu hòa và nhẫn nhịn để dụ cho người nữ. Do đó, chúng ta tu học Phật pháp, cần phải có cách nhìn sâu sắc hơn về bốn đức tính này, cần phải lấy việc chứng đắc pháp thân tuệ mạng để trang nghiêm hoàn bị pháp tài công đức, bước lên ngôi Pháp vương. Đồng thời, lấy đức tính thành thật và nhẫn nhục làm nguyện vọng, đây mới là cảnh giới tối cao của pháp môn Dược Sư.
(2) Thoát khỏi tai nạn
(2.1) Trăm điều quái gở xuất hiện
Nếu như có người, bỗng gặp ác mộng, thấy các tướng xấu, hoặc là chim lạ đến đậu, hoặc tại chỗ ở xuất hiện trăm điều quái gở. Người ấy nếu đem các thứ vật dụng quý báu, cung kính cúng dàng Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì những điềm mộng và tướng xấu ác, cùng các điều không lành, đều ẩn mất, không trở thành tai họa.
Dưới đây là nói về ích lợi được lìa khỏi các tai nạn, trong đó, ích lợi thứ nhất là xa lìa trăm điều quái gở. Đức Thế Tôn nói rằng: Nếu lại có người khi nằm ngủ bỗng gặp ác mộng, thấy các tướng xấu hiện ra trước mặt; hoặc có chim lạ mang điềm không lành, như chim cú, chim quạ đột nhiên bay đến tụ tập quanh nhà; hoặc tại chỗ ở, trăm điều quái lạ xuất hiện, như nhà cửa phát ra tiếng động lớn, đồ đạc tự dưng đổ vỡ, hoặc đêm khuya phát ra âm thanh lạ, cùng các hiện tượng quái gở trước đây chưa từng xảy ra, bây giờ lại bỗng nhiên xuất hiện. Đây đều được xem là những điềm dự báo không lành cho cá nhân hay gia đình. Hiện tượng quái dị này thường khiến con người dự cảm đến những chuyện không may mắn, vả lại chúng thường ứng nghiệm thành sự thật. Gần đây, báo chí có đăng tải rằng, có người ngoại quốc nọ nuôi một con chó, một ngày kia, nó bỗng chạy ra ngoài cửa và sủa lên dữ dội, người chủ bèn chạy ra xem thử thì thấy toàn bộ ngôi nhà đang đổ sụp xuống. Theo các nhà khoa học nghiên cứu, khi chúng ta sắp xảy ra chuyện bất hạnh, thì loài vật với loại giác quan đặc biệt có thể dự cảm được. Nếu chúng ta gặp phải loại hiện tượng kỳ quái này:
Thứ nhất, đừng nên hoang mang, vì một khi hoang mang thì khó mà ứng phó. Các bậc chính nhân quân tử, lòng dạ thản nhiên, hoặc là người có đạo đức, có sự tu trì thì những chuyện gì đã qua sẽ không ngó ngàng đến nữa. Nước ta có câu tục ngữ rằng: “Xem điều quái gở chẳng phải là quái gở, thì điều quái gở ấy tự nhiên biến mất”.
Thứ hai, nếu đức hạnh còn có chỗ khiếm khuyết mà chí thành xưng niệm danh hiệu Đức Dược Sư Như Lai, nguyện cầu Phật lực gia bị, thì những chuyện quái gở tự động tan biến. Trong đoạn này nói rằng, người nào bị các hiện tượng quái gở quấy nhiễu, nếu dựa vào các chỉ dẫn trên, sắm đủ các thứ vật dụng quý đẹp, cung kính cúng dàng Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì các hiện tượng ác mộng, tướng xấu, các điềm không may kia đều được ẩn mất và không thể gây tai họa cho chúng ta.
(2.2) Tất cả các tai họa đáng sợ
Hoặc có các sự đáng sợ như nạn nước, lửa, gươm đao, thuốc độc, hiểm trở, voi dữ, sư tử, cọp, beo, gấu, rắn độc, bọ cạp, rết, du diên, muỗi mòng, v.v. nếu có thể chí thành nhớ nghĩ, niệm tụng danh hiệu Phật ấy và cung kính cúng dàng, thì được thoát khỏi mọi sự sợ hãi.
Các thứ tai ương, hoạn nạn đáng kinh sợ mà đoạn này nêu ra gồm có:
1. “Nạn nước”: Nước lớn thì thành thiên tai, có thể nhấn chìm hoa màu ruộng vườn, hủy hoại nghiêm trọng nhà cửa, cướp mất sinh mạng. Ví như ở Trung Quốc có nạn lũ lụt lớn xưa nay chưa từng có, không biết bao nhiêu người dân lâm nạn đợi chờ sự cứu tế.
2. Nạn “lửa”: Lửa lớn trở thành hỏa tai rất đáng sợ, một lúc có thể thiêu rụi đến cả trăm nghìn căn nhà, tổn thất về tài sản và mạng sống cực kỳ nghiêm trọng.
3. “Gươm đao”: Bao gồm tất cả những tai ương, hoạn nạn trong thời kỳ chiến chinh loạn lạc.
4. “Thuốc độc”: Là sự tổn hại khi gặp phải thuốc độc.
5. “Hiểm trở”: Là đi trên vùng vách núi cheo leo, những nơi cầu cống, hầm hố nguy hiểm, rất dễ trượt chân té ngã.
6. “Voi dữ”: Nghĩa là có những loài voi rất hung dữ, thấy người liền giẫm đạp cho chết.
Ngoài ra, còn có “sư tử” hung dữ, mãnh hổ, lang sói gian manh, gấu chó, gấu nâu, v.v. đều là những loài hung tợn nhất trong các loài cầm thú.
7. “Rắn độc, bọ cạp, rết,…”: Là những loài trùng độc, nếu bị chúng cắn, không trúng độc mất mạng thì cũng sưng phù đau nhức.
8. “Du diên”: Chúng ta vẫn quen gọi là trùng áo tơi, nó đồng loại với con rết, chất độc của chúng ngấm vào da thì lập tức chỗ ấy phồng lên, đau đớn kèm theo ngứa ngáy, rất khó chịu.
9. “Muỗi mòng”: Như trước đã nói đến.
Những chúng sinh thường xuyên chí tâm nhớ nghĩ và cung kính cúng dàng Đức Dược Sư Như Lai, thì đều có thể nương vào công đức thù thắng này mà được cứu thoát khỏi tất cả tai ương đáng sợ trên.
