• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Ký ức hai góc đối chiến
  3. Trang 10

Phần 1Chuyện bốn lính “Ăng-Lê 615” ở chiến trường B2

Sinh viên “Ăng-lê 615” đăng lính

Bốn lính Ăng-lê 615 chính là bốn sinh viên Ban Anh văn, Khoa Ngoại ngữ (khóa 1961-1965) của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp năm 1965, các bạn được tuyển vào bộ đội để đi công tác và chiến đấu ở chiến trường B2 (B dài).

Trong cuộc chiến tranh cách đây hơn nửa thế kỷ, lính đi “B” là đi vào chiến trường Nam bộ.

Tùy từng địa phương bộ đội được điều động đến mà có những tên gọi khác nhau. Nếu anh em bộ đội đi B1 và B5 là đi vào chiến trường bắc Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế, thường được gọi là đi B “ngắn” (khu vực Vùng 1 chiến thuật của Việt Nam Cộng hòa (VNCH), hoặc đi B3, B4, là đi vào chiến trường Tây Nguyên, thường được gọi là đi B “sâu”, (khu vực Vùng 2 chiến thuật của VNCH). Tất cả các khu vực này mang danh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam nhưng là các chiến trường do Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam tại Hà Nội phụ trách.

Nhưng nếu vào công tác và chiến đấu ở B2 là anh em bộ đội đi vào chiến trường miền Đông Nam Bộ, Đặc khu Sài Gòn - Gia Định và chiến trường miền Tây Nam Bộ (khu vực Vùng 3 và Vùng 4 chiến thuật của VNCH) do Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam chịu trách nhiệm.

Anh em bộ đội thường gọi đi công tác B2 (gồm các tỉnh miền Đông - Tây Nam Bộ và Đặc khu Sài Gòn - Gia Định) là đi “B dài”, có đoàn như đoàn của bạn Hùng Trí thì gọi đi công tác B2 là đi “Ông Cụ”.

Đi B2 (B dài) nếu xuôi chèo mát mái không gặp đối phương phục kích, không bị cản trở do thiên tai bão lũ thì chặng đường hành quân từ Bắc vào Nam cũng mất khoảng 06 tháng đi bộ.

Điều rất đặc biệt, mặc dù chỉ có một “dúm” người, nhưng bốn “ông lính công tử Hà thành” đi chiến trường B2 này lại xuất phát từ hai nguồn tuyển quân khác nhau.

Ba anh lính đầu tiên gồm Nguyễn Hùng Trí, Nguyễn Gia Chăn và Nguyễn Bùi Thuyên là lính của Cục Địch vận (tên giao dịch ra ngoài dân sự là Cục Nghiên cứu) thuộc Tổng cục Chính trị do Trung tướng Song Hào làm Tổng Cục trưởng, còn anh lính thứ tư là Nguyễn Tiến Hùng lại là lính của Cục Tình báo (tên giao dịch ngoài dân sự cũng là Cục Nghiên cứu) nhưng lại thuộc Bộ Tổng Tham mưu do Đại tướng Văn Tiến Dũng là Tổng Tham mưu trưởng.

Một điều rất thú vị đối với tổng số trên 30 sinh viên khóa 1961-1965 Ban Anh văn, Khoa Ngoại ngữ của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội là vào năm thứ tư (năm học 1964-1965) của khóa đào tạo, một số đông sinh viên trong lớp là con công chức lưu dung (trước làm việc cho chính quyền Bảo Đại) như gia đình tôi hoặc các gia đình tiểu thương, tiểu chủ, và một vài bạn thuộc gia đình tư sản dân tộc, đã thực sự trải qua những giờ phút vô cùng khó khăn, không biết nên quyết định như thế nào là tốt nhất cho tương lai cuộc đời của mình.

Nhà trường đã ra thông báo ngay khi kết thúc năm học thứ ba cho số sinh viên thuộc thành phần kể trên trong lớp là sẽ không học tiếp năm học cuối cùng là năm thứ tư và cho phép chúng tôi được phép chọn học bất kỳ ngành gì trong trường đại học, ngoại trừ tiếng Anh, và phải học lại từ đầu, từ năm thứ nhất. Nếu không chấp nhận, chúng tôi phải nghỉ học. Nhà trường sẽ cấp giấy giới thiệu, tạo điều kiện thật thuận lợi, thật dễ dàng cho chúng tôi tự đi xin việc ở bất kỳ công, nông trường, cơ quan, xí nghiệp nào trên toàn miền Bắc có nhu cầu tuyển nhân viên.

Thật ra, nhà trường gặp muôn vàn khó khăn. Lý do nhà trường đưa ra vô cùng chính đáng vì nếu tiếp tục đào tạo, khi tốt nghiệp, đa số nhóm sinh viên có lý lịch “tàng tàng” như chúng tôi sẽ không có việc làm, vì thời gian đó sinh viên ngành tiếng Anh muốn có việc làm thì lý lịch phải rất “trong sạch”, phải vô cùng thật “rõ ràng”.

Đám sinh viên chúng tôi không hề thắc mắc gì với chủ trương của nhà trường vì đang ở trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, bị Mỹ và các nước tư bản phương Tây cấm vận kinh tế, không hề có mối liên hệ nào ra các nước khác, ngoại trừ các nước Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Trong bối cảnh đó, thì Liên Xô và Trung Quốc lại còn coi nhau như kẻ thù không đội trời chung về mặt lý luận của chủ nghĩa cộng sản, phê phán nhau xoay quanh hai cụm từ “dogmatism” (chủ nghĩa giáo điều) và “revisionism” (chủ nghĩa xét lại).

Gương tầy liếp trước mắt chúng tôi là nhiều anh, chị khóa một, khóa hai, khóa ba của Ban Anh văn, Khoa Ngoại ngữ ra trường thất nghiệp, không xin được việc làm, phải xin đi làm công nhật, mang sức lực để kéo xe bò đất ở công trường Thanh Niên (khu đường Cổ Ngư xưa), đi gánh đất ở công trường Thủ Lệ, hay ở công trường hồ Bảy Mẫu (nay là công viên Lê Nin), hoặc đi khiêng gỗ ở bến Phà Đen v.v… để sống qua ngày, đoạn tháng, chờ đợi mong tìm, xin được việc làm tốt hơn vì thực tế chỉ ra rất rõ các cơ quan nhà nước cần tuyển những sinh viên tốt nghiệp Ban Nga văn và Ban Trung văn ra làm việc ở các nơi trọng yếu của các Bộ Ngoại giao, Bộ Ngoại thương và các ban, ngành đối ngoại khác chứ không cần sinh viên tốt nghiệp Ban Anh văn.

Nhìn sang các trường trung học phổ thông, thời ông Bảo Đại chủ yếu học sinh học tiếng Pháp, tiếng Anh. Nhưng sau khi tiếp quản Hà Nội (từ ngày 10/10/1954 trở đi), ở các trường học sinh học chính là tiếng Nga và tiếng Trung Quốc.

Lác đác còn một vài trường ở Hà Nội, trong lúc giao thời như Trường Phổ thông 3B chúng tôi, có một hai lớp còn được học tiếng Pháp.

Sở dĩ còn tồn tại một vài lớp tiếng Pháp ở một vài trường trung học phổ thông lớn ở Hà Nội như vậy vì thời gian này còn có nhu cầu cử giáo viên sang dạy học ở các nước nói tiếng Pháp ở châu Phi.

Riêng tiếng Anh, không thể nào có thể tìm ra “cửa” cho môn học này ở các trường phổ thông trong thời kỳ đó.

Viết đến đây, tôi nhớ lại anh Lộc khóa 02, học cùng lớp với các anh bộ đội công tác tại Cục Tình báo được gửi sang học như các anh Nguyễn Đức Viên (tức Nguyễn Bạch Vân), Nguyễn Vân Du, Nguyễn Trọng Tô, Trần Xuân Kiều (sau này anh Kiều lập gia đình với cô giáo Ngô Thị Trí, sinh viên khóa 01), Doãn Tợi và các anh sinh viên khác như các anh Cường (bộ đội chuyển ngành, sau này lập gia đình với cô giáo Yến Khanh, bạn học cùng lớp), Nguyễn Cường Văn, Ngô Dũng, Vũ Tá Lâm, Hạnh voi, và các chị Thanh, Dung, Hằng, Yến Khanh v.v...

Anh Lộc là một sinh viên giỏi, nhưng do lý lịch cũng tàng tàng như chúng tôi, không được đẹp như các anh chị khác, rất khó xin được việc làm. Hàng ngày anh mang một máy chữ nhỏ đến ngồi ở Quán Bốn Mùa (Quatre Saisons) ở phố Hàng Trống, vừa uống cà phê vừa ngồi dịch tài liệu cho các cơ quan để kiếm sống qua ngày.

Tôi rất mừng cho anh vì sau một thời gian dài chờ đợi, cuối cùng anh cũng được tuyển vào làm việc tại Thư viện Quốc gia ở phố Tràng Thi, và sống vô cùng hạnh phúc với người vợ, người bạn học cùng lớp là chị Hằng ở phố Mai Hắc Đế. Tôi nghe nói chị Hằng ra trường, về làm giảng viên dạy tiếng Anh ở Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, dạy cùng trường với anh Vũ Tá Lâm và chị Lê Thụy Ánh.

Trong lúc đang đứng trước ngưỡng cửa, tiến thoái lưỡng nan, không biết phải chọn lựa con đường “đi tiếp” của cuộc đời như thế nào, chúng tôi vui mừng khi nghe tin cấp trên yêu cầu nhà trường tiếp tục đào tạo chúng tôi cho đủ bốn năm theo đúng quy trình của khóa học, không được phép cho con em nhân dân phải nghỉ học giữa chừng.

Học sắp kết thúc năm thứ tư, khoảng giữa năm 1965, tình hình chiến cuộc có nhiều thay đổi vô cùng lớn. Chiến trường đang đòi hỏi hậu phương cung cấp nhiều, nhiều hơn nhân, vật lực cho cuộc kháng chiến. Cần phải nhấn mạnh rằng, đến thời điểm chúng tôi tốt nghiệp đại học (năm 1965), chiến lược Chiến tranh đặc biệt của Tổng thống Mỹ Kennedy đã bị phá sản hoàn toàn.

Lyndon B.Johnson, vị tổng thống thứ 36 của Mỹ (1963-1969), buộc phải thay đổi sang chiến lược Chiến tranh cục bộ , nhằm trực tiếp đưa quân từ Mỹ sang chiến trường miền Nam Việt Nam, đưa không lực Mỹ, không loại trừ việc sử dụng pháo đài bay B52 trực tiếp dội bom, đánh phá khốc liệt các mục tiêu kinh tế trọng điểm và các khu dân cư đông đúc ở miền Bắc Việt Nam.

Tại miền Nam, ngày 08/03/1965 Johnson ra lệnh cho đơn vị đầu tiên của quân đội Mỹ là Tiểu đoàn 3, Lữ đoàn 9 Thủy quân lục chiến, đổ bộ lên bãi biển Xuân Thiều (TP Đà Nẵng) với mật danh địa điểm bí mật là Red Beach Two.

Thực tiễn chiến trường xoay chuyển rất nhanh. Từ năm 1965 trở đi, chiến tranh ở Việt Nam thực chất là cuộc đối đầu quân sự giữa ta (bộ đội miền Bắc cùng với quân giải phóng miền Nam Việt Nam) và Mỹ.

Một vấn đề lớn nẩy sinh, có tính thời sự cấp bách lúc bấy giờ là chúng ta cần nhiều anh em bộ đội cả hai miền Bắc và Nam thành thạo tiếng Anh để làm một số công tác trong quân đội.

Đây là một nhiệm vụ vô cùng nặng nề, đòi hỏi Ban Anh văn, Khoa Ngoại ngữ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội do thầy Đặng Chấn Liêu làm trưởng ban phải tìm cách giải quyết.

Các thầy, các cô phải làm sao đào tạo thật nhanh, gọn, có chất lượng đội ngũ bộ đội biết tiếng Anh để phục vụ chiến trường.

Chính trong thời điểm lịch sử rất đặc biệt này của cuộc chiến tranh là khoảnh khắc “đắt hàng nhất” của đám sinh viên khóa học 1961-1965 (khóa bốn), thuộc Ban Anh văn, Khoa Ngoại ngữ của chúng tôi.

Tôi xin phép quay trở lại thời điểm nhóm sinh viên đầu tiên chúng tôi đi lính là ngày 18 tháng 03 năm 1965, một ngày làm chấn động cả Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, làm sinh viên các khoa khác phải bàng hoàng, nhốn nháo khắp trường với tin “very hot” này. Thật vô cùng trớ trêu là đám sinh viên ban Anh văn chúng tôi từ trước đến giờ chỉ có một nhúm người, cả ban gồm bốn khóa đào tạo chỉ vẻn vẹn có khoảng từ 120 đến 150 người, trong khi đó các khoa, ban đào tạo khác trong trường có cả gần ngàn sinh viên, ấy vậy mà chúng tôi lại là ngành học đầu tiên được quân đội “ưu ái” đến tuyển vào bộ đội để đi công tác ở chiến trường miền Nam.

Thế là từ ngày 18/03/1965, dân tiếng Anh chúng tôi đã có thể “vênh mặt tự hào” với “dáng đi hiên ngang” của mình trước toàn dân thiên hạ, vì từ lúc đó trở đi, sinh viên Ban Anh văn chúng tôi đã trở nên rất “đắt” giá, được nhà nước và quân đội “cưng chiều” rồi!

Đúng sáng hôm đó, lúc 09g30, đại diện của Tổng cục Chính trị triệu tập 07 sinh viên khóa 1961-1965 của Ban Anh văn, gồm các bạn Nguyễn Hùng Trí, Nguyễn Gia Chăn, Nguyễn Bùi Thuyên, Nguyễn Minh Y, Nguyễn Bé, Lâm Quang Nho và anh Nguyễn Dung đưa về biên chế cho Cục Địch vận để đi công tác ở chiến trường B (miền Nam Việt Nam).

Đây ắt hẳn là bảy gương mặt sáng giá nhất, đẹp đẽ nhất của đám sinh viên lớp chúng tôi, lý lịch không hề vương một chút gợn nào để những người làm “tổ chức cán bộ” phải suy nghĩ vì các bạn kể trên đều xuất thân từ những gia đình tham gia kháng chiến, có bạn cha là cấp tỉnh ủy viên, đang giảng dạy tại Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc như bạn Nguyễn Bùi Thuyên, có anh đã từng là bộ đội chống Pháp như anh Nguyễn Dung, có bạn từng đi nghĩa vụ quân sự sau năm 1954 như bạn Nguyễn Gia Chăn, có bạn cha là liệt sĩ, anh trai đã từng là Thượng úy, tham gia bộ đội kháng chiến chống Pháp như bạn Nguyễn Hùng Trí, có bạn là con em của Việt kiều có đóng góp cho kháng chiến ở Thái Lan như bạn Nguyễn Minh Y, và có các bạn là con em của các cô, các chú tham gia kháng chiến từ Liên khu V tập kết ra miền Bắc như các bạn Nguyễn Bé, Lâm Quang Nho.

