Gần năm mươi năm đắm chìm nơi “chín suối”, bà Nguyễn Thị Kền đâu có ngờ nỗi oan “trần thế” của bà lại có ngày được người đời gột rửa. Chiến công lặng lẽ của bà ngày ấy chìm vào năm tháng và bị xóa sạch trong cái chết ê chề, nhục nhã, cái chết của một “con điếm” khi ấy người ta nhìn bà như vậy. Để rồi suốt hơn 30 năm, đứa con trai độc nhất của bà là Nguyễn Gia Thắng cùng người cha của mình là Nguyễn Gia Trung đã lặn lội, lần tìm chứng cứ để cứu mình và cứu “vong linh” cho người mẹ của mình.
Gần ba năm gặp bảy nhân chứng tản mát ở bốn tỉnh, người thì trực tiếp kể, người viết ra giấy, tôi quay về xã Hồng Thái, thắp một nén hương lên mộ bà, rồi đêm ngày viết lại những chiến công thầm lặng đến nghiệt ngã mà bà Nguyễn Thị Kền đã từng trải qua.
Giữa năm 1941, tên Ta-lông - phó mật thám Thái Bình đánh hơi thấy phong trào cách mạng nổi lên ở Hồng Thái, Kiến Xương. Hắn vội vã cùng 5 tên tay sai phóng về vây bắt với ý định “giết nhầm còn hơn bỏ sót”. Nhiều người tham gia hoạt động cách mạng ở vùng này bị chúng bắt được. Chúng tra khảo đánh đập đến tàn phế. Ta-lông - tên mật thám người Pháp đầu hói, mắt xanh, hám sắc và nổi tiếng gian xảo. Hắn ứng xử cứng rắn, kiên quyết, nhưng đã “mềm lòng” khi gặp Nguyễn Thị Kền.
Năm ấy, Kền 18 tuổi, đẹp nhất làng Thượng Gia. Cô có khuôn mặt trái xoan, da trắng, đôi mắt bồ câu trong veo và mái tóc óng mượt làm tên Ta-lông sững sờ khi hắn bất chợt gặp Kền. Bấy giờ thôn Thượng Gia thành lập Hội hiếu. Hội hiếu chính là tổ chức cách mạng đầu tiên của xã Hồng Thái do ông Tổng Tỵ phụ trách. Nguyễn Thị Kền là một thành viên tham gia hoạt động trong tổ chức này. Ngày cuối cùng bọn mật thám vây ráp tìm tổ chức cách mạng của ta, chúng xộc vào nhà bà Phạm Thị Ộp, mẹ đẻ của Kền lục soát, khám xét. Vừa mở cổng bước vào sân, trông thấy Kền, tên Ta-lông hoa mắt. Thần sắc của Kền dường như đã thu hết hồn vía của hắn, làm hắn đờ đẫn. Tỉnh lại sau cơn mê mẩn, Ta-lông nảy ra ý đồ chiếm đoạt trái tim cô gái xinh đẹp làng Thượng Gia. Kền chống cự quyết liệt, nhưng hắn đâu có buông tha. Bằng mọi thủ đoạn, tên Ta-lông quyết biến cô thành vợ của hắn.
Những người bị bắt ở Hồng Thái khi ấy, có một số là chú bác, anh em của Kền, như ông Nguyễn Văn Đát, ông Nguyễn Văn Khoát, bà Nguyễn Thị Nga... Một số người trong Hội hiếu rỉ tai bà Ộp: “Cô Kền không lấy thằng Ta-lông chắc là không xong với nó. Hay là ta dùng “mĩ nhân kế” bà ạ, bà khuyên cô Kền cứ chiều ý nó. Về ở với nó, có thể có điều kiện để hoạt động, biết đâu lại cứu được anh em nhà mình, cứu được những người trong làng, trong xã bị chúng nó bắt”. Bà Ộp mẹ Kền đau lòng lẳng lặng ngồi nghe. Bà nghĩ cũng không còn cách nào khác. Hôm sau, bà nói với Kền: “Phí đời mình để cứu mọi người, cứu các chú, các bác trong họ tộc là một việc nhân nghĩa con ạ. Nhưng mẹ không muốn để đời con rơi vào tay một thằng cướp nước. Việc này là tùy ở con thôi”.
Đứng giữa hai con đường, Kền biết chọn đường nào đây? Hy sinh một đời con gái để cứu người và cứu mẹ đang bị tên Ta-lông hăm dọa sẽ giết nếu không gả con gái cho nó. Hay là... Trong những ngày tham gia hoạt động cách mạng, đức tính hy sinh và lòng nhân nghĩa đã nhen nhóm trong lòng Kền và đã cảm hóa cô. Cùng với sức ép của bọn mật thám, cuối cùng Nguyễn Thị Kền đã chấp nhận làm vợ tên giặc người Pháp hám sắc độc ác ấy.
Lên thị xã Thái Bình sống với tên Ta-lông trong nhung lụa, vốn đã được tạo hóa ban cho nhan sắc hơn người, Kền lại càng trở nên xinh đẹp hơn. Cô làm tóc phi dê, học nói tiếng Pháp và vận đồ Tây làm Ta-lông càng thêm mê đắm. Nhưng dân làng và mọi người chung quanh thì nhìn Kền bằng con mắt khinh bỉ. Họ coi cô là “đĩ điếm”, là loại theo giặc, phản bội... Họ có hiểu nỗi u sầu, trầm uất trong lòng Kền đâu. Những ngày làm vợ Ta-lông, cô luôn luôn tìm cách giải thoát, cứu giúp mọi người, nhất là những người ở trong tù.