Sở dĩ chúng ta bị gây hại bởi các trùng độc và thú dữ ăn thịt, một là do chiêu cảm nghiệp báo trước đây của bản thân; hai nữa là lòng dạ ở đời hiện tại quá độc địa. Chúng ta xưng niệm danh hiệu của Đức Dược Sư là để tiêu trừ nghiệp chướng, cũng để nuôi dưỡng, vun trồng lòng từ bi, giảm bớt tâm độc hại, như vậy thì có thể tiêu tai khỏi ách. Có người nói rằng, hổ lang là hiểm họa của con người, cần phải diệt trừ chúng. Kỳ thực, rắn độc hay thú dữ đều không hoàn toàn là loài hại người, mà do lòng người luôn ôm lòng muốn sát hại, lẽ dĩ nhiên, vì để tự vệ nên chúng buộc phải làm tổn hại đến con người. Có người hỏi huấn luyện viên dạy thú rằng: “Sao suốt ngày ông cứ quanh quẩn bên các loài sư tử, mãnh hổ mà vẫn không bị hại?” Ông ta đáp: “Vô cùng đơn giản, chỉ cần giữ được niềm tin của chúng, để cho chúng thực sự biết rằng anh hoàn toàn không có tâm hại chúng, mà chỉ mang lại lợi ích cho chúng thì chúng không những không ăn thịt mà còn trở thành bạn tốt với anh nữa, chỉ cần vuốt ve đùa giỡn thì chúng hoàn toàn không làm hại ai”.
Như thế đủ để thấy rằng, dù là mãnh hổ hay sư tử thì cũng đều có tình bằng hữu thân thiện. Thật ra, lang sói hay mãnh hổ thì đều là các mãnh thú sợ người cả. Dựa vào bản năng và kinh nghiệm của chúng, hễ thấy con người thì liền cho rằng họ muốn hại mình, nên lúc nào cũng ở trong tâm thế đối đầu kháng cự. Loài rết cũng giống như vậy, nếu chúng bám trên thân chúng ta, mà chúng ta không đụng đến chúng thì hoàn toàn vô sự, nhưng nếu đụng tới chúng thì sẽ bị cắn ngay một nhát, bởi vì loài nào cũng có bản năng tự vệ nên thành ra có sự phản kháng. Chúng ta học Phật, túc nghiệp ngày một tiêu trừ, lòng từ bi ngày càng tăng trưởng. Tất cả những tổn thương nguy hại đến từ các mãnh thú và trùng độc tự nhiên sẽ giảm bớt dần. Cổ đức có dạy: “Trên đời, đức là chí tôn”, đây có thể xem là chân lý, chứ chẳng phải chỉ là lời nói bông đùa. Có một vị tổ sư nọ sống trên núi, do không ai săn sóc nên nuôi hai con hổ để bầu bạn. Nhờ lòng từ bi, nuôi nấng vỗ về của vị ấy, cả hai con hổ đều thuần phục và nghe lời. Chân lý này tỏ rõ rằng, muốn dứt trừ tai ương hoạn nạn, thì phải chí thành xưng niệm danh hiệu Đức Dược Sư Như Lai để tiêu trừ nghiệp cũ, trưởng dưỡng lòng từ, đem sân nhuế độc hại trong lòng gột rửa cho trong sạch, thanh tịnh thì tai ương mới được tiêu trừ. Nếu không thực hiện được điều đó, thì chớ bảo là Đức Dược Sư Như Lai không ứng nghiệm.
(2.3) Ngoại xâm và nội loạn
Khi bị nước khác xâm lăng, trộm cướp hoành hành phản loạn, nếu nhớ nghĩ và cung kính Đức Như Lai ấy thì đều được thoát khỏi.
Tai nạn của quốc gia không ngoài hai thứ:
1. Ngoại xâm (tai họa bên ngoài): Bị nước khác xâm lăng.
Ví dụ: Trước đây, khi Trung Quốc bị Nhật Bản xâm lược, trong suốt tám năm trường kỳ kháng chiến, đã tổn thất không biết bao nhiêu là sức người sức của, và chịu đủ mọi cay đắng lầm than trong chiến tranh.
2. Nội loạn (tai họa bên trong): Bị đạo tặc quấy rối phản loạn.
Ví dụ: Trước đây thì có Hoàng Sào, Lý Sấm, Trương Hiến Trung, v.v. là những tên cướp bóc gây rối, bây giờ lại có các tổ chức phản loạn. Quốc gia chinh chiến loạn lạc gây nên cảnh nước mất nhà tan, vợ con ly tán, dân chúng chạy nạn khắp nơi, không thể nào an cư lạc nghiệp được, thật khổ sở xiết bao! Đây là những việc liên quan đến phương diện nội loạn.
Tóm lại, dù chúng ta không may gặp cảnh nội loạn hay ngoại xâm, nếu như có thể nhớ nghĩ, cung kính, lễ bái cúng dàng Đức Dược Sư Như Lai, thì đều có thể được thoát khỏi những tai họa ấy.
Một đất nước bị họa hoạn cả bên trong lẫn bên ngoài, nguyên nhân chủ yếu là do bản thân không vững mạnh. Có câu: “Cây mục nát thì sâu bọ mới sinh”, nếu nội bộ kiện toàn, không có kẽ hở nào để có thể lợi dụng thì người ngoài không dám xâm phạm và bên trong càng không dám nổi loạn. Chúng ta xưng niệm danh hiệu Đức Dược Sư Như Lai, thực hành theo bản nguyện của Ngài thì các tai nạn này hẳn nhiên sẽ không xảy ra. Ngộ nhỡ, nếu đã xảy ra thì cần phải xưng niệm Thánh hiệu, tu trì pháp môn Dược Sư để cầu mong bản nguyện công đức của Phật gia bị, đồng thời giải trừ nghiệp chướng cho mọi người.
Quốc nạn là nghiệp chiêu cảm chung của mọi người, không phải là nghiệp của một cá nhân hay của một vài người, do đó tất cả đều phải một lòng thành kính, cùng nhau tu tập pháp môn Dược Sư. Mọi người đồng lòng xưng niệm danh hiệu Phật, cung kính lễ bái, phát nguyện sám hối, như vậy mới có thể giải trừ đại nạn cho đất nước, từ nặng hóa thành nhẹ, từ nhẹ trở thành không.