Tất cả bảy bạn, sau khi được biên chế về Cục Địch vận, được Trung tướng Song Hào, Tổng cục trưởng Tổng cục Chính trị, ký quyết định phong hàm cấp Thiếu úy.

Sau một tháng tập trung học chính trị tại Trạm 66 phố Hoàng Diệu, toàn bộ bảy anh bạn trên được lệnh hành quân vào chiến trường B (miền Nam).

Ngoài bảy gương mặt nổi trội trên, tôi sẽ vô cùng thiếu sót nếu quên không đề cặp đến ba gương mặt cũng nổi trội, không thua kém bảy bạn đi bộ đội tốp đầu tiên. Đó là các bạn Ngô Thị Hân, Bùi Trọng Bình, Xuân Đỉnh (có thời gian bạn Xuân Đỉnh còn được đi học tiếng Anh ở bên Trung Quốc, sau vì “xét lại”, “giáo điều” giữa Liên Xô và Trung Quốc nên sau khi về nước học Nghị quyết 09 của Trung ương, trên yêu cầu bạn Xuân Đỉnh ở lại Việt Nam, học tiếp với chúng tôi ở Hà Nội). Sau khi tốt nghiệp đại học, ba bạn trên được Bộ Công an tuyển dụng, không biết bố trí làm việc ở bộ phận nào.

Đợt tuyển quân thứ hai vào ngày 29 tháng 04 năm 1965 càng làm ngỡ ngàng, xôn xao toàn bộ các bạn còn lại trong khóa Anh văn 1961-1965 vì lần này lấy đi bộ đội khá đông, lý lịch bản thân cũng “tàng tàng như nhau”, toàn con em “công chức lưu dung”, cha mẹ đã từng làm việc cho chính quyền thân Pháp là chính quyền ông Bảo Đại, đâu có sạch, đẹp, bóng bảy như bảy anh bạn đi lính cho Tổng cục Chính trị giữa tháng 03/1965.

Tổng số sinh viên được tuyển vào bộ đội đợt thứ hai, biên chế về Cục Tình báo, Bộ Tổng tham mưu gồm 19 người, chia làm hai nhóm:

  1. Nhóm thứ nhất gồm 08 sinh viên đã tốt nghiệp khóa 1961-1965 là các bạn Nguyễn Tiến Hùng, Nguyễn Đăng Phúc, Nguyễn Hoàng Phúc, Nguyễn Vũ Quang, Châu Quang Trung, Nguyễn Trung Hưng, Lê Thị Thúy và Lê Thị Uyển.
  2. Nhóm thứ hai gồm 11 sinh viên đã học hết năm thứ ba, chuẩn bị lên học năm thứ tư (năm cuối) là các bạn Lê Thế Mỹ, Cù Đình Cường, Phan Thanh Hùng, Nguyễn Công Chín, Chử Văn Trang, Nguyễn Mạnh Chương, Khánh, Cẩn, và các bạn gái Liên, Đặng Thị Hưởng và Trương Thị Xự.

Toàn bộ 19 bạn trên, từ 29 tháng 04 năm 1965 đến hết tháng 06/1975 được tập trung từng đợt với số lượng nhiều, ít khác nhau về các đơn vị thuộc Cục Tình báo, chủ yếu về tăng cường cho Phòng 75 hay còn được gọi là Trung đoàn Trinh sát Kỹ thuật 75 đóng quân ở khu vực Xuân Đỉnh, giáp ngay Hồ Tây, vùng ngoại thành Hà Nội, được dân trong vùng gọi là bộ đội công trường 02, do Trung tá Đức Sơn phụ trách.

Riêng hai bạn gái cùng lớp khóa 04 với tôi là Lê Thị Thúy và Lê Thị Uyển được biên chế về Phòng 70 (Phòng Nghiên cứu) của Cục Tình báo, làm việc hàng ngày cùng với anh Võ Quang, bộ đội cử đi học khóa 1959-1962, ngay tại Bộ Tổng tư lệnh ở khu Cột Cờ - Hà Nội.

Trong đợt tuyển quân lần hai, bạn nào học xong khóa 04 (1961-1965) được phong hàm Chuẩn úy, bạn nào học mới hết năm thứ ba, chưa tốt nghiệp, được phong hàm Thượng sĩ.

Quay trở lại số bạn bè còn lại của lớp đại học chúng tôi trong thời điểm “đắt hàng” xem công việc của các bạn ấy ra sao?

Đúng là “đắt hàng” thật vì lúc này, có bao nhiêu sinh viên học Ban Anh văn đi chăng nữa cũng không thể nào đáp ứng đủ nhu cầu của quân đội cũng như các bộ, ban, ngành của các cơ quan nhà nước.

Đám sinh viên còn lại trong lớp lý lịch cũng tàng tàng như chúng tôi đều bị “hút hàng”, kể cả tất cả các anh chị chưa có việc làm của các khóa trước (khóa 01, 02 và 03) cũng đều được tuyển dụng, thậm chí còn được làm những vị trí rất ngon lành, những vị trí khi đang còn học, chúng tôi luôn hằng ước mơ.

Chẳng hạn bạn Long về làm công tác ở Ban Đối ngoại Trung ương Đảng, chị Sửu (cán bộ được cử đi học) trở về công tác tại Ban Đối ngoại Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, các bạn Phạm Xuân Lâm, Nguyễn Xuân Chính, Trần Tấn Dương về công tác tại Bộ Ngoại thương (nghe nói sau này do làm việc có uy tín, bạn Dương còn được bổ nhiệm làm đại diện một công ty của Việt Nam ở một nước tư bản), anh Tuấn (tóc quăn, trước là bộ đội chuyển ngành), bạn Chử Đức Châu, Nguyễn Thượng Hùng, Trần Khiêm (sailor) về làm việc tại các sứ quán Úc, Anh (sau này tôi nghe nói anh Tuấn (tóc quăn) chuyển về công tác tại Ban xuất bản của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, bạn Trần Khiêm về công tác tại Thông tấn xã Việt Nam).

Một số bạn được điều đi dạy tiếng Anh ở các trường đại học như bạn Phùng Văn Hải về dạy ở Trường Đại học Bách khoa, Lê Thụy Ánh về dạy ở Trường Đại học Tổng hợp, Nguyễn Thị Bích Hoàn, Nguyễn Văn Trung, anh Nguyễn Văn Tặng về dạy ở Ban Anh văn, Khoa Ngoại ngữ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Phùng Thị Ngọc về dạy ở Trường Đại học Hàng hải ở thành phố Hải Phòng, Nguyễn Bá Kim về dạy Trường Cao đẳng Thư viện thuộc Bộ Văn hóa, anh Nguyễn Khắc Bân (trước khi đi học đã là Thượng úy) về làm Hiệu trưởng Trường Dạy nghề của Bộ Công nghiệp nhẹ, chị Nguyễn Thị Chanh về công tác ở cơ quan cũ.

Trên đây là tất cả tôi có thể còn nhớ được về các bạn cùng học ở Đại học. Tôi xin nhận thiếu sót nếu quên mất một vài bạn nào đó và xin các bạn thứ lỗi cho vì thời gian tôi xa Hà Nội, xa các bạn kể từ tháng 04/1965 đến nay là hơn một nửa thế kỷ rồi (56 năm)!

Tôi xin trở lại với bảy người bạn trong đợt tuyển quân đầu tiên.

Mặc dầu nhóm có bảy người nhưng bạn Nguyễn Minh Y, do yêu cầu đặc biệt được giữ ở lại chiến trường A (miền Bắc), nên chỉ còn sáu người được phân chia làm ba nhóm, đi vào công tác ở các vùng khác nhau trong chiến trường miền Nam.

Các bạn Nguyễn Bé và Lâm Quang Nho quê ở Khu Năm nên trở về công tác ở quê hương. Riêng anh Nguyễn Dung được điều vào công tác ở khu vực Bình Trị Thiên.

Như vậy, cả ba bạn Bé, Nho, Dung đi B ngắn (B1 và B5) chạy kéo dài trong phạm vi từ Khánh Hòa lên vĩ tuyến 17 do Bộ Tổng Tư lệnh ở Hà Nội chỉ đạo tác chiến trực tiếp.

Đây cũng là lý do anh Nguyễn Dung chỉ sau một thời gian rất ngắn công tác ở Bình Trị Thiên, do nhu cầu công tác đã được điều ra Hà Nội công tác.

Riêng bạn Lâm Quang Nho sau khi về quê hương công tác khoảng một năm, trong một lần đi tải gạo đã hy sinh do bị lính Mỹ phục kích.

Ba bạn Nguyễn Hùng Trí, Nguyễn Gia Chăn và Nguyễn Bùi Thuyên đi B dài (B2), hay như các bạn nói, đi “Ông Cụ”. Đây là chiến trường chạy kéo dài trong phạm vi từ Ninh Thuận xuống Cà Mau do Ban Chỉ huy Quân sự lực lượng vũ trang ở miền Nam chỉ đạo tác chiến.

Quay trở lại với 19 bạn được tuyển quân đợt 2, ngoại trừ hai bạn Thúy và Uyển về làm việc tại Phòng 70, tất cả 17 bạn còn lại về công tác tại Phòng 75 (hay còn gọi là Trung đoàn Trinh sát Kỹ thuật 75, hoặc Công trường 02).

Ở Trung đoàn 75

Từ đầu tháng 07/1965, chúng tôi được học một khóa học cơ bản về trinh sát kỹ thuật ngay tại đơn vị (lúc này không còn ở doanh trại công trường 02 tại khu Xuân Đỉnh mà đơn vị chúng tôi đã sơ tán mỏng về xã Xuân La) trong khoảng gần ba tuần.

Thực ra trong nghiệp vụ trinh sát kỹ thuật trên làn sóng điện, bộ đội ta đã làm và có rất nhiều kinh nghiệm vô cùng phong phú ngay từ khi nắm bắt được tin tức chỉ huy tác chiến của quân đội Pháp qua các máy thông tin liên lạc tần số ngắn và cực ngắn trong Chiến dịch Biên Giới (từ 16/09/1950 đến 17/10/1950). Người tìm ra sóng hành quân và ghi chép được những lệnh chỉ huy tác chiến trực tiếp của Bộ chỉ huy Pháp trên mặt trận là Thiếu tá Lê Huy Kỳ (thời gian tôi gia nhập bộ đội tháng 04/1965, ông Lê Huy Kỳ là thiếu tá, Trung đoàn phó Trung đoàn Trinh sát Kỹ thuật 75). Thiếu tá Kỳ kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện về trinh sát kỹ thuật đã làm được. Hồi đó khi đi phục vụ chiến dịch, các thủ trưởng thường kéo theo một chiếc xe bò chở đủ thứ đồ, máy móc vô tuyến điện, bình ắc-quy v.v… đi phục vụ tác chiến, trong đó có điện đài để truyền tin về Bộ Chỉ huy bằng tín hiệu Morse. Một lần trong lúc nghỉ giải lao, thiếu tá Lê Huy Kỳ mở chiếc radio mang theo để nghe tin tức bằng tiếng Pháp của đài Hirondelle (Con Nhạn), ông nghe thấy có tiếng Pháp léo nhéo gần sóng của đài phát thanh Hirondelle. Như có linh tính mách bảo, ông lập tức dò, chỉnh lại tần số làm sao cho nghe thật rõ hơn tiếng Pháp từ đài phát sóng ra. Thế là ông đã tìm được đài chỉ huy của Bộ tư lệnh quân đội Pháp đang chuyển những mệnh lệnh tác chiến ở ngay trên mặt trận biên giới bằng thoại tiếng Pháp. Chớp được thời cơ, ông và đồng đội cùng nhau ráng nghe và chuyển các lệnh chỉ huy hành quân trực tiếp ngoài mặt trận bằng sóng cực ngắn của Pháp về Bộ Tư lệnh chiến dịch của bộ đội ta.

Sau chiến thắng mặt trận biên giới, Cục Quân báo phát triển các đơn vị trinh sát kỹ thuật nghe thoại bằng tiếng Pháp rộng rãi, phục vụ rất đắc lực cho các cấp chỉ huy của bộ đội ta trong các chiến dịch kế tiếp, đặc biệt là trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (từ 13/03/1954 – 07/05/1954).

Trong khóa học ba tuần, chúng tôi bước đầu làm quen với cách đọc và ghi thật nhanh các bức điện đã được mã hóa từng nhóm gồm ba chữ (03 letters) hoặc năm chữ (05 letters) thông qua cách đọc của bưu điện quốc tế cụ thể như A (Alpha), B (Bravo), C (Charlie), D (Delta), E (Echo), G (Golf), F (Foxtrot), L (Lima), M (Mike), N (November), O (Oska), P (Papa), Q (Quebeck), R (Romeo), S (Sera), T (Tango), U (Uniform), V (Victor), W (Whiskey), X (Xray), Y (Yankee), Z (Zulu).

Buổi sáng được các anh trong đơn vị luyện cho cách ghi bức điện đánh cắp (intercepting) trên mạng thông tin liên lạc, cụ thể:

From ……. …..To…………

Tiếp theo là cách ghi thật nhanh bức điện đã được mã hóa (bức điện có thể bao gồm các cụm 03 từ (03 letters) hay các cụm 05 từ (05 letters).

Buổi chiều, 17 anh chị em chúng tôi chia ra thành tửng nhóm nhỏ, tự tạo những bức điện đã mã hóa, rồi thay nhau đọc để luyện tốc độ ghi chép những bức điện trên. Sau đó, chuyển sang cách tìm những sóng lạ trên máy thông tin liên lạc của Liên Xô (máy nặng hàng trăm kilo), bất cứ thấy sóng lạ, phát tiếng Anh thì dừng lại và tập ghi.