Ông Nguyễn Bền, người cùng xã, khác thôn, sau này công tác ở Thành ủy Hải Phòng, kể:
- Tôi và một số cán bộ hoạt động bị bắt, chúng đưa về nhà giam Thái Bình. Cô Kền bấy giờ là vợ tên mật thám, lấy cớ là chỗ họ hàng và bà con cùng xóm thường vào thăm chúng tôi. Mỗi lần vào cô đều mang thuốc men, đồ ăn uống và đưa tin tức từ bên ngoài vào cho chúng tôi biết. Cô dặn chúng tôi đừng khai báo gì. Cô xin bọn coi tù cho chúng tôi chuyển sang phòng giam tốt hơn. Nhờ cô, mọi người ít khi bị tra tấn, đánh đập!
Ông Vũ Kiều, người cùng làng Thượng Cát với Kền kể:
- Một hôm Kền vào thăm trại giam, cùng đi với tên quan hai. Nhân lúc vắng chồng cô, tên quan hai trêu ghẹo, véo vào má cô Kền. Cô vung tay tát vào mặt nó. Chẳng biết tức giận, hay xấu hổ, nó bỏ ra ngoài. Nhân lúc ấy, cô Kền đánh cắp mẫu chìa khóa nhà giam, đưa ra cho ông Triệu Cung đánh lại. Nhờ có chìa khóa, một đêm, người của ta lọt vào, mở cửa nhà giam, nhiều cán bộ cách mạng đã trốn thoát, trong đó có tôi...
Sau sự kiện ấy, bọn mật thám tức tối, lồng lộn tìm thủ phạm. Tên Ta-lông nghi ngờ Kền là chủ mưu. Sau này Kền nói lại với mẹ cô: Lúc ấy, hai mắt hắn vần vũ những tia máu đỏ, giận dữ, quát nạt: “Chắc phải có bàn tay của cô, bọn chúng mới tẩu thoát được chứ?”. Kền từ chối, và thấy mình không còn lý do ở lại chung sống với tên mật thám gian xảo này. Một đêm, nhân lúc trời nổi cơn giông, sấm chớp ùng oàng, mưa như trút nước, Nguyễn Thị Kền trốn khỏi nhà, đội mưa, đội gió ra đi. Lúc đầu, chẳng biết về đâu, đi đâu, nhưng cuối cùng, Kền đã lang bạt ra đất Kiến An. Từ vợ một quan Tây, cô trở thành người hành khất, lang thang nay đây mai đó. Đầu năm 1943, Kền về Hà Nội ở nhờ một gia đình ở phố Trạng Trình. Và mối tình duyên của cô bắt đầu từ đây.
Tôi gặp ông Nguyễn Gia Trung ở xã An Tường, Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Ông là người chồng thứ hai của bà Nguyễn Thị Kền. Đau đớn trước số phận trớ trêu, phũ phàng của người vợ quá cố, ông bùi ngùi kể lại, cuối năm 1943, ông là học sinh trường Thăng Long, Hà Nội, tham gia hoạt động trong tổ chức thanh niên dân chủ, sau là tổ chức thanh niên phản đế. Trước đó (1936-1939), ông làm liên lạc cho bác Võ Nguyên Giáp. Cùng hoạt động với ông ngày đó có bác sĩ Phùng Ngọc Tuệ, cư trú số 18, Phan Bội Châu, Hà Nội. Một hôm, tình cờ ông gặp Kền đến chữa bệnh tại nhà bác sĩ Tuệ. Khuôn mặt trái xoan với nước da hơi xanh, nhưng ánh mắt thông minh đầy quyến rũ của cô đã làm xao xuyến trái tim ông. Còn Kền, khi tiếp xúc với người thanh niên cao dong dỏng, đẹp trai, tính tình hiền dịu lại thiện cảm với mình, cô bồi hồi xúc động và đem lòng yêu ông. Nhưng khi ông gợi đến chuyện cưới xin, thì Kền lắc đầu, từ chối, vẻ mặt buồn rười rượi như có điều gì u uẩn. Cô bảo:
- Kền chỉ yêu anh thôi, chứ Kền không làm vợ anh được đâu.
Ông Trung ngạc nhiên hỏi:
- Vì sao không làm được vợ anh?
- Kền không xứng đáng.
Ông cầm tay Kền dịu dàng kéo vào lòng và bảo:
- Không! Em sẽ là vợ anh. Em rất xứng đáng.
Kền gỡ khỏi tay ông nói:
- Không được! Em đã... đã có một đời chồng rồi.
Ông Trung bàng hoàng khi nhận được sự thật đau đớn ấy. Ông không tin người con gái mà ông chọn để nương tựa cả đời đã qua một người đàn ông. Người đàn ông ấy lại là một tên mật thám ngoại bang đi cướp nước. Sự thật dẫu phũ phàng đến đâu cũng vẫn là sự thật. Kền chân tình kể lại cuộc tình duyên bất đắc dĩ và những ngày phiêu bạt sau cuộc tình ấy của đời cô. Nghe Kền nói, ông Trung vừa giận lại vừa thương. Giận đời sao lại nỡ tước đi người con gái trinh trắng mà ông hy vọng, mê say đến mềm lòng. Nhưng rồi sự hy sinh cao cả của Kền vì nhiệm vụ, vì muốn cứu người và vì sự bức ép dần dần làm cơn đau lòng ông dịu lại. Sắc đẹp, tâm hồn và tình yêu của người con gái sớm giác ngộ cách mạng đã đồng cảm ông. Ông bảo, thế là tình yêu, tình đồng chí đã chiến thắng, đã giúp ông vượt qua tất thảy. Ông càng thương Kền và quyết không để cô tuột khỏi cuộc đời ông. Từ đó ông và Kền nên chồng, nên vợ.