Đời nhà Nguyên, binh lính vô cùng hùng mạnh, quân lính được phái về phía Đông chinh phạt Nhật Bản. Nước Nhật khi ấy là một quốc gia nhỏ bé, quân đội yếu kém, nên không có sức chống cự, tình thế vô cùng nguy cấp. Sau đó, họ phát động mở pháp hội hộ quốc tiêu tai, nhờ dân chúng cả nước tập trung sức mạnh, một lòng chí thành cầu nguyện Phật lực gia hộ. Kết quả là cả hai lần quân Nguyên tiến đánh Nhật Bản, chiến thuyền của họ đều bị bão tố đánh úp, và người dân Nhật Bản may mắn thoát khỏi quốc nạn. Thế nhưng sau này, Nhật Bản chuyển sang xâm lược Trung Quốc, cuối cùng gây nên cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, và nước Mỹ cũng tham gia đánh phá Nhật Bản, tình thế vô cùng nguy cấp. Nhật Bản cũng đã từng tu pháp môn tiêu tai giải nạn, nhưng kết quả bom nguyên tử vẫn cứ rơi xuống đất nước họ. Cho nên, Phật lực cảm ứng là cảm ứng với người bị hại, nếu chính mình lại hại người khác thì chắc chắn sẽ gặp báo ứng, dù có thiết tha nhận lỗi hay thành khẩn sám hối thì tất cả cũng đều không có tác dụng.
(2.4) Phạm giới và đọa lạc
Lại nữa Mạn Thù Thất Lợi! Nếu có tịnh tín thiện nam, tín nữ nào cho đến trọn đời mà không kính thờ một vị trời nào khác, chỉ một lòng quy y Phật Pháp Tăng, thụ trì giới cấm, hoặc là năm giới, mười giới, bốn trăm giới của Bồ tát, hai trăm năm mươi giới của Tỳ kheo, năm trăm giới của Tỳ kheo ni, mà có sự hủy phạm các điều giới đã thụ, sợ rơi vào đường ác, nếu ai có thể trọn lòng nhớ nghĩ danh hiệu Đức Phật ấy và cung kính cúng dàng thì nhất định sẽ không bị sinh vào ba nẻo ác.
Hủy phạm giới cấm, rơi vào ba đường ác cũng là một đại nạn nguy hiểm. Vì thế, Đức Thế Tôn bảo Mạn Thù Thất Lợi rằng: Nếu có tịnh tín thiện nam, tín nữ nào, từ lúc quy y Tam bảo cho đến cuối đời mà không thờ phụng hoặc có tín ngưỡng khác như trời, tà ma ngoại đạo, chỉ một lòng một dạ quy y Tam bảo - Phật, Pháp, Tăng. Bước thứ nhất để tu học Phật pháp là quy y Tam bảo. Đã quy y Tam bảo rồi thì không được quy y quỷ thần xấu ác hay một tôn giáo nào khác, bởi vì tín ngưỡng thì phải chuyên nhất.
Cho nên nói, quy y cho đến trọn đời thì niềm tin ấy mới chắc thật. Bằng không, thấy tín ngưỡng này cũng quy y, thấy tín ngưỡng kia cũng quy y, lòng tin bị hỗn loạn và phân tán thì cũng như không có tín ngưỡng. Những ai chân chính quy y Tam bảo cần phải ghi nhớ điều này. Như có người nói, nào là “Tam giáo đồng nguyên”, “Ngũ giáo đồng nguyên”, tất cả đều không phải là Phật giáo và không đáng tin. Hoặc có người bảo, đã tin Phật rồi thì tin thêm cả thần tài nữa cũng đâu có sao. Nên biết Phật pháp là một kho báu sung mãn tràn đầy: cầu của cải, cầu trường thọ, cầu được con trai, con gái, v.v. Phật giáo đều có thể cung cấp đầy đủ theo tâm nguyện của chúng sinh, hà tất phải cung kính cúng dàng thần tài vốn chẳng thuộc Phật giáo? Tin Phật, không quy y tà ma ngoại đạo chính là nguyên tắc căn bản nhất của việc quy y Tam bảo.
Đệ tử Phật có lòng tin thanh tịnh, trước quy y Tam bảo, kế đó là giữ gìn giới cấm. Giới là nền tảng căn bản của Phật pháp, không có nền tảng căn bản này, thì tất cả thiện pháp vi diệu mầu nhiệm sẽ không có nơi để sinh ra, thế nên các đệ tử Phật cần phải thụ giới. Sau khi đã thụ giới rồi thì mới được xem là đầy đủ tư cách của người đệ tử Phật. Có người vì sợ thụ giới mà không thể giữ giới thì tội lỗi hủy phạm ấy càng nặng, thật ra các tính giới như: sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, v.v. thì dẫu không thụ giới, nhưng hễ phạm thì cũng bị mắc tội.
Giới thì có “năm giới, mười giới, bốn trăm giới của Bồ tát, hai trăm năm mươi giới của Tỳ kheo, năm trăm giới của Tỳ kheo ni”. Năm giới là những giới mà đệ tử cận sự tại gia thụ trì. Mười giới là những giới điều của người xuất gia gồm Sa di và Sa di ni. Nếu nói Thập thiện, tức là giới chung của cả người tại gia và xuất gia. Bốn trăm giới của Bồ tát, có chỗ dịch là một trăm lẻ bốn giới. Kinh Du già Bồ tát giới nói, có bốn giới trọng và bốn mươi ba giới khinh. Theo Kinh Phạm võng thì có mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh.
Tổng số giới điều của Tỳ kheo ni gồm năm trăm giới, trên thực tế chỉ có hơn ba trăm giới. Trong các điều giới cấm đã thụ ở trên, bất luận là giới của cư sĩ, giới của Sa di hay giới của Bồ tát, nếu có người hủy phạm, đương nhiên sẽ lo lắng, sợ hãi mình sẽ rơi vào đường ác. Chúng sinh phạm giới nếu có thể nhất tâm xưng niệm danh hiệu Đức Phật Dược Sư, cho đến cung kính cúng dàng Đức Phật Dược Sư, thì nhờ vào công đức thiện căn này mà những tội lỗi đã phạm sẽ được tiêu trừ, nhất định sẽ không sinh vào ba đường ác. Chúng sinh phạm giới nếu sinh lòng sợ hãi, có lòng hổ thẹn và có thể chân thành hối lỗi, phát lộ sám hối, Đức Đại Giác Thế Tôn lấy lòng thương xót cứu giúp chúng sinh làm bản hoài, tự nhiên sẽ bi mẫn nhiếp thụ, dùng uy lực để che chở, cho họ một cơ hội để sửa đổi bản thân. Lúc Đức Thế Tôn còn tại thế, nếu có vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni nào phạm đại giới căn bản thì Ngài cũng chấp thuận cho các vị ấy trở lại làm Sa di học pháp, để tránh cho họ khỏi đọa lạc vào nẻo ác. Có điều là những vị ấy không thể thoát ly sinh tử ngay trong hiện đời mà thôi.