Sau khóa học những vấn đề cơ bản cần biết về nghề trinh sát kỹ thuật trong gần ba tuần, anh chị em chúng tôi được biên chế về Trung đội Trinh sát Kỹ thuật Mỹ do Trung úy Nguyễn Vân Du phụ trách, thuộc Đại đội Trinh sát Kỹ thuật do Thượng úy Lê Toàn là đại đội trưởng và Thượng úy Nguyễn Văn Thơm là chính trị viên trưởng. Toàn bộ 17 anh chị em chúng tôi được phân bố về các tiểu đội vừa học vừa làm nghề qua thực tế, có sự kèm cặp của các anh có nhiều kinh nghiệm hơn như các anh Hoành, Lợi, Phạm Quang Tần, Đỗ Thận v.v… tại chùa làng Xuân La, tham gia các phiên trực 24/07 và lúc được nghỉ trực, chúng tôi được phân tán mỏng về ngủ và sinh hoạt tại nhà dân trong làng.

Do yêu cầu nắm địch diện rộng hơn, trung đội chúng tôi triển khai cả ba chiếc máy làm việc (lúc này là máy quân sự của Liên Xô rất lớn, nặng cả 100 kg) từ doanh trại đi theo đường lộ đất đỏ khu Xuân Đỉnh (thời gian này chưa trải đường nhựa), băng qua đường nhựa sang ngay ngôi đình cặp hông Hồ Tây để làm việc (khu này đang là nơi đóng quân sơ tán của Thượng úy Năm Lộc, phụ trách về sửa chữa máy móc, điện và thiết bị làm việc).

Chính tại địa điểm ngôi đình cặp Hồ Tây của Hà Nội thân yêu này, chúng tôi trinh sát, tìm được sóng cuộc hành quân STARLITE của quân đội Mỹ.

Đây là cuộc hành quân đầu tiên của quân đội Mỹ tham chiến ở Việt Nam, nằm trong chiến dịch “Search and Destroy” (Tìm và Diệt), bắt đầu từ ngày 17 tháng 08 năm 1965 và kết thúc vào ngày 24 tháng 08 năm 1965 của Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 7 Thủy quân lục chiến (US. Marine Force).

Trận đánh chính diễn ra vào ngày 17 tháng 08 năm 1965 quanh làng Vạn Tường, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, được phía ta gọi là cuộc Hành quân Vạn Tường (Operation Vạn Tường).

Thực ra Đại tá Don P. Wyckoff đặt tên cho cuộc hành quân này là Satellite , nhưng khi kế hoạch của sư đoàn thủy quân lục chiến đang được đánh máy thì máy phát điện bị hỏng, phải chuyển sang đánh máy dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn cầy (hay cây nến như ở miền Bắc gọi) nên đã bị đánh sai thành chữ Starlite . Lỗi này được phát hiện vào sáng sớm ngày 18 tháng 08 năm 1965 nên không còn thời gian để sửa đổi đúng tên gọi của cuộc hành quân. Bên dịch thuật, đã dịch nhầm sang từ tiếng Anh là Star Light (đồng âm với tên của cuộc hành quân), cho nên tên gọi của cuộc hành quân này được dịch sang tiếng Việt là cuộc hành quân Ánh Sáng Sao.

Sau trận hành quân Vạn Tường, bằng trinh sát kỹ thuật, Trung đoàn Trinh sát Kỹ thuật 75 (E75) đã chứng minh với Bộ Tổng tư lệnh rằng trung đoàn đã có thể nắm bắt được tin tức một phần nào về các cuộc hành quân của Mỹ ở miền Nam Việt Nam.

Trước tình hình đó, được phép của cấp trên, Trung đoàn Trinh sát Kỹ thuật 75 (E75) tuyển quân rộng rãi trên mọi phương diện để phục vụ cho nhu cầu của chiến trường.

Vào khoảng tháng 09 năm 1965, rất nhiều sĩ quan ở các quân binh chủng cùng các anh em tân binh đã học xong phổ thông trung học ở nhiều tỉnh thành được tập trung đào tạo tiếng Anh ngắn hạn chừng một năm ở Ban Anh văn, Khoa Ngoại ngữ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, rồi trở về đơn vị công tác.

Trong số học viên này có khoảng hơn 100 tân binh đã tốt nghiệp phổ thông trung học, nguyên gốc ở tỉnh Thái Bình và các vùng phụ cận là lính của E75, Cục Tình báo. Các em được học riêng, chủ yếu do thầy Trần Cường Văn và cô Nguyễn Thị Bích Hoàn cùng một vài thầy cô khác phụ trách. Sau khóa học tiếng Anh, số tân binh này được đưa về đại đội huấn luyện 7B (ký hiệu là C7B) đóng ở Hòa Thôn, khu vực Phùng, thuộc tỉnh Sơn Tây cũ (nay nằm trong địa giới thành phố Hà Nội) để đào tạo chuyên môn trinh sát kỹ thuật Mỹ.

Ban chỉ huy đại đội huấn luyện 7B gồm Thiếu úy Tạ Duy Chỉ làm đại đội trưởng, Thiếu úy Nguyễn Văn Đại làm chính trị viên và tôi, Chuẩn úy Nguyễn Tiến Hùng làm đại đội phó, phụ trách đào tạo. Tổ giáo viên gồm 04 người, cụ thể là Chuẩn úy Nguyễn Hoàng Phúc, Thượng sĩ Lê Thế Mỹ, Thượng sĩ Cù Đình Cường và tôi.

Sau khoảng 06 tháng đào tạo, một số học viên có thể về đơn vị (lúc này đóng quân ở Xóm Bặn, huyện Tùng Thiện (khu vực gần sân bay Hòa Lạc, tỉnh Sơn Tây cũ, nay là thành phố Hà Nội) làm việc.

Khoảng tháng 07/1967, tôi được lệnh trở về Ban Chỉ huy Trung đoàn nhận công tác mới. Tôi được chính Chính ủy Trung đoàn 75 là Thiếu tá Vương Thúc Châu giao nhiệm vụ quay trở về Cục Tình báo ở Hà Nội để nhận nhiệm vụ đi chiến đấu ở chiến trường miền Nam Việt Nam.

Tại Cục Tình báo ở Hà Nội, tôi được biết tôi sẽ đi vào Nam công tác cùng với anh Đào Công Thi (sau này vào miền Nam đổi tên thành Trần Ngọc Lai) và em Uông Sỹ Hồng, quê ở Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, trước là sinh viên của tôi ở đại đội huấn luyện 7B (C7B), nhưng chúng tôi không đi chung mà sẽ đi tách từng người một. Cả ba anh em chúng tôi được chuyển sang biên chế của Phòng 73 do anh Trí Anh là thủ trưởng.

Đại tá Phan Bình, Cục trưởng kiêm Chính ủy Cục Tình báo trực tiếp gặp và giao nhiệm vụ cho chúng tôi. Đại úy Sáu Hung (quê ở Trảng Bàng, Tây Ninh) được phân công phụ trách trực tiếp, lo toàn bộ giấy tờ và mọi phương tiện cho chúng tôi để vào chiến trường B2 trong thời gian sớm nhất.

Ba anh em chúng tôi được bố trí ở một tòa nhà lớn ở Ô Chợ Dừa, ăn ngủ rất thoải mái. Thỉnh thoảng phải đi làm giấy tờ hợp pháp ở Ban Thống nhất Trung ương (trụ sở Hội Khai trí Tiến Đức cũ, trước địa chỉ là số 16 Lê Thái Tổ, sau khi tiếp quản Hà Nội chuyển sang lấy địa chỉ số 79 Hàng Trống, ngay tại đoạn đường đụng nhau giữa phố Hàng Trống và khúc quẹo phố Lê Thái Tổ, bọc theo Hồ Hoàn Kiếm). Do không thường xuyên có xe com-măng-ca của Liên Xô đưa rước, nên các thủ trưởng điều xe mô tô ba bánh đến chở chúng tôi đi làm giấy tờ.

Đối với tôi, cảnh vật ở Hà Nội như nằm trong lòng bàn tay, nhưng đối với anh Thi và Hồng thì đây là một thời gian cực kỳ “ấn tượng”.

Chính vì vậy, đôi lúc những kỷ niệm đẹp ngày xưa lại “lóe” trong đầu đến nỗi mặc dù sống và làm việc ở chiến trường Long Khánh - Biên Hòa - Bà Rịa - Vũng Tàu (T7) cực kỳ gian truân và khốc liệt trong hơn mười năm, anh Thi viết cho tôi bức thư ngày 18/01/1971 dài 05 trang nặng trĩu những tâm tư, nhưng gần cuối thư, anh lại tràn đầy hy vọng:

“Mình vẫn còn hy vọng là tụi mình sẽ đi mô tô trên đường phố Hà Nội như ngày nào trước lúc bọn mình vào nam, được không hả Hùng?’

Các bạn Đào Công Thi và Uông Sỹ Hồng đi máy bay vào ngay B2 hai đợt khác nhau khoảng từ cuối tháng 11 hay đầu tháng 12/1967.

Riêng tôi phải chờ khá lâu. Đại úy Sáu Hung (quê gốc Trảng Bàng - tỉnh Tây Ninh) cho tôi biết đoàn đi công tác chưa chuẩn bị xong, cứ ở Hà Nội chơi với gia đình và bạn bè cho thoải mái, lúc nào chuẩn bị xong, anh Sáu sẽ báo.

Tôi cứ nghĩ chắc do mình dân ở Hà Nội, các “sếp” thông cảm, cho ở nhà nhiều hơn, trước khi đi công tác “dài hạn”.

Nhưng thật ra đoàn đi công tác còn hai thành viên “bự”, rất nhiều công việc quan trọng, đâu có đơn giản như lính “lác” chúng tôi, đi lúc nào cũng được, bất kể ngày hay đêm, nhận được lệnh là xách ba lô lên đường.

Ngồi bây giờ suy nghĩ lại, thấy mình thật trẻ con, suy nghĩ “khờ khạo” đến như vậy mà các thủ trưởng “dám” tín nhiệm “cho” đi công tác!

Chuyến công vụ nhớ đời

Ngày 08 tháng 12 năm 1967, anh Sáu Hung đến nhà tôi ở số 123 Bùi Thị Xuân, Hà Nội thăm cha mẹ và gia đình tôi (lúc này máy bay Mỹ đánh phá, thả bom ở vùng phụ cận Hà Nội nhiều hơn. Cả nhà tôi đi sơ tán hết, chỉ còn cha mẹ tôi “bám trụ” ở Hà Nội, chưa chịu đi sơ tán vì ở căn nhà đó bố tôi nói trú ở dưới gầm cầu thang có khác chi một căn hầm chống máy bay Mỹ ở trên đường phố).

Anh Sáu Hung thay mặt đơn vị biếu bố tôi một gói trà Ba Đình và một vài gói thuốc lá Thống Nhất bao bạc.

Ngồi một lúc nói chuyện với bố mẹ tôi, anh Sáu xin phép gọi riêng tôi ra ngoài sân, dặn tôi sáng mai khoảng 10g00 sẽ cùng anh ghé qua Ban Thống nhất Trung ương ở số 79 phố Hàng Trống, để tôi nhận hộ chiếu ngoại giao và nghe các anh trong Ban Thống nhất Trung ương dặn dò trước khi lên đường.

Ngày hôm sau, đúng 10g00 tôi đã có mặt tại Ban Thống nhất Trung ương. Anh Sáu Hung và tôi vào thẳng khu vực cấp hộ chiếu và visa làm thủ tục và ký nhận hộ chiếu.

Sau đó, một anh trong Ban Thống nhất Trung ương ra gặp anh Sáu Hung và tôi. Tôi không nhớ rõ tên anh, chỉ thấy anh Sáu gọi là anh Tư.

Chúng tôi nói chuyện với nhau rất thoải mái.

Anh Sáu giới thiệu với anh Tư về gia đình tôi và cá nhân tôi. Anh Tư nói anh quê ở Sài Gòn, anh Sáu ở ngay sát Sài Gòn, vùng Trảng Bàng - Củ Chi. Hai anh có vẻ rất thân với nhau. Các anh còn động viên tôi ráng công tác một vài năm. Biết đâu có cơ hội, ba anh em sẽ gặp lại nhau tại Sài Gòn.

Về chuyến đi công vụ “đặc biệt” vào chiến trường kỳ này, đoàn của tôi có ba người mang tư cách là phái đoàn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra thăm miền Bắc, quay trở về vùng giải phóng ở miền Nam Việt Nam, xin “transit” ở Phnom Penh (lúc này cơ quan đại diện Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Văn Hiếu làm trưởng đại diện, vì chỉ sau khi thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam vào năm 1969, cơ quan đại diện của mặt trận mới được nâng lên cấp đại sứ).

Đoàn của chúng tôi đi chuyến bay dân sự của hãng Air France ngày 17 tháng 12 năm 1967, khởi hành buổi chiều khoảng 16g30 từ Quảng Châu (Trung Quốc) đi Phnom Penh (Campuchia).

Anh Tư cho tôi hay trong đoàn gồm ba người, chỉ duy nhất có mình tôi là trưởng đoàn nên mới có hộ chiếu ngoại giao (diplomatic passport), còn hai thành viên kia mang hộ chiếu công vụ (civilian passport).

Tôi được anh Tư dặn rất kỹ với loại hộ chiếu ngoại giao, theo quy định quốc tế, tôi được hưởng nhiều đặc quyền của nhà ngoại giao và đặc biệt tôi có thể mang rất nhiều hành lý, nhưng cơ quan sở tại ở nước bay đi (departure) cũng như nước bay đến (arrival) không được phép khám xét người và hành lý.

Riêng với hộ chiếu công vụ, ở nước sở tại các cơ quan có thẩm quyền có thể khám xét người cũng như bất kỳ hành lý gì, và nếu mang đồ trái quy định, có thể bị tịch thu và trong trường hợp cần thiết, có thể bị tạm giam để điều tra.

Riêng hai thành viên cùng đi trong đoàn gồm ba người, anh Tư thay mặt Ban Thống nhất Trung ương giao nhiệm vụ cho tôi rất chi tiết.

Thành viên đầu tiên là Đại tá Phạm Hồng Sơn, Cục trưởng Cục Quân huấn, Bộ Tổng tham mưu (sau này là Trung tướng).

Anh Phạm Hồng Sơn không đi cùng chúng tôi mà trực tiếp đáp máy bay đi thẳng từ Hà Nội đến Quảng Châu và nghỉ ngơi tại Tổng Lãnh sự Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chờ đoàn chúng tôi đi xe lửa tới.

Thành viên thứ hai là chú Hai Mai (thông thường đây là bí danh, còn tên thật của chú, tôi không được biết).

Mới gặp chú, tôi đã có cảm tình ngay. Chú rất thân mật, coi tôi như con cháu trong nhà. Tôi nghe nói trong kháng chiến chống Pháp, hình như chú hoạt động ở tỉnh Bến Tre. Tập kết ra bắc, không hiểu chú làm công tác gì, nhưng chú được cấp một căn hộ khá đẹp ở phố Phan Bội Châu, đoạn gần phố Lý Thường Kiệt (tôi đã đến thăm căn hộ của chú).