Tháng 2 năm 1947, vợ ông sinh con đầu lòng, đặt tên là Nguyễn Gia Thắng. Nuôi con nhỏ, nhưng Kền vẫn tận tình giúp ông hoàn thành tốt công tác. Khi đó ông là Đội trưởng Đội tự vệ phố Trạng Trình, nay là phố Liên Từ, Hà Nội. Năm sau, người mẹ vợ ở xã Hồng Thái bị bệnh, không người chăm nom, vợ chồng ông đành phải bồng bế nhau về quê ngoại thuốc men, phụng dưỡng mẹ già. Gần sáu năm xa nhà, về quê, Kền biết tin tên mật thám Ta-lông, người chồng ép buộc đã biến khỏi đất Thái Bình và phong trào cách mạng ở địa phương được khôi phục, đang phát triển mạnh. Kền và chồng tiếp tục tham gia hoạt động trong tổ chức thanh niên ở địa phương. Ông Trung trực tiếp dạy các lớp bình dân học vụ. Trở về đất Thượng Gia quê mẹ, cuộc đời Nguyễn Thị Kền chuyển sang một bước ngoặt mới. Bước ngoặt bằng những công việc đầy mạo hiểm của người điệp báo viên. Đây là những năm tháng bi hùng nhất của Kền, những năm tháng gắn liền bao chiến công âm thầm lặng lẽ, nhưng người đời lầm tưởng lại oán hờn, lăng nhục, phỉ báng cô.
Bốn mươi tư năm sau, năm 1992, chồng con bà Kền và tôi mới tìm gặp được ông Đặng Ngọc Ry - nguyên cán bộ điệp báo phản gián Ty Công an Thái Bình, người trực tiếp giao nhiệm vụ cho Nguyễn Thị Kền năm 1948. Ông còn có bí danh là Lê Quân. Từ một cán bộ điệp báo phản gián, năm 1954, ông chuyển sang quân đội. Vào Nam ra Bắc, chinh chiến gần trọn cuộc đời, nay ông đã thành một ông già ngoài bảy mươi, cư trú tại thị trấn Nghĩa Đô, Từ Liêm, Hà Nội. Ông kể:
- Trong chuyến biệt phái về điều tra vụ án ông Đoàn Diễn - Chủ tịch lâm thời xã Quốc Tuấn bị ám sát và vụ phản động trong Mặt trận Dân chủ liên hiệp ở Kiến Xương, tôi có dịp ghé thăm gia đình cô Kền, chỗ quen biết cũ. Cô có một thời bị ép lấy Tây, nói thạo tiếng Pháp, nhất là sự quảng giao trước kia của cô rất thuận lợi cho việc thâm nhập vào giới thượng lưu sau này. Mặc dù đã có con nhưng nhan sắc của cô vẫn “nghiêng nước, nghiêng thành”. Tôi nảy ý nghĩ, nếu có cơ hội cài được những “mĩ nhân” như cô Kền vào hàng ngũ của địch thì rất có lợi cho việc hoạt động của ta. Tôi cho rằng cô Kền có nhiều khả năng phù hợp với yêu cầu công tác phản gián và điệp báo. Tôi đã báo cáo với tổ chức của bộ phận sử dụng và giao nhiệm vụ cho Nguyễn Thị Kền.
Ông Đặng Ngọc Ry ngừng lời, ngẩng nhìn ra khoảng sân đang rả rích mưa, vẻ mặt chau lại như cố nhớ những năm tháng xa xưa. Ông nói tiếp:
- Công việc chúng tôi giao cho cô Kền là theo dõi, tìm ra mối quan hệ của một số phần tử nghi vấn là Việt Nam quốc dân Đảng lẩn khuất ở địa phương; đi sâu thâm nhập vào những gia đình tư sản, địa chủ, các giới chức quan lại cũ. Cô tỏ ra một người có bản lĩnh, tháo vát và nắm vững chắc các đối tượng này. Nhờ khéo giao thiệp và thạo tiếng Pháp, Nguyễn Thị Kền đã làm quen được với con gái Tuần phủ Vũ Tuân là Vũ Nguyệt Nga, cùng mẹ đẻ của cô ta sơ tán về thôn Luật Nội. Nga có chồng là Lương Môn, làm tri phủ, tay sai cho Pháp ở Hà Nội. Từ mối quen biết này, Nguyễn Thị Kền nắm được âm mưu hoạt động và đường dây liên lạc của bọn phản động đội lốt công giáo, tiêu biểu là tên cha cố Lê Xuân Oánh nhà thờ Sa Cát, tổng tuyên úy của giáo hội công giáo lúc bấy giờ.
Ông Đặng Ngọc Ry nói tiếp:
- Cuối năm 1949, chúng thành lập vệ sĩ vũ trang ở một số nhà thờ. Việc triệt phá các tổ chức phản động hết sức khó khăn. Trần Quốc Hưng là một tên cha cố lợi hại, là liên tỉnh đảng trưởng của xã hội công giáo được Lê Hữu Từ trực tiếp giao nhiệm vụ hoạt động chống phá cách mạng ở hai tỉnh Thái Bình, Hưng Yên. Chúng tôi được lệnh bí mật vây hắn ở nhà thờ Dương Cước để bắt sống. Kền được cử đến tìm cách tiếp cận, “tình tự” với tên Hưng. Cô đã dũng cảm làm “bình phong” cho lực lượng của ta đột nhập vào nhà thờ tóm được hắn.