(2.5) Khó khăn của người phụ nữ khi sinh nở
Hoặc có người nữ trong lúc sinh, chịu đủ thứ đau đớn, nếu có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, lễ bái, tán thán và cung kính cúng dàng Đức Như Lai ấy, thì mọi đau đớn đều sẽ tan biến. Đứa con người ấy sinh ra, thân thể đầy đủ, tướng mạo đoan chính, nhanh nhẹn thông minh, ai thấy cũng hoan hỷ, yên ổn ít bệnh và không bị kẻ phi nhân đoạt mất tinh khí”.
Hoặc có người nữ khi thời kỳ mang thai đã mãn, đương lúc sắp sinh nở sẽ chịu nỗi đau đớn, khổ sở cùng cực. Người phụ nữ sinh con vốn là hiện tượng tự nhiên về mặt sinh lý, cũng giống như quả chín thì rơi rụng, lẽ ra không có gì đau đớn mới phải. Chúng ta vẫn thường thấy, những người phụ nữ thuộc các gia đình nghèo khó, trước hôm sinh con vẫn còn phải làm lụng vất vả trên đồng, đến lúc biết mình sắp sinh mới về nhà nghỉ ngơi. Sinh con độ hai ba hôm lại ra ngoài làm việc, giống như chẳng có chuyện gì. Tuy nhiên, khi sinh nở thường rất đau đớn, nhưng không phải ai ai cũng vậy. Sở dĩ sinh nở quá đau đớn là vì hai nguyên nhân chính:
1. Trong giai đoạn mang thai, người phụ nữ không biết nghỉ ngơi dưỡng sức, ăn uống và sinh hoạt không có tiết độ, hoặc hay nóng nảy cáu giận, tham dục quá mức.
2. Nếu người phụ nữ quen được nuông chiều hằng ngày, chỉ cần có chút cảm giác thì thân tâm liền dao động lo lắng, ngày đêm bồn chồn, đến khi gần ngày sinh nở, tinh thần và thể lực đều mệt mỏi kiệt quệ, dẫn đến khó sinh.
Ngoài những điều trên, thì có rất ít trường hợp sinh khó xảy ra liên quan đến nghiệp chướng đời trước. Hầu hết những nỗi đau đớn ấy có thể nói đều là tự mình gây ra. Bây giờ y học phát triển, y thuật lại cao minh, sinh nở trong bệnh viện nên sự đau đớn cũng giảm đi. Giả sử người phụ nữ thật sự khó sinh đến nỗi phải chịu đau đớn dữ dội, nếu có thể đủ lòng chí thành xưng niệm danh hiệu, lễ bái, tán thán, cung kính cúng dàng Đức Dược Sư Như Lai ấy, thì tất cả mọi đau đớn khổ sở do sinh khó đều có thể tan biến hết cả.
Liên quan đến vấn đề sinh khó, sách Ấn Quang Đại sư văn sao từng thảo luận rằng: Sự đau đớn của việc sinh nở, có thể là do chưa đến thời điểm sinh nở mà đã vội vàng sinh, dùng sức quá mức nên dẫn đến như thế. Do vậy, người ta thường khuyên người sản phụ hãy tịnh dưỡng nghỉ ngơi, không nên lo lắng, chờ đến đủ ngày đủ tháng, thì giống như xuôi dòng đẩy thuyền, tự nhiên sẽ không đau đớn. Nếu là sản phụ có niềm kính ngưỡng đối với Phật giáo, thì khuyến khích người ấy thành tâm xưng niệm danh hiệu Đức Dược Sư, quán tưởng tướng hảo trang nghiêm và công đức vi diệu của Phật, thì các thứ đau đớn, hoạn nạn liền được tiêu trừ.
Có người bảo, phòng sinh sản ô uế nên không thể niệm Phật. Thực ra, lời ấy hoàn toàn sai. Chư Phật và chư Bồ tát đều là những bậc đại từ đại bi, nếu thấy chúng sinh đau khổ thì bất luận ở trong hoàn cảnh ô uế ra sao, các Ngài vẫn đến cứu độ. Chẳng khác gì người mẹ hiền nhìn thấy đứa con yêu lỡ sa chân vào hầm xí, thì tuyệt nhiên sẽ không vì nhờm gớm sự nhơ nhớp ấy mà khoanh tay đứng nhìn, không cứu vớt. Chư Phật, chư Bồ tát xem tất cả chúng sinh như con đẻ, nên cho dù đang lúc sinh nở mà thành tâm niệm danh hiệu Phật, thì Đức Phật vẫn có thể thùy từ gia hộ, khiến người ấy được an ổn, xa lìa khổ đau. Không chỉ người sản phụ có thể thoát khỏi khổ nạn, mà ngay cả đứa con sinh ra cũng nhờ công đức người mẹ niệm Phật, lễ Phật, mà các bộ phận cơ thể: tay chân, ngũ quan, v.v. đều đầy đủ, dung mạo sắc tướng đoan chính, hễ ai nhìn thấy cũng sinh lòng hoan hỷ. Thêm vào đó, bẩm tính nhanh nhẹn lanh lợi, thiện căn sâu dày, thông minh sáng suốt, từ nhỏ đến lớn được bình yên vô sự, ít bệnh ít lo lắng, không có kẻ phi nhân đến đoạt tinh khí, dễ dạy dễ nuôi, trưởng thành khôn lớn.
Nói theo thuyết nghiệp cảm của Phật giáo thì ngoài việc tự mình tạo nghiệp, tự mình nhận lấy báo ứng (chiêu cảm quả báo), còn có một năng lực lớn mạnh dần dần rất mạnh mẽ, tức là nói nghiệp lực của người khác có thể ảnh hưởng, làm phát sinh quả báo của mình. Cho nên, bản kinh này đặc biệt nhấn mạnh đến việc cha mẹ thường ngày hoặc khi sinh nở, xưng niệm, cung kính cúng dàng Đức Dược Sư Như Lai, thì đứa con sinh ra cũng sẽ nhờ đó mà được tướng mạo đoan chính, trí tuệ lanh lợi. Nói theo luật nhân quả, thì nhân của mình sẽ cảm ứng quả báo của mình, đó là quy luật tất yếu, không thể bàn cãi. Nghiệp nhân thiện ác của cha mẹ cũng có thể chi phối đến họa phúc của con cái. Giữa người và người có một mối liên hệ cộng sinh rất mật thiết, do đó tất cả họa phúc, tốt xấu cũng sẽ có mối tương quan.