Anh Tư nói bố trí tôi làm trưởng đoàn thực ra là giao cho tôi nhiệm vụ bảo vệ “hai thành viên” này trên suốt chặng đường đi công tác “đặc biệt” này.

Anh Tư dặn đi dặn lại nhiều lần đồ đạc tôi mang vào nam khá nhiều, cả hơn một chục thùng lớn nhỏ, có niêm phong cẩn thận, và có ghi điểm đến là cơ quan đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ở Phnom Penh (Campuchia).

Trên chặng đường đi, tôi còn phải trực tiếp mang những đồ “cơ mật” cho hai thành viên VIP, không được phép để bị thất lạc.

Anh Tư còn nêu tình huống trên đường bay, mặc dù là đường bay quốc tế, khi đi qua địa phận nam Việt Nam, có thể có nghi vấn, máy bay Mỹ bay lên chặn, bắt hạ cánh xuống đất nam Việt Nam để kiểm soát, thì lúc đó tôi phải làm gì để đối phó với đối phương, tuyệt đối bằng mọi giá không được phép rời khỏi máy bay và tìm cách thủ tiêu tài liệu “mật” ra sao cho không bị lộ v.v…

Anh Tư nói trường hợp này rất hạn hữu xảy ra, nhưng trong công tác phải nêu ra thật tỉ mỉ để khi tình huống xảy ra không bị bất ngờ và có biện pháp giải quyết thật dứt khoát và nhanh chóng kết thúc ngay, không để bị “đẻ số” sang tình huống khác.

Anh Tư kết luận:

“Anh tin Hùng sẽ làm tốt, đặc biệt nhanh nhẹn, giỏi tiếng Anh là những phương tiện cứu cánh trong những tình huống đặc thù đấy, em ạ!”.

Tôi nghe anh Tư căn dặn mà “toát mồ hôi”, nhưng tôi nghĩ tôi sẽ vượt qua được mọi tình huống bất trắc có thể xảy ra trên đường đi công tác.

Ngày 10 tháng 12 năm 1967, tôi trở lại đơn vị (góc Ô Chợ Dừa) nhận đồ đạc cho chuyến công tác. Tôi có đầy đủ trang thiết bị cho một chiến sỹ giải phóng quân (đi B) gồm quần áo, màn, võng, vải áo mưa, tăng để căng trên võng ban đêm, bình toong Trung Quốc, bát đũa, thìa ăn cơm, nước mắm khô, lương khô, mì-chính, tiêu v.v… Bên cạnh đó, tôi còn được phát thêm một bộ complé màu beige (màu be), một cravat màu đỏ và một đôi giày đen rất mốt (thời đó là giày mũi thuyền) để mặc đi công tác sang Trung Quốc và Campuchia.

Theo tiêu chuẩn đi B, tôi được mua một đồng hồ hiệu Poljot của Liên Xô. Tôi đã mua và đưa cho mẹ tôi để gửi tặng cho em Kim Định, cô em gái rất thân với tôi.

Ngày 12 tháng 12 năm 1967, sau bữa cơm chiều với bố mẹ và chị Chi ở 123 Bùi Thị Xuân, tôi từ biệt gia đình, mang theo tất cả hành trang của lính giải phóng nhét vào một va-ly vải bạt được cấp, lên xe mô tô quân đội đến địa điểm tập trung trước Đài Tiếng nói Việt Nam, số 58 phố Quán Sứ, phường Hàng Bông, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Tới phố Quán Sứ, tôi thấy đông vô cùng những anh chị sinh viên, nghiên cứu sinh được xét, đi học kỹ sư, phó tiến sĩ ở các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Ba Lan, Hungary, Rumanie, Đức, Tiệp v.v… với đủ các loại va-ly, túi xách, ăn mặc sang trọng, đang tíu ta tíu tít, nói nói, cười cười vui vẻ. Xa xa, tôi cũng thấy có một vài cặp vợ chồng, tình nhân chia tay nhau bịn rịn, nước mắt ràn rụa trong cảnh “kẻ ở”, “người đi TÂY”, không như lính chúng tôi, ra đi “đánh nhau” không có ai được phép đến chia tay, từ biệt cả. Hóa ra đoàn chúng tôi “phải quá giang” (đi nhờ) chuyến tàu liên vận quốc tế của các anh, các chị “được diễm phúc đi tây du học” sang Liên Xô và các nước Đông Âu, đến một đoạn tàu tránh, chúng tôi phải rời chuyến tàu liên vận quốc tế này để chờ được chuyển sang tàu chợ (tàu dân) đi xuống Quảng Châu.

Tôi lách đoàn sinh viên, nghiên cứu sinh cười nói ồn ào này sang góc bên đường gặp anh Sáu Hung.

Tại đây, tôi đã thấy anh Sáu đã sắp xếp hơn một chục thùng và vài chiếc va-ly to rất ngay ngắn để gửi lên tàu liên vận cho tôi với nhãn dán bên ngoài là “Mr. Nguyễn Tiến Hùng, Phái đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, địa chỉ tại tòa đại diện mặt trận tại đại lộ Samdec Pan (nếu tôi nhớ không nhầm), Thủ đô Phnom Penh (Campuchia)”.

Chú Hai Mai bắt tay tôi và cho biết chú đã đứng chờ ở đây cả tiếng rồi. Tôi hỏi chú sao không thấy Đại tá Phạm Hồng Sơn ở đây, chú trả lời anh Sơn đi theo đường riêng đến Quảng Châu, không đi với chúng tôi và hẹn sẽ gặp lại tại Quảng Châu để cùng đi chuyến bay đến Phnom Penh vào chiều 17 tháng 12 năm 1967.

Sau khi gửi xong đám hành lý “cồng kềnh” của tôi, anh Sáu Hung ôm hôn tôi và chú Hai Mai, chúc chúng tôi thượng lộ bình an, rồi đưa chúng tôi lên một chiếc xe vận tải hành khách để đi cùng đoàn sinh viên, nghiên cứu sinh lên Lạng Sơn. Sở dĩ phải đi bằng xe vận tải hành khách, không đi xe lửa vì thời gian này Mỹ ném bom liên tục, đi xe vận tải dễ lạng lách, đỡ nguy hiểm hơn.

Tới Lạng Sơn, chúng tôi làm thủ tục nhập cảnh Trung Quốc, nhận lại hàng hóa ở Việt Nam và gửi lại số hàng hóa trên sang tàu liên vận quốc tế Trung Quốc.

Chúng tôi lên tàu liên vận Trung Quốc đi thẳng một mạch từ Lạng Sơn đến nhà ga xe lửa của thành phố Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc vào lúc 07g00 sáng.

Đi “ké” tàu liên vận quốc tế…

Trên chuyến tàu liên vận “đi ké” này, mặc dù đoàn chúng tôi chỉ có hai người (tôi và chú Hai Mai), nhưng đoàn chúng tôi là đoàn “đặc biệt” nên được sắp xếp ở một khu riêng (apartment) dành cho khách VIP, ăn ngày ba bữa, sáng, trưa và chiều, đại diện nhà hàng đem menu đến để khách chọn (à la carte), còn các anh chị sinh viên, nghiên cứu sinh ở toa tàu rất đông, có giường hai tầng và ăn uống phải xuống toa xe nhà hàng, ăn theo tiêu chuẩn “ta đặt hàng” trên đường đi “Tây”.

Tôi nghe nói chú Hai Mai đã từng công tác nhiều năm tại đất nước này, nên chú nói tiếng Trung Quốc khá rành. Chú Hai nói chú sẽ chọn cho tôi ăn món của Tàu ngon nhất để bồi dưỡng trước khi vào chiến trường.

Quả thật đang ở Việt Nam ăn uống cực khổ, nay sang Trung Quốc, lại được chú Hai chọn món ăn, tôi không thể nào chê cho nổi vì quá ngon.

Đúng như các cụ ta thường nói “cơm Tàu, vợ Nhật, ở nhà Tây”! Tôi thầm nghĩ: “Cơm Tàu thì không chê được rồi; Ở nhà Tây thì coi như ở Hà Nội gia đình tôi cũng đang ở một ngôi nhà xây theo kiểu của “Tây” mà, còn vợ Nhật thì chưa biết ra sao…”.

Chú Hai Mai còn dặn tôi buổi tối, nếu đói, cứ bấm chuông để kêu bồi đến. Muốn ăn món gì chú gọi cho. Thôi thì đủ mọi thứ, nào là bánh bao, xôi, mỳ hoành thánh, phở Quảng Đông, mỳ xào giòn, mỳ áp chảo, vịt tiềm v.v… Tôi tranh thủ bốn ngày trên xe lửa, bồi dưỡng liên tục, ăn cho đỡ “thèm”.

Một điều rất đặc biệt là một vài anh nghiên cứu sinh cũng khá bảnh trai, cao lớn, đã từng biết chú Hai Mai ở Hà Nội, nên sang thăm chú. Trong số này, nếu tôi nhớ không nhầm, có anh Sỹ Nhơn và anh Thạch.

Một điều rất đặc biệt và vô cùng bất ngờ nữa là sau chiến tranh, thời gian về làm việc ở Đài Truyền hình Sài Gòn Giải phóng, tôi gặp lại anh Sỹ Nhơn. Lúc đó, anh là Trưởng phòng Nghiên cứu và Phát triển, một phòng rất quan trọng cho sự phát triển của ngành truyền hình trong tương lai. Riêng anh Thạch, tôi không có dịp gặp lại.

Khi các anh đến chơi, chú Hai có viết đề tặng cho các anh mỗi người một cuốn tiểu thuyết “Bà mẹ cầm súng ” của nhà văn Nguyễn Thi.

Khi các anh về phòng ngủ, chú Hai nói với tôi sở dĩ chú tặng mấy anh cuốn sách đó để mấy anh sống ở nước ngoài, khi cầm đọc cuốn sách, còn nhớ đến miền Nam, nhớ đến bà con ở trong nước đang cơ cực lắm!

Đi “ké” đoàn tàu liên vận quốc tế đến một nhà ga lớn (đến nay tôi quên tên nhà ga), nơi có bán rất nhiều táo tây và lê rất ngon và rất rẻ, chúng tôi từ biệt các anh, các chị du học sinh, xuống ga để chờ đoàn tàu “chợ” (tàu chở dân bình thường, không phải tàu chở khách quốc tế) đi Quảng Châu.

Tại nhà ga này, vì đoàn của tôi là đoàn VIP nên ban giám đốc nhà ga đưa xe hơi ra đón, mời tôi và chú Hai đến nghỉ tại một khách sạn sang trọng, phục vụ ăn sáng rất nghiêm túc.

Chú Hai nói tiếng Trung Quốc, yêu cầu cho đoàn chúng tôi đi gấp về Quảng Châu.

Ông giám đốc nhà ga cho biết có nhiều chuyến tàu đi về Quảng Châu, nhưng ông phải điện xin cấp trên cho đoàn đi chuyến nào cho thích hợp.

Ông giám đốc nhà ga yêu cầu chúng tôi điền vào một phiếu của đường sắt Trung Quốc, bao gồm tên tuổi, chức danh, cơ quan v.v...

Ăn sáng xong, vì quá mệt, tôi vừa nằm thiếp đi một lúc thì chú Hai gọi tôi dậy, chuẩn bị lên tàu chợ vào lúc 12g00 ngày 16 tháng 12 năm 1967.

Chuyển sang “tàu chợ” để đi Quảng Châu

Chú Hai nói cho tôi hay ông giám đốc nhà ga đã điện về Bắc Kinh hỏi và họ cho phép chúng tôi đi, nên mới giải quyết sớm như vậy.

Lúc này ở Trung Quốc có lực lượng Hồng vệ binh biểu tình suốt ngày, tình hình an ninh một số tỉnh và thành phố không được ổn định như trước kia.

Tôi còn nhớ từ khách sạn đi đến nhà ga, tôi mặc bộ complé màu beige (màu be) may theo mốt lúc đó bó sát người, quần ống túm, thắt cravat đỏ, đi giày “thuyền dài, nhọn hoắt”, thấy có đoàn Hồng vệ binh đang đi biểu tình, hô khẩu hiệu, đi bên là một người lớn tuổi, có lẽ là chính trị viên. Chú Hai Mai nhắc tôi đeo ngay huy hiệu Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam vào ve áo.

Khi tôi và chú Hai bước xuống xe hơi để vào sân ga lên tàu chợ đi Quảng Châu, ba Hồng vệ binh tiến đến gần tôi, nhìn trước nhìn sau. Tôi bình tĩnh, coi thử xem họ định làm gì. Tôi nghĩ thầm chắc sắp đến màn “cắt quần ống túm”, chặt “giày thuyền nhọn hoắt” gốc gác của nền văn hóa “tư bản, đế quốc” đây, rồi sẽ lại xin chụp tấm ảnh làm kỷ niệm như trên một tờ báo phương Tây tôi đã được đọc.

Nhưng không, họ nhìn thấy tấm huy hiệu Đoàn có lá cờ Việt Nam đeo trên ve áo veston của tôi rồi nói lớn: “Việt Nam!”, tôi trả lời: “Việt Nam”. Họ nói tiếp: “hảo, hảo, Hồ Chí Minh!, Hồ Chí Minh!”, rồi bắt tay tôi và chú Hai Mai, ân cần đưa chúng tôi lên xe lửa để đi Quảng Châu.

Sau khi ngồi yên vị trên xe lửa, chú Hai Mai mới nói với tôi uy tín của Việt Nam trong cuộc chiến đấu hiện nay ở miền Nam với nhân dân thế giới lớn vô cùng, đến đám Hồng vệ binh này cũng kính nể.

Đi tàu chợ, chúng tôi không còn được bố trí phòng VIP riêng, ngồi chung với dân thường và ăn chung với họ. Chú Hai có nhận xét tuy đám Hồng vệ binh có nhũng nhiễu dân, nhưng cuộc sống của người dân thường (qua ăn uống, tiêu xài trên xe lửa) vẫn ổn định như hồi chú còn công tác ở Trung Quốc.

Đúng 19g00 chúng tôi đến Quảng Châu. Anh Mẫn, phụ trách Tổng Lãnh sự quán Việt Nam ra tận ngoài sân ga đón chú Hai Mai và tôi, rồi đưa thẳng chúng tôi về tòa nhà của tổng lãnh sự.

Tại đây chúng tôi gặp anh Phạm Hồng Sơn. Anh đã đến đây được hai ngày và đang chờ chúng tôi để đi chuyến bay chiều mai đến Phnom Penh.