Tháng 2 năm 1950, giặc Pháp tràn về Thái Bình. Chúng phong tỏa các đường giao thông huyết mạch, xây dựng đồn bốt khắp nơi, lập tề, lập các đội tự vệ vũ trang trong một số nhà thờ xứ đạo. Bọn Việt gian, phản động được Pháp nâng đỡ, ngóc đầu dậy, ra sức chống đối cách mạng. Công tác triệt phá âm mưu thủ đoạn của địch đối với ngành công an khi ấy hết sức căng thẳng. Lực lượng điệp báo, phản gián công an tỉnh phải chia làm nhiều mũi, hầu hết hoạt động đơn lẻ, đơn tuyến.
Trong buổi chia tay Nguyễn Thị Kền, ngoài Đặng Ngọc Ry còn có Nguyễn Hữu Ru, bấy giờ là Trưởng ban Chính trị công an, phụ trách phía nam Thái Bình. Đặng Ngọc Ry căn dặn:
- Trong những thời gian qua, cô đã hoàn thành tốt công việc của người điệp báo. Nay chiến tranh vào thời điểm quyết liệt, bọn phản động ráo riết chống phá lực lượng của ta. Việc hoạt động độc lập đòi hỏi không chỉ có lòng dũng cảm, mà phải hết sức thận trọng, khôn khéo và tuyệt đối đảm bảo bí mật. Do yêu cầu, tôi phải chuyển lên phụ trách các huyện phía bắc. Người chỉ huy cấp trên của cô bây giờ là đồng chí Ru đây! - Ông vừa nói vừa chỉ tay vào Nguyễn Hữu Ru và bảo - Có gì khó khăn phải tìm cách liên hệ với đồng chí Ru - Công việc này rồi đây sẽ khốc liệt, khó khăn lắm Kền ạ. Phải biết nhẫn nhục chịu đựng mới có thể vượt qua được.
Nguyễn Thị Kền mỉm cười, nói giọng vui đùa, nhưng kiên quyết:
- Khó như việc ép phải sống chung với tên mật thám tôi còn chịu nổi. Các anh cứ yên tâm đi.
Cả ba người cùng mỉm cười, rồi chia tay nhau. Kền tiếp tục công việc của người điệp báo. Giữa những ngày hoạt động căng thẳng, nguy hiểm, thì cũng là những ngày Kền vĩnh viễn xa người chồng thương yêu nhất của cô.
Trò chuyện cùng tôi, ông Nguyễn Gia Trung tâm sự:
- Sau khi liên lạc được với cơ sở cũ, tôi được tổ chức điều lên công tác tại Chiến khu Việt Bắc và sau đó được đề bạt làm Trưởng ty Thú ngư tỉnh Bắc Kạn (nay là Ty Nông lâm). Lúc ấy, vì nhiệm vụ tôi đành phải xa vợ con, xa cách trong hoàn cảnh nhà tôi một nách con nhỏ, một bên mẹ già, lại công việc hết sức nguy hiểm. Công việc chỉ sơ sẩy một tí là có thể chết cả nhà. Một buổi tối, hôm tôi sắp lên đường, Kền khẽ nói với tôi:
- Chúng lập bốt Xuân Cước ngay ở quê mình. Công việc của em rồi đây có thể thường xuyên ra vào bốt, làm quen với bọn chúng để nắm tình hình. Dân làng chẳng ai thông cảm và hiểu cho em. Thực ra nếu họ hiểu thì cũng chẳng làm gì được. Anh đi xa, sau này về, có điều tiếng gì, mong anh hiểu và đừng trách em nhé.
Nghe Kền nói, thương quá, tôi bảo:
- Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, thì sao anh nỡ trách em. Anh chỉ mong em giữ gìn sức khoẻ và nuôi con giúp anh trong những ngày anh đi vắng.
Nhà tôi ôm chặt lấy tôi, nức nở khóc. Để yên cho khóc một lúc, tôi khẽ gọi:
- Kền ơi!
Nhà tôi ngẩng đầu lên nhìn vẻ ngạc nhiên lắm. Vì hầu như từ ngày ở bên nhau, tôi chỉ quen gọi là mình, là em, chẳng mấy khi kêu tên tục. Tôi bảo:
- Anh có linh cảm dấn thân vào hang hùm, ổ sói, em sẽ có thể bị chúng nó hại. Vì em đẹp lắm. Phải hết sức cẩn thận nghe Kền.
Nhà tôi gật đầu, hai bàn tay nhỏ nhắn, run run đặt lên vai tôi rất tình cảm. Hai mắt Kền đỏ hoe, lúc này chằm chằm nhìn tôi vẻ mãn nguyện lắm. Không ngờ lần ấy lại là lần cuối cùng chúng tôi được hạnh phúc bên nhau. Đời tôi không bao giờ còn được những phút giây đằm thắm, yêu thương như thế nữa!