Hành vi của anh A, dưới một hình thức nào đó, có thể làm thay đổi hoàn toàn tính tình và tư tưởng của anh B. Người mẹ lại có sức ảnh hưởng vô cùng lớn đối với đứa con. Nếu lúc người mẹ đang mang thai mà biết quy y Tam bảo, được thấm nhuần Phật pháp, tính tình hiền lành ôn hòa, nhã nhặn trầm tĩnh, ít có phiền lo, lại còn làm nhiều việc công đức, thì đứa bé chắc chắn sẽ được khôi ngô tuấn tú, thông minh trí tuệ và không bệnh tật, đây gọi là thai giáo. Nếu người mẹ thường sinh lòng buồn bực, tính tình nóng nảy khó chịu, hoặc quá tham dục thì gần như đứa con ấy tính tình bạo ngược hung ác, hoặc nhiều tật bệnh, ngu si. Sau khi đứa bé ra đời, nếu như cha mẹ tin tưởng phụng thờ Tam bảo, thường làm việc bố thí, yêu thương bảo vệ sự sống của mọi loài, thì tâm hồn trong sáng của trẻ con sẽ bắt chước rất nhanh, dễ dàng được huân tập. Đứa con cứ sống chung với bố mẹ năm này qua năm khác như thế, lâu dần trở thành thói quen, tương lai tự nhiên cũng trở nên hiền lương, hòa ái. Người làm mẹ, ai ai cũng đều mong muốn sinh được đứa con ngoan hiền, hiếu thảo, muốn như vậy thì cần phải lấy thân mình làm mực thước, dù làm điều gì thì bản thân cũng nên hướng đến điều thiện.
Có nhiều đôi vợ chồng trẻ, tình cảm hòa hợp, hoàn cảnh, kinh tế đều tốt, lòng dạ chính trực, gia đình rất hòa thuận, con cái sinh ra cũng thông minh, đáng yêu vô cùng. Cũng có nhiều trường hợp, vì hoàn cảnh gia đình không tốt, tình cảm lại đổ vỡ, vợ chồng thường hay cãi vã giận hờn, thì sinh con ra ít nhiều cũng bị nhiễm các tập khí xấu kia. Đây được gọi là sức ảnh hưởng mạnh mẽ từ tha lực. Để gia đình được hạnh phúc, con cái mạnh khỏe, thông minh, kính mong mọi người nên chí thành khẩn thiết, tin tưởng phụng thờ Tam bảo và siêng năng tu tập phúc đức.
3. Đức hạnh không thể nghĩ bàn
3.1. Khó tin khó hiểu
3.1.1. Vấn đáp để xác định
Lúc ấy, Đức Thế Tôn bảo A Nan rằng: “Như Ta tán thán ca ngợi về những công đức của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia, đó là chỗ vô cùng sâu xa của chư Phật, khó có thể hiểu được, con có tin lời đó không?”
Phần thứ ba nói rõ về đức hạnh không thể nghĩ bàn, công đức và hạnh nguyện của Đức Phật là bất khả tư nghì, hàng chúng sinh như chúng ta chẳng thể lý giải hay tưởng tượng được. Ở trong phần này lại chia làm hai, đây là đoạn thứ nhất: khó tin khó hiểu. Bởi công đức hạnh nguyện của Phật không thể nghĩ bàn, do đó mà khó tin khó hiểu; chúng sinh đối với việc khó tin và khó hiểu này, lại có thể sinh khởi niềm tin và hiểu được thì thật là rất khó. Vấn đề này lại chia làm ba, trước tiên là vấn đáp để xác định.
Cũng có người nghi ngờ rằng: Vì sao ở đoạn văn trước, vị đối thoại là ngài Mạn Thù, sao bây giờ lại nói với ngài A Nan? Phải biết rằng, Mạn Thù là vị đại Bồ tát trí tuệ đệ nhất, với trí tuệ của ngài, đối với công đức diệu hạnh của Đức Phật thì không có điều gì không thể tin hiểu, cho nên mới đem vấn đề này sang hỏi Tôn giả A Nan. A Nan được dịch nghĩa là Khánh Hỷ, là em chú bác với Đức Thế Tôn khi còn ở tại gia. Ngài rất thông minh, nghe được điều gì thì nhớ hết điều ấy, học rộng nhớ nhiều, là vị “đa văn đệ nhất” trong chúng đệ tử xuất gia của Phật. Ngài theo hầu Phật tổng cộng được 25 năm, giáo pháp Phật nói ra, đều ghi nhớ trọn vẹn, cũng là một nhân vật quan trọng trong cuộc kết tập kinh điển.
Lúc ấy, Đức Thích Ca (Thế Tôn) nói với ngài A Nan rằng: “Như Ta tán thán ca ngợi về những công đức của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”, đây là “chỗ vô cùng sâu xa”, vi diệu của mười phương chư Phật, đối với hàng chúng sinh bình thường khó có thể hiểu được, “con” nghe rồi có thể tin được chăng? Hành xứ nhiệm mầu, tức là cảnh giới sở hành trí tuệ, từ bi của Phật. Trí tuệ phương tiện và diệu dụng từ bi tế độ của Đức Phật thâm sâu và rộng lớn vô cùng; tâm trí của hàng phàm phu bình thường thật không thể nào tin được. Do đó, Đức Thế Tôn đặc biệt nêu ra, và tạm mượn lời đối đáp với Tôn giả A Nan để trình bày phổ biến rộng rãi đến toàn thể đại chúng.
Phật pháp có Đại thừa và Nguyên thủy, tất cả kinh điển không hoàn toàn thống nhất nhau, mỗi tông phái đều có luận điểm trọng tâm của riêng mình. Đối với các kinh Đại thừa, có thể chia làm ba loại lớn:
1. Nghiêng về phân tích cảnh tướng
Tông phái tập trung về cảnh tướng: Từ tướng trạng của thế giới, sáu nẻo luân hồi cho đến sắc thân, tâm thức, v.v. của chúng sinh, tựu trung là nói về các hiện tượng của vũ trụ nhân sinh, mang ý nghĩa của khoa học, triết học, vô cùng thực tế, rất dễ tin và hiểu.