Ăn chiều xong, tôi và chú Hai nghỉ sớm cùng một phòng để ngày mai đi tiếp chặng đường cuối cùng.

Sáng hôm sau (17 tháng 12 năm 1967), chú Hai Mai nói anh Mẫn cho mượn xe chở chú Hai và tôi đi dạo Quảng Châu một vòng trước khi chúng tôi từ biệt đất nước Trung Quốc để về quê hương miền Nam.

Trên đường đi, chú có mua một số đồ để nhờ anh Mẫn gửi về tặng cho một vài người thân đang công tác tại Hà Nội. Chú Hai Mai nhìn tôi thấy tội nghiệp bèn nói:

“Hùng ơi! Chú còn tiền nhân dân tệ. Cháu có muốn mua đồ gì gửi về Hà Nội cho cha mẹ và gia đình, thư từ gì thì cứ đưa cho chú để nhờ tổng lãnh sự gửi về Hà Nội cho”.

Tôi cám ơn chú và nói không cần mua và gửi gì về nhà cả. Sở dĩ như vậy vì trước khi đi, cả Cục Tình báo (qua anh Sáu Hung) lẫn Ban Thống nhất trung ương (qua anh Tư) đều dặn tôi không được để lộ một chút gì về chuyến công tác này cho bất kỳ một ai hay biết. Trên đường đi, tuyệt đối không được phép liên lạc với gia đình và bạn bè ở Hà Nội.

… lên máy bay Air France đến Phnom Penh

Chiều ngày 17 tháng 12 năm 1967, đoàn chúng tôi gồm ba người (đây là lần đầu tiên chúng tôi ráp lại với nhau thành một đoàn) được xe của Tổng Lãnh sự Việt Nam đưa ra sân bay Quảng Châu để đáp chuyến bay dân sự của hãng hàng không Pháp (Air France) đi Phnom Penh, thủ đô Campuchia, cất cánh dự đoán vào khoảng 16g00.

Làm thủ tục ở sân bay Quảng Châu qua cổng an ninh và hải quan xong, đoàn chúng tôi được đưa đến một đại sảnh để nghe một đại diện Hồng vệ binh giới thiệu về những thành tựu của “Cách mạng văn hóa ở nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” bằng tiếng Anh. Sau đó toàn bộ hành khách trong chuyến bay tới đến Phnom Penh được “chiêu đãi” xem một số tiết mục đặc sắc của một đoàn văn công tỉnh Quảng Châu.

Theo một quan chức ở sân bay nói với chú Hai Mai, đây là thủ tục bắt buộc đối với các đoàn khách nước ngoài trước khi rời khỏi đất nước “Trung Hoa vĩ đại của Chủ tịch Mao Trạch Đông”.

Sau khi dự xong buổi biểu diễn văn nghệ, chúng tôi được đưa lên máy bay của Hãng hàng không Pháp (Air France) để ổn định chỗ ngồi và chính thức cất cánh lúc 16g45.

Hãng hàng không Pháp thông báo thời gian bay trong khoảng hai giờ.

Đây là lần đầu tiên trong đời tôi được “đi” máy bay. Tôi đâu có thể ngủ được, thấy cái gì cũng lạ, cứ “trố” mắt ra nhìn.

Trên chuyến bay, các tiếp viên hàng không phục vụ rất ân cần, bữa ăn trên đường đi ăn theo “gout” của Pháp, rất ngon.

Anh Phạm Hồng Sơn lên máy bay là ngủ ngay lập tức. Chú Hai Mai ngồi cạnh tôi, nói cho tôi nghe đủ chuyện, kể cả chuyện vợ chú và gia đình ở Bến Tre.

Khoảng gần 18g00, máy bay từ ngoài biển cắt vào đất liền qua khu vực Tây Nguyên. Anh Phạm Hồng Sơn tỉnh dậy, nhìn qua kính cửa sổ máy bay, chỉ cho tôi và chú Hai Mai những đường đạn bắn loằng ngoằng, sáng rực ở phía dưới, rồi nói chắc ở dưới đó đang đánh nhau to.

Trong vai “người của Professor Hiếu”

Đúng 18g45 máy bay hạ cánh xuống sân bay quốc tế Pochentong, Thủ đô Phnom Penh của Vương quốc Campuchia. Từ trên máy bay nhìn xuống thủ đô về đêm (Phnom Penh by night) rất đẹp.

Tôi như một thằng “ngố”, mất hồn trước cảnh đẹp đến ngây ngất và vô cùng thanh bình của một thủ đô thật tráng lệ, đèn đuốc “rợp trời” về đêm.

Cùng với các hành khách trên máy bay, chúng tôi bước vào nhà ga để làm thủ tục an ninh và hải quan. Đoàn của chúng tôi là đoàn VIP nên được mời ra làm riêng, không mất thời gian như những hành khách khác.

Tôi bước đến trao đổi bằng tiếng Anh với các sĩ quan an ninh và nhân viên hải quan, và đề nghị họ làm thủ tục sớm cho cả đoàn.

Sau đó, họ cho nhân viên khuân vác hành lý của chúng tôi đặt riêng một góc. Tôi kiểm tra các kiện hàng đầy đủ, cám ơn viên sỹ quan an ninh về sự giúp đỡ chân tình của ông ta. Tiếp theo đó, cả đoàn chúng tôi kéo nhau ra một ghế gần đó ngồi đợi người của mặt trận cử ra đón ở ngay khu vực để hành lý của sân bay.

Đúng 20g00, một đại tá cảnh sát phụ trách an ninh sân bay quốc tế Pochentong trông rất oai vệ đến gặp tôi, thông báo cho biết khu vực này sắp đến giờ đóng cửa và yêu cầu tôi cho di dời số hành lý “khổng lồ” của đoàn ra khỏi khu vực ngay lập tức. Nếu cần thiết, ông ta có thể giúp tôi gọi taxi đến chuyên chở hành lý và đoàn rời khỏi sân bay.

Cả đoàn không biết giải quyết ra sao. Chú Hai Mai và anh Hồng Sơn ngồi yên lặng, không nói gì.

Tôi nói với đại tá cảnh sát rằng chúng tôi là phái đoàn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và tôi đang chờ đại diện của Mặt trận ra đón.

Lúc đầu, ông đại tá cảnh sát có vẻ không tin, yêu cầu tôi cho kiểm tra lại hộ chiếu ngoại giao. Tôi đưa cho ông xem hộ chiếu của tôi.

Lật đi lật lại, xem rất kỹ hộ chiếu, rồi ông hỏi tôi bằng tiếng Anh:

“Ông là người của Professor Nguyễn Văn Hiếu?”

Tôi trả lời:

“Dạ, thưa ông đúng tôi là người của giáo sư Hiếu.”

Ông đại tá nói tôi chờ, rồi quay điện thoại cho tòa đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam nói một tràng tiếng Pháp. Sau đó, ông mời tôi vào trong phòng làm việc của ông để nói chuyện trực tiếp với Professor Nguyễn Văn Hiếu.

Tôi bước vào phòng làm việc của ông đại tá, cầm điện thoại nói chuyện với giáo sư.

Anh Tư Hiếu rất mừng khi nghe tin đoàn đã đến Phnom Penh, và cho tôi biết anh Tư đang rất sốt ruột, ngồi chờ điện của Tổng Lãnh sự Quảng Châu mà đến giờ này vẫn bặt tăm hơi, không tài nào có thể liên lạc được.

Anh Tư dặn tôi dứt khoát không được phép rời khỏi sân bay, chờ xe cắm cờ Mặt trận giải phóng đến mới được đi. Nếu có chuyện gì, tìm mọi cách gọi lại điện thoại cho anh Tư ngay để kịp xử lý.

Tôi nói với viên đại tá cảnh sát rằng Giáo sư Nguyễn Văn Hiếu rất cám ơn về sự chân tình của đại tá và đang cho xe ngoại giao ra đón chúng tôi.

Ông đại tá cảnh sát rất vui khi nghe tôi nói như vậy và ông cho lính dọn đồ giúp chúng tôi ra phía ngoài để chờ xe của mặt trận đến đón.

Sở dĩ ông đại tá cảnh sát rất hài lòng nghe tôi nói anh Tư gửi lời cám ơn, vì tuy tòa đại diện mặt trận mới hình thành từ đầu năm 1963 (mới được khoảng 04 năm), nhưng uy tín cả về chính trị lẫn ngoại giao rất lớn. Rất nhiều vấn đề về biên giới giữa hai nước Việt Nam - Campuchia được giải quyết tốt đẹp cũng nhờ mối quan hệ giữa chị Hai Việt Kiều và Hoàng Cô, và mối tình bạn thân thiết hồi còn đi học giữa anh Tư Hiếu và Đức Quốc trưởng Norodom Sihanouk.

Tôi cũng báo cáo lại chú Hai Mai và anh Phạm Hồng Sơn về ý kiến của anh Tư Hiếu. Mọi người đều cười, rất vui vẻ.

Chưa đầy 20 phút sau, hai chiếc xe của mặt trận, trong đó có chiếc xe Mercedes đen bóng nhẫy của anh Tư Hiếu cắm cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã đến sân bay.

Anh Bảy (công tác tại tòa đại diện mặt trận ở Phnom Penh) bước ra khỏi xe chào đón chúng tôi. Anh Bảy không quên ghé qua cám ơn đại tá cảnh sát đã giúp đoàn chúng tôi ở sân bay. Đại tá cảnh sát vô cùng cảm động, đến bắt tay từ biệt từng người trước khi đoàn chúng tôi lên xe về tòa nhà đại diện của mặt trận ở đại lộ Samdec Pan.

Khoảng 21g00 chúng tôi về đến tòa đại diện của mặt trận ở đại lộ Samdec Pan. Anh chị Tư Hiếu và tất cả anh chị em đang sống và làm việc tại cơ quan ra ngoài cổng chào đón và đưa chúng tôi vào ngay phòng khách của mặt trận.

Anh Tư bắt tay các anh Phạm Hồng Sơn, chú Hai Mai và quay sang ôm hôn tôi.

Anh cười, nói:

“Bữa nay Hùng giỏi quá! Em làm cách nào mà để đại tá cảnh sát phụ trách sân bay phải gọi điện thoại trực tiếp cho anh?”.

Tôi kể tất cả mọi chuyện xảy ra và yêu cầu của ông đại tá cảnh sát phụ trách sân bay. Khi ông đề nghị dọn dẹp đống hành lý quá “cồng kềnh” của đoàn để đóng cửa khu vực nhận hành lý của chuyến bay Quảng Châu - Phnom Penh vì đã quá muộn, và nói sẽ giúp tôi gọi taxi đến để chở cả đoàn và hành lý về thành phố, tôi liền từ chối và nói ngay đoàn đang chờ xe của tòa đại diện của Mặt trận ở Phnom Penh ra đón.

Anh Tư cười và nói ở nhà, anh chị và mọi người lo muốn chết. Nếu Hùng đồng ý cho ông đại tá gọi giúp taxi đến chở về trung tâm thành phố, thì có lẽ bây giờ “cả đoàn” đang được “đón tiếp long trọng” ở tòa Đại sứ Việt Nam Cộng hòa của Nguyễn Văn Thiệu rồi, vì ở đây nói đi đến tòa đại sứ Việt Nam, đương nhiên taxi sẽ chở ngay đến Tòa Đại sứ Sài Gòn vì họ quen như vậy từ lâu rồi.

Anh Phạm Hồng Sơn hỏi tôi học tiếng Anh ở đâu mà khi ở sân bay nói tiếng Anh với ông đại tá cảnh sát hay và lưu loát như vậy. Tôi nói tôi học ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Anh Sơn nói bây giờ chiến trường nào cũng cần càng nhiều càng tốt anh chị em biết tiếng Anh để phục vụ cho tác chiến.

Trên đường đi vào chiến trường Nam Bộ, qua cung đường “đặc biệt” vòng vèo từ miền Bắc sang đất Trung Quốc, rồi quẹo xuống đất Campuchia này, tôi học được rất nhiều điều trong cuộc sống mà ở trường đại học các thầy, các cô đâu có dạy.

Mỗi lần nhớ lại những điều chú Hai Mai tâm sự trên xe lửa ở Trung Quốc, tôi lại nghĩ: “Chú Hai nói đúng đấy. Giờ đây, tôi phải tập trung sức lực lo cho công việc sắp tới ở chiến trường. Cuộc đời tất cả là do Mr. God định hết!”.

Chị Tư (tức Dược sĩ Mã Thị Chu) nói:

“Suýt nữa đi chặng đường vô cùng vất vả mới đến được chỗ này mà cả đoàn lại để “thua đậm” trận đầu tiên thì đâu có được. Được như thế này là “hên” lắm rồi! Thôi, mời cả nhà vào bếp ăn mừng bằng cháo gà xé phay, rồi đi nghỉ cho lại sức”.

Mọi người cười vui vẻ, đi xuống bếp ăn cháo gà.

Sáng hôm sau, ngày 18 tháng 12 năm 1967, anh Bảy rủ tôi đi ăn hủ tiếu Nam Vang ở một tiệm rất nổi tiếng của gia đình chị Hai Việt Kiều (chị Hai Việt Kiều là bạn thân của Hoàng Cô, tức cô ruột Đức Quốc Trưởng Norodom Sihanouk). Khi quay trở về tòa nhà đại diện Mặt trận, tôi thấy anh chị Tư và mọi người làm việc ở cơ quan đang ngồi ở phòng khách, chuẩn bị nghe anh Phạm Hồng Sơn nói chuyện về tình hình thời sự trong và ngoài nước.

Tôi không gặp chú Hai Mai. Chắc chú đi ra ngoài chơi rồi. Anh Bảy sợ tôi buồn, cho tôi mượn một đài bán dẫn hiệu Sony để nghe tin tức trong nước và thế giới.

Tối ngày 18 tháng 12 năm 1967, anh Phạm Hồng Sơn và chú Hai Mai từ biệt tôi và các anh các chị ở cơ quan để sáng mai lên đường.

Ở tòa nhà mặt trận, anh chị Tư làm một bữa cơm thân mật để tiễn anh Phạm Hồng Sơn và chú Hai Mai.

Cùng dự bữa ăn thân mật này còn có anh Nghĩa, phụ trách Văn phòng Đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tại Indonesia.

Trong bữa cơm, anh Tư Hiếu và chị Mã Thị Chu nói rõ anh chị đã điện xin ý kiến của Trung ương Cục về trường hợp của tôi rồi.