Ông Nguyễn Văn Lưới, ông Mai Văn Bi - du kích thôn Thượng Gia, Hồng Thái những năm kháng Pháp, cùng một số bà con dân làng đã từng chứng kiến cuộc sống hư thực, huyền ảo của Nguyễn Thị Kền và những ngày bi thương cuối cùng của cô ở bốt Xuân Cước. Qua các nhân chứng này, tôi được biết:
Khi giặc Pháp tràn về đất Hồng Thái, chúng đã xây dựng một hệ thống đồn bốt khá kiên cố ở đầu làng Xuân Cước để chế ngự kiểm soát vùng đất phía nam của huyện Kiến Xương. Chung quanh bốt chúng rào thép gai dày dít và lính canh nghiêm ngặt suốt ngày đêm. Vậy mà vẫn có người con gái của làng Thượng Gia thường xuyên ra vào bốt Xuân Cước. Người con gái ấy là Nguyễn Thị Kền. Kền lên tỉnh, lên huyện, vào đồn, về nhà, làm gì, nghĩ gì, ai mà biết được. Người ta chỉ nhớ những điều đồn đại xấu xa, người này truyền qua người khác. Giữa một làng quê hẻo lánh, có một cô gái phong cách giao thiệp kiểu Tây, đầu phi dê, môi son, má phấn, nói tiếng Pháp như gió. Các cụ trong làng thì chướng tai gai mắt, còn lính tráng, quan đồn Xuân Cước thì lại thích thú, mê nể. Khi có quan Tây về bốt, chúng đến tận nhà, đón Kền vào nhảy đầm, đàn hát mua vui suốt đêm. Dưới con mắt của dân làng ngày ấy, Kền là một con đàng điếm, con Việt gian, con bỉ ổi... Có người ca cẩm:
- Con Kền nó làm ô uế gái làng Thượng Gia, thật là nhục quá!
Có người gặp bà Phạm Thị Ộp, mẹ đẻ của Kền khuyên:
- Trước ngày cô ấy ăn ngủ với Tây chúng tôi không ngăn. Nhưng nay đã có chồng rồi. Chồng vừa đi vắng đã nhăng nhít, nhảy nhót với bọn quan đồn. Là mẹ, bà phải bảo cô ấy chứ. Sống vậy dân làng đâu phải chỉ khinh bỉ cô ấy, người ta khinh bỉ cả bà đấy.
Bà Ộp chỉ còn biết thở dài:
- Sinh con ai nỡ sinh lòng. Tính tình nó thế, tôi có dạy cháu đâu.
Một vài người rỉ tai với đội du kích:
- Cô ta đã làm vợ Tây, giờ lại ăn chơi đàng điếm với bọn lính dõng, quan đồn. Thông đồng với địch, thì có khác nào là địch. Sao các anh không trị cho nó một trận.
Lại có người can:
- Đừng trị cô ấy phải tội đấy. Tiếng là thế, nhưng cô ấy đã hại ai bao giờ. Hồi mấy ông ở thôn này bị giam, không có cô ấy thì rũ xương ra rồi.
Tháng 2 năm 1951, bọn địch trong bốt Xuân Cước mở nhiều cuộc bao vây hòng tiêu diệt lực lượng du kích và cán bộ cách mạng của ta, nhưng hầu hết các đợt càn quét của chúng đều bị quân ta mai phục tiêu diệt. Một số kế hoạch tác chiến của chúng như di chuyển lực lượng, tăng cường bọn dân vệ phòng nhì, thay đổi phương cách đối phó... hầu hết bị lộ và phải trả giá. Du kích Hồng Thái liên tiếp mở các đợt tiến công làm cho địch trong đồn ngày càng hoang mang, khiếp sợ. Khi ấy chỉ có một người duy nhất là Nguyễn Hữu Ru hiểu được những chiến công đánh bốt Xuân Cước và các vùng lân cận có một phần đóng góp của người điệp báo viên Nguyễn Thị Kền. Nhưng ông không được phép tiết lộ với ai. Rồi sau đó ông được lệnh chuyển đi nơi khác.
Hàng ngũ địch trong bốt Xuân Cước lục đục, nghi kị lẫn nhau. Tên quan ba đồn trưởng sau lần gặp Kền, hắn mê đắm như người mất vía. Hắn vuốt ve chiều chộng, thuyết phục cô làm vợ bé. Kền từ chối, nhưng vẫn khéo léo tranh thủ tình cảm của hắn và cố giữ khoảng cách “Gần bùn để chẳng hôi tanh mùi bùn”. Dưới trướng tên quan ba có lão Tốn, quan một, thường gọi là một Tốn và tên sếp Vấn là hai tên tay sai khét tiếng bắt đầu tình nghi Kền có liên quan đến những vụ “thất điên bát đảo” của chúng. Hai tên này bí mật theo dõi tên quan ba và bám sát mọi hành vi, cử chỉ của Kền. Nó lén lút tâu với quan trên và giăng bẫy cài chân tay ở khắp mọi nơi.
Làng Thượng Gia ngày ấy có một người đàn ông mặt choắt, mắt lươn là Đoàn Văn Xê được tên một Tốn rất tin tưởng. Xê cùng xóm với Nguyễn Thị Kền và luôn luôn “để ý” đến cô. Trong lúc mọi người đồn đại, ráy rủa Kền, Xê chỉ lặng thinh. Rồi một đêm, Đoàn Văn Xê lẻn vào bốt Xuân Cước. Chẳng biết tên chỉ điểm Xê nói gì, ngay sáng hôm sau, tức ngày 24 tháng 7 năm 1951, bọn địch tức tốc kéo vào thôn Thượng Gia bắt trói Nguyễn Thị Kền, đưa vào đồn tra khảo và sau đó đánh chết. Cái chết tàn khốc, đau đớn và mờ ám của Kền trong bốt Xuân Cước bị người ta dị nghị, lan truyền ra ngoài một cách ê chề, nhục nhã. Nào là bọn dâm loạn hám sắc ghen nhau giết Kền. Nào là theo địch, ăn đẫy của Tây nên chúng hãm hại... Có người độc miệng bảo: Chết thế mới đáng kiếp con Việt gian, con đàng điếm...