2. Tập trung vào việc trình bày hạnh môn
Tông phái chú trọng về tu hành: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, trí tuệ, v.v. tức là trình bày về các việc phát tâm Bồ đề, tu hạnh Bồ tát, tương đối khó hiểu, đặc biệt là vấn đề liên quan đến tu tập thiền định, phát sinh trí tuệ, thể chứng rốt ráo tính Không. Chân như không hai, thật tướng vô tướng, các chữ như thắng nghĩa hạnh lại càng khó hiểu. Song, so với quả đức thì còn có thể suy luận để biết được.
3. Chú trọng trình bày quả đức
Các kinh nói riêng về quả đức như Kinh Hoa nghiêm, Kinh Pháp hoa, Kinh A Di Đà, Kinh Dược Sư, v.v. đều đề cập đến công đức viên mãn, thần thông, trí tuệ, lợi ích chúng sinh, cứu độ mọi loài viên mãn, v.v. của quả vị Phật. Kinh A Di Đà nói rằng: “Đây là pháp khó tin”. Kinh Pháp hoa cũng nói: “Cửa trí tuệ ấy, khó hiểu khó vào”. Kinh Hoa nghiêm cũng lấy Phật quả làm nền tảng để nói về tất cả. Những vấn đề này đối với tâm cảnh của phàm phu chúng ta chênh lệch quá xa, do đó khó mà tin hiểu được. Bản kinh này nói về bản nguyện công đức và hạnh quả rộng lớn của Đức Dược Sư Như Lai, cũng là chỗ khó tin khó hiểu. Do vậy, giáo hóa chúng sinh mà đem Duy thức giảng giải và phân tích cho họ các hiện tượng tự nhiên cùng những hoạt động tâm lý, thì rất dễ dàng để tiếp nhận; tiếp đó bàn về hạnh môn của Bồ tát, quán chiếu Duyên khởi tính Không, Chân tính không sinh không diệt thì sẽ chẳng khó khăn gì để tin và hiểu. Nếu bàn về cảnh giới Phật quả thì quá cao sâu, quá khó hiểu, khó tin vô cùng! Cảnh giới, hạnh môn và quả đức trong Phật pháp đều có tính nhất quán của nó. Từ phân tích cảnh tướng đến trình bày về hạnh môn và nói rõ về quả đức, tùy căn cơ chúng sinh mà nói, cũng tức là từ chỗ có thể nghĩ bàn đến chỗ không thể nghĩ bàn, từ chỗ dễ tin hiểu đến chỗ khó tin hiểu.
A Nan thưa rằng: “Bạch Thế Tôn! Con đối với lời kinh mà Như Lai nói ra, không sinh nghi ngờ. Tại vì sao vậy? Tất cả thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp của Như Lai đều thanh tịnh. Bạch Đức Thế Tôn! Mặt trăng, mặt trời kia có thể rơi rụng, núi Diệu Cao Vương có thể nghiêng đổ, nhưng lời của chư Phật nói ra không bao giờ sai khác.
Đây là câu trả lời của Tôn giả A Nan. Tôn giả nói: Bạch Đại Đức Thế Tôn! Con đối với khế kinh (trên khế hợp với chân lý của các pháp, dưới khế hợp với căn cơ chúng sinh) mà Đức Như Lai nói ra, tin tưởng tuyệt đối, không sinh bất kỳ một niệm nghi ngờ nào. Đại đức, Phạn ngữ là “Bhadanta”, là một danh từ tôn xưng Đức Phật, cũng có thể dịch là “Tôn giả”, với hàm ý là lòng tôn kính, tôn trọng cao nhất. Thời nay, nhiều người dùng từ quá lạm dụng, những người tại gia mà cũng xưng là “đại đức”. Tôn giả A Nan là một hành giả Thanh văn, đối với hành xứ vô cùng uyên thâm của chư Phật mà Đức Thế Tôn đã nói ra, làm sao có thể tin tưởng sâu sắc và không chút nghi ngờ? Căn cứ vào lời trình bày của chính Tôn giả A Nan với Đức Phật, thì lý do là vì: “Tất cả thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp của Như Lai đều thanh tịnh”. Lời nói, hành động và ý nghĩ của Như Lai, đều là sự diệu dụng của ba nghiệp, chính là dòng chảy bình đẳng, thanh tịnh của pháp giới, là biểu hiện của trí tuệ và từ bi.
Trong 25 năm, Tôn giả A Nan không hề rời xa hình bóng của Đức Phật, chính tai nghe, mắt thấy thì đương nhiên là hiểu rất rõ rồi. Thế nên chỉ có Đức Thế Tôn là bậc Thầy mà Tôn giả A Nan có niềm tin tuyệt đối. Đã tin tưởng Đức Phật, mà kinh này lại do chính Đức Phật nói ra, thì lẽ tất nhiên Tôn giả có thể tin tưởng sâu sắc và không hề nghi ngờ. Thật ra, Tôn giả A Nan hoàn toàn chưa thật sự có thể tin và hiểu rõ ý nghĩa thâm sâu hành xứ của chư Phật, mà vì tin tưởng nhân cách cao quý của Đức Thế Tôn, tuyệt đối sẽ không nói lời hư dối. Do vậy, quả đức của Như Lai dù uyên thâm khó hiểu, Tôn giả vẫn có thể tin nhận không chút hoài nghi.
Tín ngưỡng của nhân loại căn bản có hai:
1. Dùng trí lực của bản thân, từ sự tìm hiểu chân lý mà sinh tín ngưỡng.
2. Do tin tưởng sự giác ngộ của người khác mà gián tiếp sinh lòng tín ngưỡng cho bản thân.
Việc này cũng giống như có một người từ phương xa đến, trình bày về tình hình ở nơi ấy như thế, như thế, mặc dù đó là việc rất khó để khiến người ta tin tưởng, nhưng nhờ người đã nói lên những lời ấy luôn luôn thành thật đáng tin, nên cũng có thể khiến mọi người tin tưởng mà không hề hoài nghi. Ngài A Nan từ việc tin Phật mà có niềm tin sâu sắc đối với bản nguyện công đức của Đức Dược Sư Như Lai. Đây cũng là hành xứ uyên thâm của chư Phật. Lúc trước, có một ngoại đạo không tin Đức Thế Tôn đã chứng được đại Bồ đề, nên đặc biệt âm thầm phái con trai của mình đi theo Đức Phật để xem xét lối sống sinh hoạt, cũng như việc làm và thái độ của Ngài. Trải qua ba tháng mà người ấy vẫn không hề thấy một chút khuyết điểm nào của Đức Phật, nhân đó mà bỏ tà về chính, quy y với Đức Phật. Uy nghi của Ngài đoan chính, nghiêm trang, y phục ngay ngắn chỉnh tề, trong ngoài đồng nhất. Đức Phật nói pháp cũng không cần sự suy nghĩ, nói ra là tự nhiên phù hợp với chân lý, mang đến lợi ích. Đức Phật đối với pháp thế gian và xuất thế gian, không cần truy tìm, mong cầu mà là tự nhiên, rõ ràng ở ngay trước mắt. Ba nghiệp của Phật thanh tịnh như pháp, thì còn gì có thể nghi ngờ.