Anh Tư cũng muốn xin giữ tôi ở lại làm việc tại Phnom Penh; anh Nghĩa xin tôi tới Jakarta, thủ đô của Indonesia, và anh Hồng Sơn muốn xin tôi về chiến trường B3 công tác, nhưng tất cả đều không được Trung ương Cục chấp nhận.

Trước mắt, tôi ở lại Phnom Penh nghỉ ngơi. Khi có điều kiện thích hợp (trong thời gian tôi được phép “transit” trong bảy ngày), tôi sẽ được đưa xuống chiến trường Nam Bộ.

Thế là mọi việc đã được giải quyết ổn thỏa, không có ai thắc mắc gì cả.

Sau bữa ăn chia tay, ngày hôm sau anh Phạm Hồng Sơn và chú Hai Mai lên đường vào vùng giải phóng. Từ đó trở đi, tôi không bao giờ được gặp lại hai thành viên “rất đặc biệt” trong chuyến đi công vụ “nhớ đời” của bản thân tôi.

Sau khi anh Phạm Hồng Sơn và chú Hai Mai về chiến trường, mọi người trong tòa nhà đại diện Mặt trận ở Phnom Penh lại bắt tay, náo nức chuẩn bị cho Lễ Kỷ niệm 07 năm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (20/12/1960 - 20/12/1967).

Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi được vinh dự đứng trên lầu cao cùng anh Nghĩa (Trưởng đại diện Mặt trận ở Indonesia), theo dõi một cách chăm chú, tường tận một buổi đón tiếp ngoại giao rất sang trọng kỷ niệm một ngày lễ lớn của dân tộc ta tại nước ngoài.

Từ buổi trưa tôi đã thấy rất nhiều người đến dọn dẹp, trang hoàng tòa đại diện. Anh Bảy cho tôi hay đây là các bác, các chú, các cô, các anh, các chị và các cháu Việt kiều đang sinh sống ở Thủ đô Phnom Penh đến giúp Mặt trận.

Khoảng 15g00, tôi xuống tầng trệt xem các anh, các chị có cần tôi giúp được gì không, nhưng bị từ chối. Các anh, các chị biết tôi mới từ Hà Nội sang và chuẩn bị vào chiến trường, nên khuyên tôi lên lầu nghỉ ngơi vì công việc anh chị Tư giao đã làm sắp xong hết rồi.

Tôi hỏi con gấu rất đẹp chị Tư nuôi ở ngoài vườn đã được dẫn đi đâu rồi?

Các anh, các chị cho hay phải đưa gấu vào chuồng vì tối nay tiết trời rất đẹp, dọn cả ngoài vườn để đãi khách. Hình thức tiệc kỷ niệm 07 năm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tối nay là tiệc đứng (cocktail party), khách có thể đi từ nơi này sang nơi khác, nói chuyện thoải mái, không phải ngồi cố định một chỗ, tự mình đi lấy rượu và đồ ăn.

Anh Bảy nói trong ngoại giao, loại tiệc này là thịnh hành nhất. Phóng viên nước ngoài rất thích loại tiệc này vì họ được tự do tiếp xúc mọi người, và chính tại bữa tiệc như thế này là “nguồn tin rất dồi dào” để họ “săn”.

Anh Nghĩa cho tôi biết đây là một trong những tòa đại diện của Mặt trận đầu tiên được đặt ở nước ngoài. Sau khi thành lập mặt trận, Chính phủ Vương quốc Campuchia đã công nhận tính chất pháp lý của Mặt trận, và đồng ý để Mặt trận đặt văn phòng đại diện của mình tại Thủ đô Phnom Penh bắt đầu từ năm 1963.

Tôi trở lại phòng ngủ trên lầu, ra balcon cùng anh Nghĩa để theo dõi buổi lễ kỷ niệm 07 năm thành lập Mặt trận được tổ chức vô cùng long trọng ở nước ngoài, tại thủ đô của một vương quốc láng giềng.

Từ 17g00 trở đi, chúng tôi đã thấy đoàn xe cảnh sát đến làm hàng rào, cấm xe lưu thông qua lại khu vực của tòa nhà đại diện, bảo đảm tuyệt đối an ninh cho buổi lễ.

Mặc dù tiệc khai mạc lúc 19g00, nhưng từ 17g45 trở đi chúng tôi đã thấy có những đoàn khách ngoại giao của các nước đã tới tòa nhà đại diện của Mặt trận.

Anh Nghĩa (cán bộ của Bộ Ngoại giao lâu năm, vợ đang dạy tiếng Nga ở một trường phổ thông trung học ở Hà Nội) giải thích cho tôi rõ mặc dù tiệc khai mạc lúc 19g00, nhưng theo luật ngoại giao, thông thường các đoàn ngoại giao của các nước thân thiết nhất với nước chủ nhà đến đầu tiên.

Đúng như anh nói, trước buổi lễ hơn một giờ, chúng tôi thấy các đoàn như đoàn của nước Cộng hòa Cuba (dưới thời của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cuba là Fidel Castro), đoàn của Vương quốc Lào (chính phủ đương nhiệm là Hoàng thân Souvanna Phouma), đoàn của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (dưới thời của Chủ tịch Kim Nhật Thành), đoàn của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (dưới thời của Chủ tịch Mao Trạch Đông), đoàn của Liên Xô, của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, và các đoàn của các nước đang đấu tranh dành độc lập tự do ở Châu Phi và Châu Mỹ La tinh đến chúc mừng Mặt trận.

Đoàn của nước Cộng hòa Pháp đến gần sát 19g00. Một số đoàn của các nước Tây Âu và Bắc Mỹ đến trễ hơn một chút.

Đúng 19g00, phái đoàn của Chính phủ Hoàng gia Campuchia đến dự.

Trưởng đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ở Phnom Penh là Giáo sư Nguyễn Văn Hiếu và phu nhân là Dược sĩ Mã Thị Chu ra ngoài cổng tòa nhà đại diện mặt trận đón khách.

Cặp vợ chồng anh Tư Hiếu ăn mặc vô cùng sang trọng. Anh Tư người tầm thước, dáng rất oai phong, mặc bộ complé màu đen, đứng cạnh chị Tư mặc áo dài nhung màu đen, quần lụa trắng, đeo kiềng vàng đẹp lộng lẫy, chào mừng các quý khách đến dự.

Anh Nghĩa đứng trên lầu với tôi cứ xuýt xoa, rồi nói:

“Hùng thấy cặp vợ chồng “đại sứ” Việt Cộng đẹp chưa, oai phong chưa? Tiếng Pháp của anh chị Tư thì khỏi phải chê, em ạ!”.

Sau khi phái đoàn của Chính phủ Hoàng gia tới, anh chị Tư bước vào sảnh lớn của tòa nhà để tiếp khách.

Lúc này, ngoài cửa giao cho một cán bộ khác đứng đón khách thay cho anh chị Tư.

Đứng trên lầu, thấy cảnh đón và tiếp khách nhộn nhịp, long trọng như vậy, anh Nghĩa nói với tôi rằng anh thật bất ngờ buổi kỷ niệm 07 năm ngày thành lập mặt trận lại quá thành công như vậy ở ngay một đất nước ngay sát cạnh Việt Nam Cộng hòa của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.

Anh Nghĩa cứ lẩm bẩm:

“Anh chị Tư giỏi thiệt!”

Bữa tiệc kéo dài đến 22g00 mới kết thúc. Mọi người, cả khách lẫn chủ, ai ai cũng vui vẻ ra về.

Trong bữa ăn cuối ngày, anh Tư nói anh rất vui và vô cùng bất ngờ về bữa tiệc đêm 20/12/1967 tại tòa “đại sứ Việt Cộng” ở Phnom Penh này. Tuy mới thành lập được 07 năm mà uy tín của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và sự ủng hộ của bạn bè quốc tế quá lớn!

Anh cho rằng sở dĩ được như vậy là do thành quả gặt hái được rất lớn của cuộc kháng chiến hiện nay của quân và dân ta. Ngồi ăn cơm, anh Tư kể chuyện vui về ông tướng, Tổng tư lệnh quân đội hoàng gia Campuchia.

Anh nói khi anh chị bước vào phòng khách thấy ông tướng đang đứng ngắm nghía bức tranh rất đẹp về một chiến sỹ giải phóng quân đang chuẩn bị bắn một trái đạn B40.

Anh chị bước lại, hỏi ông tướng bức tranh có ấn tượng đẹp với ông hay sao mà ông đứng ngắm hoài vậy. Ông tướng thành thật trả lời rất thích bức tranh này.

Anh Tư trả lời đúng kiểu cách của nhà ngoại giao. Anh khen ông Tướng đúng là có con mắt tinh đời của một nhà chỉ huy quân sự tài ba và anh kết luận rằng bức tranh quý như vậy để ở tòa nhà đại diện của mặt trận không xứng tầm, nhưng nếu bức tranh được để ở phòng khách của Ngài (chỉ ông tướng hoàng gia) chắc hẳn đấy mới là “địa chỉ chính xác” của bức tranh.

Ông tướng cảm thấy hãnh diện, vô cùng vui vẻ cám ơn anh chị Tư về những lời khen trên.

Cuối bữa ăn tối, anh Tư nói với anh Bảy để một vài bữa nữa, gói ghém bức tranh thật đẹp, rồi mang đến biệt thự của ông Tướng với tư cách cá nhân anh Tư gửi tặng.

Trưa ngày 23 tháng 12 năm 1967, chị Tư tổ chức cho cả cơ quan ăn bánh tráng cuốn rau và cá tra. Sáng hôm đó, chị nấu bếp đi chợ mua được một con cá tra ở Biển Hồ nặng gần năm ki-lô-gram. Chị Tư cho trát đất sét khắp con cá rồi cho vào lò nung. Cá chín thơm lừng, tung hết da, chỉ còn thịt ăn rất ngon.

Chị Tư nói trong bữa ăn:

“Ngày mai Hùng đi vào chiến trường. Chị cho Hùng ăn một món ăn “đậm” chất Nam bộ để làm kỷ niệm”.

Tôi cám ơn anh chị Tư và tất cả các anh, các chị trong cơ quan về thịnh tình trên của các anh, các chị.

Sau bữa ăn, chị Tư hỏi tôi ăn món Nam bộ có ngon không? Tôi chân thật trả lời chị Tư là cả đời tôi chưa bao giờ được ăn bữa ngon như vậy.

Về vùng giải phóng miền Nam Việt Nam

Đúng 08g00 sáng ngày 24 tháng 12 năm 1967 (hết hạn transit ở Campuchia 07 ngày), anh Bảy đưa tôi đi xuống biên giới Việt Nam - Campuchia, phía biên giới giáp tỉnh Tây Ninh, đi qua thị trấn Memot, cách tỉnh Kampong Cham khoảng 80 km. Cùng đi có một đại úy cảnh sát hoàng gia Campuchia.

Buổi trưa, sau khi ăn trưa ở thị trấn Memot, chúng tôi đi thẳng đến vị trí tập kết là một căn nhà lá tại biên giới.

Anh Bảy trao đổi riêng với anh phụ trách đón tiếp ở trạm, ký kết bàn giao tôi cho trạm biên giới với đủ chữ ký của ba bên gồm anh Bảy, ông đại úy cảnh sát hoàng gia và anh thủ trưởng trạm đón tiếp.

Anh Bảy quay lại dặn tôi thay quần áo bộ đội. Toàn bộ đồ tôi đang mặc gồm bộ complé, cravat, hai áo chemise và đôi giầy, hai đôi tất, gói lại kỹ càng để anh mang về Phnom Penh giặt rũ sạch sẽ, cất đi trong kho dành cho anh em khác từ chiến trường đi công tác nước ngoài sử dụng.

Thế là tôi lấy lại chiếc ba lô và mọi đồ đạc được cấp cho một lính giải phóng quân vào chiến trường, gửi lại một va-ly tôi đã để đồ và tất cả toàn bộ quần áo được cấp cho tiêu chuẩn “đi nước ngoài” của tôi để anh Bảy mang về Phnom Penh.

Tôi từ biệt anh Bảy, ông đại úy cảnh sát hoàng gia và cám ơn anh Bảy và thông qua anh, đến toàn bộ anh chị em trong cơ quan về tình cảm rất đặc biệt của các anh, các chị trong cơ quan đại diện của mặt trận đối với tôi trong thời gian một tuần “transit” tại Phnom Penh.

Ngay chiều tối ngày 24 tháng 12 năm 1967, sau khi ăn cơm chiều và ngồi uống trà “Con Cua”, hút thuốc ARA, đúng 18g30 chúng tôi hành quân về căn cứ của Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.

Đưa tôi về căn cứ phòng Quân báo, Bộ Tư lệnh Quân giải phóng Miền, có mười anh em khá lực lưỡng, được trang bị đầy đủ, ngoài súng AK còn có một khẩu B40. Tôi tự mang đồ đạc cá nhân. Riêng ba va-ly lớn bằng vải bạt, anh thủ trưởng trạm đón tiếp giao cho mười anh em thay nhau mang.

Tôi hỏi đồ đạc tôi mang vào nhiều lắm, sao bây giờ chỉ còn ba va-ly. Anh thủ trưởng trạm cho hay chắc ở Phnom Penh đã phân phối đi các nơi rồi. Riêng ba va-ly này của Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.

Chúng tôi đi hành quân trong đêm, người này bám người khác, ít sử dụng đèn pin. Trên đường đi, đôi lúc nghe thấy tiếng pháo bắn và tiếng bom rơi. Thỉnh thoảng có một máy bay trinh sát L19 (anh em gọi là “đầm già”) bay chậm chạp trinh sát trên không. Phát hiện thấy nơi nào đỏ lửa là “đầm già” gọi pháo câu ngay.

Đi suốt một đêm đến gần 04g00 sáng anh em nói với tôi nghỉ khoảng 30 phút cho đỡ mệt vì cả đoàn đã đến chốt Ông Hổ rồi, sắp về đến nơi rồi. Tôi đưa thuốc ARA của anh Bảy cho để mời anh em hút. Tôi hỏi tại sao lại gọi là chốt Ông Hổ mà có thấy ai gác đâu. Anh em cho tôi biết trước kia có chốt gác, nay bỏ rồi.

Anh em thấy tôi vui vẻ, mới tâm sự ngay ở đơn vị khi cử tụi em gồm mười đứa trang bị súng ống đầy đủ để đón một cán bộ từ Hà Nội vào qua đường Phnom Penh của Campuchia, tụi em vô cùng háo hức.

Các chú phụ trách đơn vị còn dặn đi dặn lại phải bảo vệ chu đáo cho chú cán bộ và đồ đạc của chú ấy mang ở miền Bắc vào. Trên đường đi phải dãn cách, không đi túm năm tụm ba, cẩn thận thám báo phát hiện.