Khi mẹ chết, Nguyễn Gia Thắng mới lên 5 tuổi, sống vất vưởng bên người bà ngoại già yếu. Thắng cùng bà đã từng bị đánh đập rất dã man ở bốt Xuân Cước trong cái đêm mẹ anh quằn quại, tuyệt vọng. Lúc ấy, anh và bà anh cứu mình chưa nổi, sao cứu được mẹ. Bà anh bảo thế.
Thắng xúc động kể lại với tôi về cuộc đời chìm nổi của anh sau những ngày mẹ anh qua đời. Anh nói:
- Bị địch tra tấn, sức khoẻ ngày càng yếu, sau đó bà tôi ốm, rồi chết. Bố tôi về đón tôi ra đi sống với bố và người mẹ kế ở một vùng rừng núi An Tường, Tiên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.
Thắng có dáng người nhỏ nhắn, thông minh và học giỏi. Năm 1968, anh thi vào Đại học Bách khoa thừa điểm đi học nước ngoài. Nhưng thật không may, lý lịch của Thắng khi ấy lại là một vấn đề hết sức nan giải, phức tạp. Thắng và ông Nguyễn Gia Trung - bố anh trở về quê ngoại sau 20 năm mẹ anh qua đời. Thực hư, hư thực về cái chết và cuộc đời “mờ khuất” của mẹ Thắng vẫn còn dư âm. Một số người trong làng, trong xã vẫn còn nặng nề, ấn tượng, nghi hoặc mẹ anh theo giặc bị chúng đánh chết trong đồn Xuân Cước. Công việc lặng lẽ của bà có mấy ai hay. Người giao nhiệm vụ cho bà ngày ấy không phải là người địa phương và sau đó họ đi tam phương, tứ hướng, biết ở đâu mà lần tìm. Cuối cùng, bản lý lịch của Nguyễn Gia Thắng được chứng thực là “mẹ có liên quan đến những phần tử không rõ ràng”. Lý lịch không rõ ràng, anh không đủ điều kiện đi du học nước ngoài năm ấy. Chấp nhận số phận không may với mình, nhưng Thắng vẫn tin ở lời bố, lời bà kể khi bà còn sống. Mẹ anh là người làm việc cho cách mạng, là một người tốt. Thắng quyết hướng cuộc đời mình theo tấm gương của mẹ. Anh bảo, anh luôn cố gắng để làm một điều gì đó xứng đáng với mẹ anh. Học hết năm thứ nhất Đại học Bách khoa, Thắng tình nguyện vào bộ đội lên đường đi đánh Mỹ. Sáu năm ở chiến trường, anh đã dũng cảm chiến đấu, được tặng thưởng Huân chương Chiến công. Nhưng, anh đâu có thuận buồm, xuôi gió. Anh được tổ chức cho làm thủ tục kết nạp Đảng. Phiền nỗi, lý lịch không rõ ràng, mấy lần chi bộ xét, đều không đủ tiêu chuẩn. Bố anh, ông Nguyễn Gia Trung cuối năm 1951 đã làm tới chức Trưởng ty của một tỉnh. Cũng vì lý lịch vợ “mờ ám” và lời đồn oan ác, làm con đường công danh của ông cũng chững lại. Bố Thắng bảo: có lần ông nằm mơ thấy mẹ anh về. Bà vận quần trắng, áo trắng, đầu chít khăn trắng, đứng ở giữa nhà vừa khóc, vừa nói: “Vì tôi mà ông và con chúng mình khổ sở. Nhưng ông trời đã có mắt, nhất định sẽ có ngày sáng tỏ ông ạ”. Thắng bảo: Tâm linh của mẹ anh cũng tin ở ngày mai, vì thế anh cũng rất tin ở ngày mai. Không được đứng trong hàng ngũ của Đảng, Thắng vẫn làm việc hết mình và sống như một đảng viên tốt. Hoàn thành nhiệm vụ của người chiến sĩ quân đội, anh trở về trường tiếp tục học tập và đã tốt nghiệp đại học với tấm bằng loại Giỏi. Chính niềm tin đã giúp anh thêm lòng kiên nại. Kiên nại trong học tập, trong công tác, kiên nại trong cuộc hành trình tìm chân lý cho cuộc đời thực của mẹ anh.
Ngay từ tháng 8 năm 1964, khi Thắng mười tám tuổi, anh đã cùng bố làm đơn đề nghị các cơ quan chính sách xem xét và minh oan cho mẹ. Thắng dắt người bố già ốm yếu đi khắp đây cùng đó tìm người giao nhiệm vụ cho mẹ anh mà ông còn láng máng nhớ, nhưng hồi ấy đang có chiến tranh nên không tìm đủ được các nhân chứng. Mãi tới khi Thắng vào tuổi xấp xỉ năm mươi, những “mờ khuất” về cuộc đời mẹ anh mới sáng rõ. Thắng được kết nạp, trở thành người đảng viên Cộng sản. Chỉ tiếc khi bản lý lịch trong sạch, đủ tiêu chuẩn đi du học ngoại quốc thì tuổi anh đã cao rồi. Thắng tâm sự, đấy không phải là nguyện ước chính của anh. Có điều còn lớn hơn nhiều, đó là tấm lòng trong sáng của mẹ anh đã được trả lại. Anh cảm ơn những người du kích bị bắt vào bốt Xuân Cước ngày 24 tháng 7 năm 1951. Qua họ, Thắng mới hiểu rõ thực chất cái chết thảm khốc đau thương của mẹ anh như thế nào và nghị lực phi thường của mẹ ngày ấy ra sao.