Tôn giả A Nan theo hầu Đức Phật rất lâu, hơn thế lại thường thân cận Ngài trong các sinh hoạt hằng ngày: đắp y, ăn cơm, đi, đứng, nằm, ngồi, v.v. từ việc đối nhân xử thế cho đến việc thuyết pháp độ sinh của Đức Phật, mỗi một cử chỉ, hành động của Ngài, Tôn giả A Nan đều hiểu và lấy làm thân thiết, do đó Tôn giả tuyệt đối tin tưởng bản kinh trình bày về quả đức của Đức Dược Sư Như Lai. Ngài nói tiếp: Dù cho mặt trăng, mặt trời ở trên không trung có thể rơi rụng, núi Diệu Cao Vương (núi Tu Di) ở trên mặt đất có thể bị nghiêng đổ, nhưng lời của chư Phật nói tuyệt đối chân thật, không hư dối, không có biến đổi sai khác. Việc này chứng tỏ một điều, dù cho một ngày nào đó mặt trăng, mặt trời có rơi rụng xuống hay núi Tu Di có lay động đi nữa, thì lòng tin tưởng của Tôn giả A Nan đối với những gì Đức Phật nói ra sẽ mãi mãi không mảy may dao động.
3.1.2. Phúc và tội của việc tin tưởng và hủy báng
Bạch Đức Thế Tôn! Có các chúng sinh không đủ niềm tin, nghe nói hành xứ nhiệm mầu của chư Phật liền nghĩ: “Làm sao chỉ niệm một danh hiệu Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai mà lại được công đức lợi ích thù thắng như vậy?” Do đó không tin, ngược lại còn sinh lòng phỉ báng, kẻ ấy chìm mãi trong đêm dài tăm tối, mất đi lợi ích lớn lao, rơi vào các nẻo ác, lưu chuyển không cùng”. Đức Phật bảo Tôn giả A Nan: “Các chúng sinh kia nếu nghe danh hiệu của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, chí tâm thụ trì, không sinh nghi ngờ mà bị rơi vào nẻo ác, thật không bao giờ có chuyện đó.
Chúng sinh đối với hành xứ uyên thâm của chư Phật khó có thể hiểu rõ, nếu tin tưởng không nghi ngờ thì có công đức gì? Nếu phỉ báng không tin thì có tội lỗi gì? Trước hết, Tôn giả A Nan trình bày về tội lỗi của việc không có niềm tin.
Tôn giả A Nan nói rằng: Bạch Thế Tôn! Có các chúng sinh vì không đủ niềm tin, nghe nói hành xứ rất sâu xa của chư Phật liền suy nghĩ: “Làm sao chỉ niệm một danh hiệu Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai mà lại được công đức lợi ích thù thắng như vậy?” Do đó mà nghi ngờ không tin, sau đó trở lại sinh ra các tâm niệm phỉ báng. Vì đây là cảnh giới sâu xa, vi diệu của chư Phật, ngay cả người trí tuệ uyên thâm còn phải truy tìm, mong cầu chân lý mới có được niềm tin và sự thấu hiểu, nếu người trí lực kém cỏi, không có tín tâm kiên cố sâu xa đối với Phật pháp đương nhiên rất khó có thể tin tưởng và tiếp nhận.
Đã không tin tưởng lại còn phỉ báng Phật pháp thì tội lỗi rất lớn. Cho nên nói rằng: Kẻ ấy ở trong đêm dài sinh tử mênh mông mà không được hào quang của Phật chiếu soi đến, tất cả phúc đức trí tuệ không có nơi để sinh trưởng, mất đi cái lợi ích vô cùng lớn lao, mãi mãi rơi vào trong ba nẻo ác, đắm chìm trong biển khổ mênh mông, “lưu chuyển không cùng”, và không có hy vọng ra khỏi. Kinh Bát nhã, phẩm Tán thán và hủy báng nói rằng: “Trong tất cả các công đức, tán thán kinh điển là công đức lớn nhất. Trong tất cả mọi tội lỗi, hủy báng kinh điển là tội nặng nhất”.
Tiếp theo, Đức Phật ca ngợi công đức của sự tin tưởng. Phật bảo với Tôn giả A Nan rằng: Các hữu tình này, nếu nghe danh hiệu của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai mà sinh lòng tịnh tín, rồi chí thành thụ trì nhớ nghĩ, cung kính cúng dàng, không hề sinh một mảy may nghi ngờ nào. Nếu làm được như vậy, thì nhất định không bao giờ bị rơi vào nẻo ác. Bởi vì nghe nói về danh hiệu của Đức Dược Sư Như Lai mà có thể tin tưởng, nhớ nghĩ và thụ trì, chí tâm xưng niệm thì liền được nguyện lực từ bi của Đức Phật gia hộ, được vãng sinh Tịnh độ, hoặc sinh vào cõi trời, cõi người, thế thì có lý gì mà bị rơi vào đường ác? Đó là điều không thể xảy ra.
3.1.3. Sự hy hữu của việc tin hiểu
A Nan! Đây là việc làm rất sâu xa của chư Phật, khó có thể tin hiểu. Nay con có thể tiếp nhận, phải biết đều là nhờ uy lực của Như Lai. A Nan! Tất cả Thanh văn, Độc giác và các vị Bồ tát chưa lên Thập địa, v.v. đều không thể tin hiểu như thật, chỉ trừ Bồ tát còn một đời cuối cùng là thành Phật. A Nan! Thân người khó được, tin tưởng cung kính tôn trọng Tam bảo lại càng khó, được nghe danh hiệu Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai lại càng khó hơn.