Khi đến trạm tiếp đón biên giới, chúng em hết hồn khi thấy anh cao lớn, đẹp trai, tuổi hơn chúng em độ một vài tuổi. Tụi em, đứa nọ đưa mắt nhìn đứa kia, kính trọng anh hết mức. Từ trước đến giờ, ra trạm đón về toàn các bác, các chú già, đâu có ai trẻ như anh đâu.

Trời đất ơi! Thật tội nghiệp cho anh em đồng đội của tôi vì thực ra cái thằng tôi cũng chỉ là một thằng lính “lác”, đóng vai một ông VIP chứ tôi có biết cái quái gì đựng ở trong những chiếc va-ly đó đâu. Vấn đề mấu chốt là mấy cái va-ly “đặc biệt” có gắn tên tuổi tôi “đàng hoàng” và được mang theo tôi như hình với bóng trên suốt cuộc hành trình dài, đầy trắc trở và cam go, quan trọng đến mức cấp trên phải cử gần một tiểu đội có trang bị vũ khí đầy đủ “áp tải” những chiếc va-ly vải bạt khổng lồ đó về Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam thật an toàn.

Nghỉ một lúc, chúng tôi đi tiếp đến khoảng gần 07g00 đến trạm của anh Sáu Tới (vòng ngoài của Phòng Quân báo, Bộ Tư lệnh Miền). Tất cả anh em bàn giao tôi và toàn bộ ba va-ly lớn bằng vải bạt cho anh Sáu Tới, rồi chào từ biệt tôi để về đơn vị. Tôi cám ơn các em và dúi cho các em hai gói ARA của anh Bảy cho tôi khi còn ở đất Campuchia.

Khoảng 08g00 một anh to lớn đạp xe tới chỗ anh Sáu Tới. Tôi chắc anh phải là cấp lớn. Điều tôi đoán không sai. Anh chính là anh Sơn Bích (anh Năm Bích), Trưởng phòng Quân báo, Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.

Nghe anh Sáu Tới báo cáo, anh Năm đi đến chỗ tôi, tự giới thiệu anh và nói anh rất mừng tôi đã về đơn vị an toàn.

Anh Năm lệnh cho anh Sáu Tới cho anh em mang tất cả ba va-ly và dẫn tôi về ngay A29 là đơn vị tôi sẽ công tác ở ngay Phòng Quân báo Bộ Tư lệnh Miền.

Chính tại A29, tôi gặp lại anh Đào Công Thi, Uông Sỹ Hồng sau gần một tháng xa cách. Tôi rất vui được gặp lại anh Bạch Vân và bạn Hùng Trí (công tác ở Phòng Địch vận, Cục Chính trị, nghe nói tôi mới vào chiến trường sang thăm) và những anh chị mới quen biết khác như chị Chín Chi, anh Hồng Thủy, anh Linh, anh Thái (mã thám), anh Ngô Duy Thái, anh Tám Lượng, anh Hiển, anh Chẩn, (C1), anh Thuyết (C3), anh Bảy Dũng, anh Thành, anh Tư Tiến v.v…

Hai ngày sau (sang 28 tháng 12 năm 1967), khoảng 10g00 sáng, anh Tám Mỹ, Chính ủy Phòng Tình báo, Bộ Tư lệnh Miền, đi ngang qua chỗ tôi làm việc, gọi tôi:

“Hùng ơi! Toàn bộ đồ đạc em mang vào kiểm tra đầy đủ, tốt lắm!”.

Tôi đâu có biết “đồ đạc” là cái quái gì đâu. Tôi chỉ biết ba va-ly vải bạt lớn đó là của Bộ Tư lệnh Miền.

Đương nhiên khi nghe thấy anh Tám nói hành lý tôi mang theo đã được kiểm tra đầy đủ, còn nguyên vẹn, là tôi rất vui vì đã hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Riêng hơn mười thùng lớn được nai nịt, niêm phong kỹ càng đã được chuyển đi ngay khi tôi còn ở Phnom Penh. Sau này, tôi nghe nói đó là toàn bộ dụng cụ y tế trang bị cho một phòng đại phẫu thuật của nước Cộng hòa Dân chủ Đức tặng, được mang vào để “tiếp tế” cho Bệnh viện K71A (chuyên chăm sóc sức khỏe cho cán bộ trung, cao cấp).

Dù sao đi nữa, tôi đã kết thúc “tốt đẹp” chuyến đi công tác vào B2 vô cùng “đặc biệt”, đi ngoằn ngoèo qua đất nước Trung Hoa bao la, rộng lớn, lên “ké” tàu hỏa liên vận quốc tế, rồi chuyển đổi xuống một nhà ga để đi tàu “chợ”, rồi lại chuyển sang một phương tiện khác “vi vu” trên bầu trời xứ Đông Dương để cuối cùng mới “đến được chiến trường nước sôi, lửa bỏng có một không hai này của cuộc chiến tranh”, với đủ mọi thứ chuyện vui, buồn lẫn lộn, mà tôi chắc suốt đời sẽ “nén chặt” trong tâm khảm.

Nối tiếp câu chuyện của bốn lính “Ăng-lê”

Chuyện của bốn lính “Ăng-lê” ở chiến trường B2 chỉ xoáy quanh những người lính đi B2 (Đông - Tây Nam Bộ và Đặc khu Sài Gòn - Gia Định) nên từ giờ phút này trở đi, tôi chỉ đề cập đến công tác và chiến đấu của bốn anh lính khóa Anh văn 1961-1965 tại chiến trường B2 là các bạn Hùng Trí, Gia Chăn, Bùi Thuyên và Tiến Hùng mà thôi.

Chuyện lính tôi (Tiến Hùng) trên đường đi vào B2 bằng “máy bay” như thế nào, tôi đã kể hết rồi. Bây giờ đến lượt tôi xin kể hầu các bạn về ba đồng đội “cùng hội, cùng thuyền” với tôi trên đường đi vào chiến trường B2 ra sao cho các bạn nghe nhé!

Sau khi tập hành quân, mang vác trên vai khoảng 25 đến 30 kg mỗi ngày trong khoảng từ 5 đến 6 giờ trong một tháng liên tục ở khu vực xã Thọ Vực, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa, ba bạn trong tốp lính đầu tiên bắt đầu được biên chế vào Đoàn 706 để đi B dài (B2).

Đây là một đoàn đầu tiên gồm nhiều cán bộ từ nhiều binh chủng hợp lại, hành quân liên tục trong một tháng từ Thanh Hóa đến Làng Ho (Quảng Bình). Nghỉ tại Làng Ho đúng ba ngày, đoàn bắt đầu hành quân dài ngày vào chiến trường Nam Bộ.

Từ giờ phút rời Làng Ho vào miền Nam, đoàn cán bộ Cục Địch vận có ba bạn Trí, Chăn, Thuyên chính thức được gọi là “đoàn cán bộ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam”.

Sau khoảng thời gian gần bốn tháng hành quân (cứ bốn ngày đi có một ngày nghỉ), đoàn của ba bạn Trí, Chăn, Thuyên đến điểm tập kết Ông Cụ tại tỉnh Phước Long.

Sau khi nghỉ dưỡng khoảng nửa tháng, ba bạn được các đơn vị đến tiếp nhận.

Chuyện về bạn Nguyễn Hùng Trí

Bạn Hùng Trí được biên chế về Phòng B2 (Phòng Địch vận), Cục Chính trị. Năm 1965, Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam gồm có Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (tức ông Sáu Vi) là Bí thư Trung ương Cục kiêm Chính ủy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam, Trung tướng Trần Văn Trà (tức ông Tư Chi) là Tư lệnh, Thiếu tướng Lê Trọng Tấn (tức ông Ba Long) là Phó tư lệnh, Thiếu tướng Trần Độ (tức ông Chín Vinh) là Phó Chính ủy, và bà Nguyễn Thị Định (tức chị Ba Định) là Phó tư lệnh. (Xin xem thêm phần phụ lục).

Cục Chính trị do đích thân ông Chín Vinh, Phó Chính ủy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam phụ trách. Các cục phó gồm ông Lê Trân (tức Lê Văn Tưởng), sau là ông Ba Thắng và cuối cùng là ông Tám Trần (tức ông Trần Văn Phác).

Trưởng phòng Địch vận do ông Lê Hòa, một sỹ quan đầy kinh nghiệm trong công tác địch vận từ thời kháng chiến chống Pháp, chịu trách nhiệm.

Phải thật tình mà nói, đời làm lính chiến được làm việc và sinh hoạt trong môi trường như bạn Hùng Trí chỉ có một mình bạn chứ khó tìm được người thứ hai.

Trí làm việc ngay tại Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam, hàng ngày ra vào, tiếp xúc với các tướng lĩnh cao cấp nhất trong quân giải phóng, nơi làm việc và sinh hoạt của Trí chắc phải “yên ổn” lắm (mặc dù tôi chưa bao giờ được phép đến ngó nhìn từ ngoài mấy tầng bậc canh gác phía ngoài, vì lính “lác” như bọn tôi, đâu được phép vào các tuyến phía trong, nơi “an toàn khu” của Bộ Tư lệnh Miền).

Ấy vậy mà theo Trí kể, khoảng cuối năm 1972 (lúc này tôi đã xuống công tác ở Đặc khu Sài Gòn - Gia Định rồi), chiến khu Bộ Tư lệnh của Trí, vùng ATK (An Toàn Khu) của các thủ trưởng, bị B52 đánh bom hai đêm liền, Trí ngồi trong hầm cúi đầu, bịt tai mà hầm chòng chành, rung lên, cảm giác như đang bị lắc như “lắc quả trứng ung”.

Toàn bộ căn cứ của Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam có khoảng 500 cán bộ phải chịu trận hai đêm ném bom khủng khiếp của Mỹ, hy sinh mất 05 người, trong đó có các anh Năm Lực (hy sinh trong đêm bị ném bom đầu tiên) và anh Doan trú ở cạnh hầm của Trí (hy sinh trong đêm bị ném bom thứ hai). Hai anh này là những người đã từng công tác với Trí nhiều năm với biết bao kỷ niệm buồn vui ở chiến trường.

Quay lại công việc của Trí. Sau một tháng tìm hiểu công việc ở Phòng Địch vận, khoảng quý 4/1965, Trí được cử xuống B20 (trại tù binh Mỹ) nhận công tác.

Khi xuống trại, lúc đó vẻn vẹn có 04 tù binh Mỹ là Thượng sĩ Smith, Thượng sĩ McClure (bị bắt ở Hiệp Hòa, Long An năm 1963), Đại úy Cook (bị bắt ở mặt trận Bình Giã) và Đại úy Schuman (bị bắt ở Mỹ Tho).

Trí kể lại khoảng tháng 09/1965, một tù binh Mỹ tên là Camacho trốn được khỏi trại, trở về nước Mỹ. Tù binh này được Johnson ca ngợi là “anh hùng của nước Mỹ”.

Cũng khoảng thời gian tháng 09 hoặc tháng 10/1965, liên tiếp xẩy ra các vụ tự thiêu phản đối chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam như vụ tự thiêu của bà Alice Herz và sau đó là của anh giáo viên Norman Morison làm rung động khắp nơi trên thế giới. Trước tình hình trên, để thể hiện thiện chí của mình, Mặt trân Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam quyết định phóng thích hai tù binh Mỹ là Thượng sĩ Smith và Thượng sĩ McClure.

Trí được giao nhiệm vụ cùng năm vệ sĩ áp tải hai tù binh Mỹ đi ba ngày, ba đêm đến biên giới Việt Nam - Campuchia, trao trực tiếp cho đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tại Phnom Penh xuống đón ở biên giới để đưa về Thủ đô Phnom Penh giao cho phía Mỹ.

Trở về quê nhà là nước Mỹ, hai tù binh Smith và McClure bị chính phủ Mỹ quản thúc, vu cáo cho các anh là phản bội nước Mỹ, viết những bài báo có lợi cho Việt Cộng.

Những năm 1969-1970, Thượng sĩ Smith tham gia phong trào phản chiến ở Mỹ. Anh hợp tác với nhà báo Donald Duncan viết cuốn sách với nhan đề “Tù binh George Smith: Hai năm với Việt Cộng”. Cuốn sách dài khoảng 300 trang, do Nhà xuất bản Ramparts Press phát hành năm 1971.

Trong cuốn sách, Smith viết về thời gian anh sang tham chiến ở chiến trường Việt Nam ra sao, anh bị Việt Cộng bắt trong hoàn cảnh nào và được họ đối xử như thế nào, mặc dù trong cuộc sống họ (Việt Cộng) gặp rất nhiều khó khăn, sống trong rừng sâu, nước độc, thiếu thốn đủ mọi thứ.

Trong đoạn Smith tả lúc được phóng thích ở biên giới Việt Nam - Campuchia, được đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tiếp nhận để đưa về Thủ đô Phnom Penh giao cho chính phủ Mỹ, anh ta viết như sau:

“I thought of all the Vietnamese we had met in those two years. Already the rough spots were fading. What could I say – they let us go home and sent themselves back to the war”.

(Tôi nghĩ về tất cả những người Việt Nam tôi đã từng gặp trong hai năm qua. Những bóng núi đã mờ xa, tôi có thể nói thế nào – họ thả chúng tôi về nhà và họ lại tiếp tục đi vào cuộc chiến).

Thế đấy, chỉ đọc những gì Thượng sĩ Smith viết ở cuối cuốn sách trên dưới 300 trang cũng đủ “thấm” về cuộc chiến tranh ở Việt Nam như thế nào, khỏi phải tốn “nửa nhời” bình luận cho mất thì giờ!

Trí cho hay sau khi tới nhận nhiệm vụ, chỉ một thời gian ngắn số tù binh Mỹ, đủ loại da đen, da “nhôm nhôm” đen và da trắng nguyên gốc, nhập trại khá nhiều.

Trong Ban Chỉ huy trại tù B20, Trung úy Lê Huệ là đại đội trưởng kiêm chính trị viên, anh Lê Bảo Bình là đại đội phó phụ trách hậu cần, còn Trí là đại đội phó kiêm chính trị viên phó, phụ trách khai thác tù binh Mỹ.

Trong số tù binh nhập trại năm 1966 có Bí thư thứ nhất của Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn là Douglas Ramsay (tù binh này có thể trả lời phỏng vấn bằng hai thứ tiếng Anh và Việt), Trung úy Dunn, Binh nhì Crafts,... và khoảng 15 đến 16 tù binh Mỹ khác mà Trí không nhớ hết tên.

Điều rất thú vị khi tôi được nghe Trí kể lại là lúc nghe tin Đại úy Schuman bị bệnh nặng, đang hấp hối, Trí cho phép các tù binh Mỹ vào thăm hỏi, chia tay với Schuman.