Chiều 24 tháng 7 năm 1951, địch trói hai tay Nguyễn Thị Kền treo lên xà nhà, hai chân buông thõng. Tên một Tốn và tên sếp Vấn dùng lưỡi dao bầu vừa róc các kẽ tay của Kền vừa quát: “Mày vào đồn làm tình, hay làm Việt Minh? Khai đi, nếu không tao sẽ róc hết các ngón tay của mày”. Mặc lưỡi dao cắt vào bàn tay, cô không trả lời mà chỉ thét lên, toàn thân co rúm lại. Tên sếp Vấn lần lượt dùng dao cứa tám kẽ tay của Kền. Máu từ hai bàn tay túa ra, theo hai cánh tay chảy xuống bả vai, xuống bụng, xuống đùi, xuống hai bàn chân, nhỏ tong tong xuống đất. Cô đau đớn vùng vẫy, giãy giụa, máu vảy vào đầy quần áo tên sếp Vấn. Đến khi cô ngất xỉu, cổ ngoẹo xuống, tên một Tốn mới sai lính cởi trói cho Kền.
Ông Nguyễn Văn Lưới kể:
- Tôi và anh Nguyễn Văn Ánh cùng một số du kích thôn Thượng Gia bị chúng bắt vào bốt Xuân Cước. Khi cô Kền tỉnh lại, tên một Tốn lôi cô đến trước mặt chúng tôi và bảo: “Chúng mày không khai báo, tao sẽ róc thịt như con Việt Minh này”. Chúng tôi cho rằng chúng bắt nhầm cô Kền vì cô hay vào bốt, rồi vu khống là Việt Minh để dọa chúng tôi. Chứ khi ấy chúng tôi đâu có biết cô là Việt Minh. Chỉ thấy cô quá đau đớn mà vẫn cam chịu.
Ông Lưới bùi ngùi nói tiếp:
- Chúng bắt chúng tôi đứng im, xem chúng tra khảo cô Kền để uy hiếp tinh thần chúng tôi. Được chứng kiến tận mắt tên một Tốn tra tấn tàn ác suốt một giờ đồng hồ bằng đủ hình thức hết sức man rợ, tôi nghĩ hay cô là Việt Minh? Chỉ có Việt Minh mới chịu được như thế? Nhìn cô quằn quại, chúng tôi không cầm nổi nước mắt. Thấy chúng tôi dụi mắt thương cô, tên một Tốn trợn trừng quát: “Chúng mày ngoan cố, cũng phải chết như con này”. Dọa chúng tôi, đánh cô Kền, nhưng chúng vẫn chẳng moi được điều gì. Chúng tôi ra hiệu cho nhau quyết không khai. Cô Kền vẫn nằm trơ không nói, cam chịu đau đớn.
Ngày hôm sau, không rõ vì mối nghi ngờ nào, bọn địch trong đồn Xuân Cước hầm hầm kéo nhau về nhà Kền. Chúng lục lọi, đào bới, tìm kiếm. Hình như chúng tìm thấy vật chứng hay tài liệu gì đó, chúng trói giật cánh khuỷu bà Phạm Thị Ộp (mẹ Kền) và cháu Nguyễn Gia Thắng 5 tuổi (con Kền) dong vào bốt, dẫn đến trước mặt Kền. Thấy mẹ chân tay, mặt mũi, máu me dính đầy, Thắng hai tay bị trói quặt ra sau, lảo đảo lao vào mẹ, òa khóc. Tên một Tốn, chân đi giày, bước nhanh tới, giơ cẳng, đá phốc một cái khiến thằng bé văng ra, vật xuống đất. Kền thương con, nhưng không còn đủ sức, chỉ hét lên một tiếng rồi gục xuống. Tên sếp Vấn dựng Kền dậy, vặn cổ cô nhìn thẳng vào chỗ mẹ, chỗ con cô. Nó vung cây gậy phang tới tấp vào mẹ Kền một hồi, rồi dừng lại quát: “Con mày hoạt động Việt Minh như thế nào? Khai ra thì mày sống, nó sống. Bằng không tao sẽ róc mười ngón tay mày như nó đây này”. Bà Ộp lướt nhìn hai bàn tay con gái, những đường gân trắng ởn, xương các ngón tay chìa ra, bà đau đớn, uất ức nhìn thẳng vào mặt tên sếp Vấn nói: “Tao không biết. Mày ác quá, mày giết con tao, trời đất sẽ tru diệt nhà mày”. Tên sếp Vấn tức sưng mặt, đạp một cái làm bà ngã lăn ra đất. Cháu Thắng tay vẫn bị trói, gục vào lưng bà khóc. Tên một Tốn sấn tới đẩy Thắng ra, dựng bà dậy cho bà nhìn thấy Kền. Đánh mẹ, đánh con Kền chán, nó quay ra đánh cô. Một Tốn gầm lên: “Nếu mày không khai, tao sẽ róc thịt moi gan mẹ mày, con mày nghe chưa”. Kền vẫn cắn răng im lặng.
Ông Nguyễn Văn Lưới kể tiếp:
- Sau đó, nó bơm nước vào mồm bà Ộp rồi vật ngửa bà ra đất, trèo lên bụng, cứ thế dận cho nước phọt ra. Một lần nó dận mạnh, mồm bà há to, cơm, rau và nước phụt đầy cả đất. Cô Kền nhìn mẹ gục xuống, chắc cô đau lắm, thương mẹ lắm, nhưng vẫn chẳng nói gì. Lúc ấy, tôi nghĩ chắc cô là Việt Minh thật, chứ gái nhảy, gái làm tiền (như người ta đồn) làm sao chúng trả thù dữ vậy. Nhưng về sau có người lại bảo, gái giang hồ, chúng nó không ưa, nó ghen nhau, có khi còn chết nhục hơn thế. Bấy giờ chúng tôi chẳng hiểu thực hư thế nào, chỉ thấy thương gia đình cô Kền cả nhà phải đau đớn.