Đã nói rõ về sự tổn đức của việc phỉ báng niềm tin, giờ đúc kết lại, nếu có thể sinh niềm tin thanh tịnh đối với pháp môn Dược Sư, có thể am tường và thấu hiểu đúng như thật thì đó là điều vô cùng hy hữu. Vì vậy, Đức Thế Tôn lại nói với Tôn giả A Nan rằng: Từ phần này trở về trước là nói về công đức vô biên của Đức Dược Sư Như Lai, đó là cảnh giới của những công hạnh, trí tuệ, từ bi vô cùng uyên thâm của chư Phật, hàng chúng sinh khó có thể tin hiểu, nhưng nay con lại có thể tin tưởng và tiếp nhận, phải biết rằng đó không phải do năng lực trí tuệ của bản thân con có thể hiểu được, mà hoàn toàn là nhờ sức uy lực của Như Lai gia bị. Bởi vì, đó không chỉ là điều mà hàng phàm phu ngu si ám muội khó tin hiểu, mà ngay cả các Thanh văn và Độc giác đã giải thoát sinh tử, chứng được quả vị cao tột, cho đến các vị Bồ tát khi chưa bước lên Thập địa, vẫn trong các ngôi vị: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, v.v. cũng đều không thể tin hiểu đúng như thật.
Đăng địa Bồ tát mới được xem là vào nhà Phật pháp, chứng pháp thân của Như Lai, cũng có thể phần nào tin hiểu đúng như thật hành xứ sâu xa của chư Phật. Tin hiểu đúng như thật là niềm tin chân chính, chân thật xác đáng, thấu triệt, hiểu rõ và lĩnh hội. Giống như một bình giấm, chúng ta chỉ nghe người khác nói nó chua, tuy có thể tin nhưng không đủ tính xác đáng và chân thực, cần phải chính miệng mình nếm qua thì mới đích thực biết được nó chua thế nào. Niềm tin thông thường của chúng ta chỉ là một thứ tín ngưỡng: tin Phật, Bồ tát, chư Tổ, v.v. đều thuộc về tín ngưỡng, nghĩa là do tôn kính, ngưỡng mộ mà có niềm tin. Đối với công đức của Phật quả, hàng phàm phu tất nhiên không thể tin hiểu đúng như thật. Đến như hàng Thánh giả Nhị thừa và hàng Bồ tát trước khi lên Thập địa cũng đều chưa thể tin hiểu đúng như thật, chỉ trừ Bồ tát bổ xứ còn sinh trở lại một đời nữa là thành Phật mới có thể tin hiểu đúng như thật. Niềm tin của Tôn giả A Nan cùng với niềm tin của chúng ta đều thuộc về tín ngưỡng. Còn đối với niềm tin như thật chân chính, là do bản thân phải tự thể nhập, chứng ngộ, điều này quả thật chẳng phải dễ dàng gì.
Đức Thế Tôn đem sự tin hiểu như thật vô cùng khó khăn ấy chia làm thứ lớp để trình bày cho chúng sinh dễ dàng thâm nhập: Trong vòng sinh tử luân hồi, sinh làm thân người là việc rất “khó được”. Được thân người rồi, phát khởi niềm tin, sinh lòng cung kính, tôn trọng đối với Tam bảo là việc lại “càng khó hơn”. Gần tám tỷ con người trên thế giới này, thử hỏi những người tin tưởng và cung kính Tam bảo có được bao nhiêu? Đây tuy là một trong những việc khó khăn, nhưng vẫn không bằng cái khó của việc nghe Đức Dược Sư Như Lai thuyết pháp mà tin hiểu đúng như thật, cho nên nói rằng: “Được nghe danh hiệu Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai lại càng khó hơn”. Việc này có ba tầng bậc: Một là thân người khó được; hai là tin tưởng và cung kính Tam bảo càng khó được; ba là nghe danh hiệu Đức Phật Dược Sư lại càng khó khăn hơn. Vì sao Đức Thế Tôn lại nói rằng việc nghe danh hiệu Đức Phật Dược Sư là khó khăn nhất? Nên biết đối với quả đức của Phật, khó tin mà có thể tin, khó hiểu mà có thể hiểu, rồi lại trình bày sự tin hiểu ấy, như thế để thấy rõ công đức của việc đạt được điều này lớn lao như thế nào!
3.2. Công đức vô tận
A Nan! Vô lượng công hạnh Bồ tát, vô lượng phương tiện khéo léo, vô lượng thệ nguyện rộng lớn của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ấy, nếu Ta trong một kiếp hoặc hơn một kiếp nói rộng về việc đó, thì kiếp có thể hết, nhưng hạnh nguyện, phương tiện khéo léo của Đức Phật ấy không có cùng tận”.
Đức hạnh của Phật khó thể nghĩ lường cho nên khó tin hiểu được, mà công đức vô tận cũng khó nói hết. Bởi vì công đức của Phật là vô cùng vô tận nên khó tin hiểu, do khó tin khó hiểu nên tỏ rõ rằng công đức của Phật vô cùng vô tận.
Vì sao Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ấy có công đức to lớn như vậy, lại khiến cho chúng sinh nghe danh hiệu của Ngài thì tất cả tai ương nạn ách đều tiêu trừ, tất cả lòng mong cầu đều được mãn nguyện? Bởi vì trong Nhân địa Bồ tát ở quá khứ, Ngài tu vô lượng Bồ tát hạnh, phát vô lượng thệ nguyện rộng lớn, cho nên sau khi thành Phật liền có vô lượng phương tiện khéo léo, từ bi cứu độ tất cả chúng sinh, khiến họ xa lìa khổ não, được sự yên vui.
Không những phương tiện khéo léo của Phật quả vô lượng vô biên khó thể nói hết, mà hạnh nguyện rộng lớn khi còn ở Nhân địa Bồ tát cũng khó nói cho cùng. Cho nên, Đức Thế Tôn bảo rằng: Nếu Ta trong khoảng thời gian một kiếp hoặc hơn một kiếp nói rộng về vô lượng hạnh nguyện và phương tiện khéo léo của Đức Dược Sư Như Lai, thì cũng nói không thể hết. Bởi lẽ, thời gian của kiếp số tuy dài, nhưng chung cuộc cũng có hạn. Trong khi “hạnh nguyện” rộng lớn và phương tiện khéo léo của Đức Phật Dược Sư ấy lại không cùng tận, bởi vậy nói thế nào cũng không hết. Việc này tỏ rõ rằng, nhân hạnh và quả đức của Đức Dược Sư Như Lai rộng lớn vô tận.