Sáng hôm sau, ngày 26 tháng 7 năm 1951, tên một Tốn ra lệnh cho bọn lính đem Nguyễn Thị Kền đi hành hình. Chúng đưa cô ra đầu thôn Xuân Cước, tới bụi tre gia đình ông Nguyễn Tụng thì dừng lại. Tên sếp Vấn lột hết quần áo Kền, trói cô vào cây cột. Tên một Tốn dùng cây gậy tre bằng cổ tay, đầu vót nhọn như đầu đòn càn. Hai tay cầm cây gậy nhọn, hắn giạng chân, đứng theo kiểu phóng lao, dồn sức đâm cây gậy vào Kền. Cô đau đớn ré lên một tiếng rồi co rúm người lại. Tên một Tốn tỳ người vào day day cho cây gậy xiên ra sau.
Dòng máu rỉ ra theo cây gậy, nhỏ xuống, đỏ thấm một quãng ngõ. Kền rũ đầu xuống, từ từ tắt thở. Năm ấy, cô tròn 28 tuổi.
Chứng kiến giây phút cuối cùng thê thảm này, ông Mai Văn Bi bảo:
- Tôi và mấy người trong xóm, rút cây gậy, cởi trói cho cô Kền, rồi gói cô lại bằng một tấm vải xanh, khâm liệm cẩn thận, và mang ra cánh đồng Thượng Gia chôn cất. Xong việc, chúng tôi vào đồn khiêng bà Ộp và cháu Thắng về nhà chăm sóc. Người bà và cháu Thắng mặt mày, chân tay bầm tím, sưng húp. Máu và bùn đất dính đầy quần áo. Vì chân tay sưng to nịt chặt vào tay áo, ống quần, chúng tôi phải dùng kéo cắt mới cởi ra thay được.
Sự đau đớn của mẹ Kền, của con Kền và cái chết bi hùng của cô dần dần làm sáng lại sự mờ khuất của một người liệt sĩ. Trong lúc Thắng đang làm thủ tục “rửa oan” cho vong linh của mẹ, tình cờ anh gặp được Bùi Duy Lan - Giám đốc Bảo tàng Thái Bình. Nghe Thắng kể lại, Lan sực nhớ và bảo: Bảo tàng tỉnh hiện có lưu giữ một bức ảnh cô gái giống hoàn cảnh mẹ Thắng. Bùi Duy Lan tìm bức ảnh đưa cho anh. Thắng hồi hộp đỡ bức ảnh và ngắm rất lâu. Đó là tấm ảnh chụp một người con gái bị địch tra tấn, trói vào cây cột, có một cây gậy đâm vào người. Đằng sau bức ảnh ghi dòng chữ đã mờ ố: “Nữ điệp báo huyện Kiến Xương”. Liên tưởng đến những điều được nghe kể về cái chết của mẹ, Thắng linh cảm, bức ảnh là mẹ của anh. Nhưng mẹ Thắng qua đời khi anh mới 5 tuổi, anh không còn nhớ khuôn mặt của mẹ. Thắng mang tấm ảnh về quê ngoại xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương để mọi người xem. Người đầu tiên là: ông Nguyễn Gia Trung vừa nhìn bức ảnh đã thốt lên: “Đúng Kền đây rồi. Sao bà khổ thế này bà ơi”. Ông vừa mếu máo, vừa nghẹn ngào khóc. Ông Nguyễn Văn Lưới và nhiều người làng Thượng Gia chuyền tay nhau đều nhận ra bức ảnh chính là bà Kền. Ông Lưới bảo: “Bức ảnh chúng chụp cô Kền trước lúc chúng tôi cởi trói cho cô ấy. Khi ấy cô đã tắt thở rồi. Cây gậy chúng đâm vào người cô còn đây”. Bức ảnh đã góp thêm một tư liệu quý vào bộ hồ sơ để Thắng trình lên các cơ quan chính sách...
Ngày 12 tháng 4 năm1996, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 214/TTg tặng bằng “Tổ quốc ghi công” công nhận liệt sĩ Nguyễn Thị Kền đã anh dũng hy sinh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Buổi lễ truy tặng danh hiệu liệt sĩ cho bà Nguyễn Thị Kền tại quê hương xã Hồng Thái, khách cùng bà con họ hàng, làng xóm đến dự rất đông. Ai cũng ngậm ngùi bởi do sự hiểu lầm, khi chết coi bà như một “con điếm”... Gần 50 năm sau bà trở thành người liệt nữ có hành động anh hùng. Kết thúc buổi lễ, mọi người đã lần lượt ra mộ thắp hương cho bà. Khi tất cả đang đứng lặng im, cúi đầu, tưởng niệm bên nấm mộ, bỗng có tiếng một bà lão nấc lên, nghẹn ngào. Bà là dì của Nguyễn Thị Kền: “Các bác ơi! - Bà nói: - Trước kia chúng tôi nghi oan cho cháu tôi quá. Mạt sát rủa ráy cháu mà nó chỉ lặng im. Sau này mới biết cháu nó có thế đâu. Nghĩ lại ân hận quá các bác ạ. Xin cảm ơn các bác đã vì cháu...”. Rồi bà òa khóc. Mọi người chung quanh không ai nén nổi những giọt nước mắt cứ trào ra.
Trên nấm mộ bà Kền, làn khói hương cuồn cuộn, như một dải mây trắng bay lên trời cao.