Đại úy Cook nói thật lớn: “You will not die” (Anh không có chết đâu!), bạn tù khác nói: “You will recover soon” (Anh sẽ sớm khỏi thôi).

Bạn Trí hỏi Schuman: “Your last will?” (Mong muốn cuối cùng của đại úy là gì?).

Schuman trả lời: “Peace” (Hòa bình).

Thật tuyệt vời, mặc dù ở hai chiến tuyến rất khác nhau, mục đích cầm súng vô cùng không giống nhau, nhưng ước ao của những người lính lại chung một điểm rất thầm kín nhưng cực kỳ thiêng liêng: “Hòa bình”, vì chỉ duy nhất có hòa bình thì những người lính như chúng tôi mới thôi không cầm súng, thôi bắn giết lẫn nhau, được thanh thản trở về nhà với cha mẹ, với gia đình!

Cuối năm 1966, Trí được điều trở lại làm việc ở Phòng Địch vận. Thỉnh thoảng Trí mới quay trở lại trại B20 hỏi cung tù binh mới.

Từ năm 1967 trở đi, tình hình chiến trường chuyển biến khác thường. Theo đề nghị của Phòng Quân báo, Bộ Tư lệnh Miền, Trí được điều sang tăng cường cho tổ trinh sát kỹ thuật Mỹ (mới hình thành gồm chị Chín Chi, anh Tám Lượng và thỉnh thoảng có anh Bạch Vân tham gia) để theo dõi phản ứng của Mỹ khi anh em bộ đội quân giải phóng thuộc tiểu đoàn 03 và một tiểu đoàn khác (có thể tiểu đoàn 02), Trung đoàn 02, Sư đoàn 09 mở đầu Chiến dịch Bù Đốp bằng cuộc tấn công Chi khu Bồ Đức, tỉnh Phước Long đêm 28 rạng 29 tháng 11 năm 1967, và trại biệt kích tại sân bay Bù Đốp.

Các anh chị tổ trinh sát kỹ thuật theo dõi, thông qua phương tiện máy bộ đàm phát sóng cực ngắn PRC 25 trong hành quân của lính Mỹ, và đã nắm được phản ứng của Mỹ ở căn cứ Technique (Quản Lợi), cụ thể lúc 02g00 sáng 29 tháng 11 năm 1967, chúng báo động cho Tiểu đoàn 1/28 thuộc Lữ đoàn 01, Sư đoàn 01 và Pháo đội A/2-23 (105 mm) chuẩn bị trực thăng vận ngay sáng hôm sau đi ứng cứu ở Bù Đốp và hoàn tất vận chuyển đến vùng chiến sự lúc 09g00.

Tiếp theo, các anh chị tiếp tục theo dõi diễn biến chiến dịch qua những cuộc hành quân của Sư đoàn bộ binh Mỹ số 01 Anh cả đỏ, Sư đoàn bộ binh Mỹ số 25 Tia chớp nhiệt đới, kết hợp với không lực Mỹ và các căn cứ pháo binh truy tìm chủ lực của quân giải phóng ở khu vực tỉnh Phước Long.

Mặc dù mới sang tăng cường, nhưng Trí đã bắt nhịp rất nhanh với các anh chị trong tổ trinh sát kỹ thuật Mỹ, được anh Sơn Bích (tức anh Năm Bích) quý mến, nhắc đến tên bạn nhiều lần sau khi tôi vào chiến trường B2 công tác vào cuối năm 1967.

Trí kể bản thân bạn luôn ráng hòa mình thật nhanh để cùng làm việc với các anh chị ở Phòng 2, thậm chí bạn còn phát hiện được tiếng lóng của lính Mỹ khi chúng thông báo về tọa độ thả bom B52 với cụm từ lóng: “Heavy Artillery Warning at coordinate...”. Bạn nêu nghi ngờ lên cấp trên, và chỉ 20 phút sau khi chúng thông báo, B52 đánh đúng vào tọa độ đó.

Kết thúc chiến dịch, Trí lại quay trở về làm việc tại Phòng Địch vận, Cục Chính trị, Bộ Tư lệnh Miền.

Sau chiến dịch Bù Đốp khoảng hai tháng, quân dân ta bắt đầu triển khai các kế hoạch tác chiến trong năm 1968. Thời gian này, tôi và các anh Đào Công Thi (tức Trần Ngọc Lai), Uông Sỹ Hồng vừa mới vào chiến trường, mỗi người một ngả, lao vào phục vụ chiến đấu. Anh Thi (tức Lai) và Hồng đi phục vụ mặt trận hướng tây nam Sài Gòn, tôi đi phục vụ hướng tây bắc.

Chính tại khu vực Rạch Tra, tôi được gặp anh Sáu Cúc (sau này anh là Thiếu tướng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục II, Bộ Quốc phòng kiêm Trưởng phòng Quân báo Bộ Tư lệnh quân khu 07), anh Hồng Thủy và anh Trần Yên, tức anh Bạch Đình Vinh, sinh năm 1934, dân gốc Sài Gòn, tập kết ra miền Bắc, nhà ở Quận 11. Tôi có hứa với anh Trần Yên sẽ cùng anh về thăm má anh và gia đình ở Sài Gòn, nhưng rất tiếc, trong đợt hai của chiến dịch (tháng 05-6/1968) anh đã hy sinh ở ngay cửa ngõ phía tây bắc Sài Gòn.

Sau này, khi về làm việc tại Đài Truyền hình Sài Gòn Giải phóng, tôi có gặp chị Sa, em gái anh Trần Yên, và tôi đã làm đúng theo lời đã hứa với anh Yên lúc ở chiến trường. Tôi đã trực tiếp đến thăm má anh Yên và chị Sa tại nhà riêng, nếu tôi nhớ chính xác, căn nhà anh và gia đình đã từng sinh sống ở ngay Quận 11.

Trong đợt một của chiến dịch năm 1968, Trí ở lại Bộ Tư lệnh Miền, không đi mặt trận. Hàng ngày bạn dự giao ban tình hình chiến sự, viết truyền đơn để đưa các đơn vị chiến đấu rải trên chiến trường. Riêng truyền đơn viết bằng tiếng Anh, phải viết trước bằng tiếng Việt, trình duyệt xong mới được dịch ra tiếng Anh. Sau đó, bạn Trí đọc vào máy ghi âm rồi gửi xuống các đơn vị chiến đấu phát loa vào khu vực đóng quân, đồn bốt của lính Mỹ cũng như của quân đội Việt Nam Cộng hòa (VNCH). Sang đợt hai của chiến dịch (tháng 05/1968), Trí lại được yêu cầu biệt phái sang làm việc với bộ phận tiền phương mặt trận hướng tây nam Sài Gòn của Phòng Quân báo do anh Tư Kiểm, thiếu tá phụ trách. Sau khi bị thương, anh Tư Kiểm giao cho Trí phụ trách bộ phận này, bao gồm cả tổ trinh sát kỹ thuật Mỹ gồm hai anh Thi (tức Lai) và Uông Sỹ Hồng chốt ở Vườn Thơm, tỉnh Long An. Chính tại nơi này, qua nghe máy PRC 25, Trí phát hiện một tiểu đoàn Mỹ đổ quân đúng vào tọa độ đóng quân của Bộ Chỉ huy chiến dịch. Trí vội chạy lên báo cáo ông Sáu Nam, tức ông Lê Đức Anh, sau này là Đại tướng, Chủ tịch nước.

Tối hôm đó, ông Sáu Nam cho trinh sát mặt đất kiểm tra và lên kế hoạch tiêu diệt toàn bộ tiểu đoàn Mỹ.

Sau chiến dịch này, Cục Tham mưu đề nghị Cục Chính trị khen thưởng, tặng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Ba cho Trí.

Khoảng cuối năm 1968, ta đánh bồi tiếp một đòn chính trị bằng cách đơn phương tuyên bố phóng thích ba tù binh Mỹ gồm Binh nhì Crafts, Binh nhất John Jones, và Binh nhì Brigham (người da đen).

Qua kênh ngoại giao, ta tuyên bố trao trả cho Mỹ ba tù binh trên vào ngày 01 tháng 01 năm 1969 ngay tại chiến trường ở khu vực Bến Tà Xiêm, tỉnh Tây Ninh (giáp biên giới Việt Nam - Campuchia).

Đại diện Bộ Chỉ huy quân đội Mỹ tại Việt Nam là Trung tá John Gibney và Thiếu tá phiên dịch là Andre Seauvageot. Đại diện Quân giải phóng miền Nam Việt Nam là anh Năm Lực, Trưởng ban chính sách của Phòng Địch vận, anh Phan Vũ Vân, cán bộ Ban Binh vận, và Trí là phiên dịch của Đoàn.

Sau khi nghe Trí đọc lệnh phóng thích tù binh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, hai tù binh da trắng cúi đầu, cám ơn. Riêng tù binh da đen Brigham hét vang lên: “Thank you”.

Chẳng hiểu đây là điềm lành hay dữ, nhưng khi về Mỹ, anh lính da đen này bị mổ lại vết thương và chết ngay trên bàn mổ.

Trí cho tôi biết anh lính da đen này là lính của Trung đoàn Kỵ binh số 1 của Mỹ bị ta bắn cháy xe tăng khi anh đang hành quân trên đường số 13, bắc Sài Gòn. Anh ta bị một miểng đạn B40 găm vào vỏ não. Đơn vị Mỹ rút chạy, bỏ rơi anh trên chiến trường.

Khi đưa anh lính da đen Brigham về trại tù binh B20, chính bạn Trí trực tiếp xem bác sĩ Văn Lâm, giám đốc Bệnh viện K71A mổ và gắp miểng đạn cho anh lính và sau đó, bác sĩ trao miểng đạn B40 cho anh lính cất giữ làm kỷ niệm.

Trí còn cho tôi hay, sau này nhà văn Mỹ nổi tiếng Neil Sheehan xuất bản cuốn sách với tên gọi “Sự lừa dối hào nhoáng ”, nhưng ông nhà văn chỉ đề cập đến hai người lính da trắng được phóng thích là Binh nhì Crafts và Binh nhất John Jones, không đả động một chút gì đến anh lính binh nhì da đen Brigham.

Trong cuốn sách, ông Neil Sheehan có viết một chi tiết lý thú là tù binh Douglas Ramsey (Bí thư thứ nhất Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn) có viết một lá thư nhỏ nhờ Binh nhì Crafts mang về Mỹ đưa cho mẹ anh ta để bà biết và an tâm vì thực tế các anh là những tù binh Mỹ đã được đối xử tốt nhất trong phạm vi có thể làm được của họ (Việt Cộng).

Cuối tháng 02 hoặc đầu tháng 03 năm 1969, bạn Cù Đình Cường, sinh viên khóa 5, có thời gian công tác ở Cục Tình báo với tôi ở Hà Nội, đến nhà 212 Bà Triệu, báo cho bác giáo Thìn (mẹ của Trí) và cả gia đình biết tại Câu lạc bộ Thống Nhất (nhà Khai Trí Tiến Đức cũ ở bờ Hồ Hoàn Kiếm) treo ảnh Trí đang phóng thích ba tù binh Mỹ ở Tây Ninh. Thế là cả nhà kéo lên xem và thuê chụp lại bức ảnh đó để về treo ở phòng khách giữa nhà.

Trí có viết thư cho tôi, kể rất hứng thú về sự kiện này, đặc biệt có chi tiết cô người yêu nhà ở trong một ngõ nhỏ thuộc khu phố Hàng Bông, Hà Nội xuống tận nhà số 212 phố Bà Triệu để cùng đi với bác giáo Thìn và các anh, các chị lên Câu lạc bộ Thống Nhất “ngắm nhìn trìu mến” anh giải phóng quân Hùng Trí đáng yêu của tôi sau bốn năm trời xa cách đất Hà thành (1965-1969).

Anh Nguyễn Hùng Trí (đứng đầu từ trái qua phải) và phái đoàn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đang trao trả ba tù binh Mỹ cho phái đoàn Mỹ tại khu vực Bến Tà Xiêm, tỉnh Tây Ninh (giáp biên giới Việt Nam - Campuchia) ngày 01 tháng 01 năm 1969.

Hình do anh Nguyễn Hùng Trí cung cấp.

Sự kiện Câu lạc bộ Thống Nhất treo tấm ảnh rất lớn của Trí và phái đoàn Quân giải phóng miền Nam Việt Nam trao trả ba tù binh Mỹ ngày 01/01/1969 tại một trảng lớn ở bìa rừng khu vực Bến Tà Xiêm, tỉnh Tây Ninh làm dậy lên một niềm kiêu hãnh thứ hai, làm nức lòng và đầy tự hào đối với thầy Đặng Chấn Liêu và các thầy cô cũng như các anh chị em sinh viên Khoa tiếng Anh, không khác chi lần đầu tiên vào năm 1965, thầy Liêu và anh chị em Khoa tiếng Anh “trầm trồ”, “hãnh diện” được gặp lại anh sinh viên cũ khóa 2 là anh Nguyễn Đình Viên (tức anh Nguyễn Bạch Vân) thông qua cuốn phim tài liệu quay năm 1964 giới thiệu nhà báo người Úc Wilfred Burchett tới thăm vùng giải phóng miền Nam Việt Nam. Trong phim này, anh Nguyễn Đình Viên (tức anh Nguyễn Bạch Vân) tháp tùng bằng xe đạp cùng với ông nhà báo người Úc trên từng chặng đường ông đi thăm viếng trong vùng giải phóng và trực tiếp làm phiên dịch cho ông, chơi bóng bàn, ngồi nướng thịt rừng với ông cùng anh em quân giải phóng miền Nam Việt Nam.

Tối ngày 02 tháng 01 năm 1969, trong lúc đang nằm võng nghỉ mệt trong một căn cứ ở khu rừng năm tầng cây rậm rạp, tôi còn được nghe bản tin của đài phát thanh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tố cáo sự hèn hạ, “ăn cháo, đá bát” của phái đoàn Mỹ ngay sau khi kết thúc đợt trao trả tù binh này. Đưa các tù binh lên máy bay về Sài Gòn xong, Mỹ lập tức cho máy bay đến ném bom ở khu vực Bến Tà Xiêm và vùng phụ cận nhằm tiêu diệt đoàn của quân giải phóng đi trao trả tù binh.

“Nhưng vỏ quýt dầy đã có móng tay nhọn”, quân giải phóng đã dự kiến được trước tình hình, đã cho đào hầm, công sự rất cẩn thận trên đường về nên đoàn không bị tổn thất gì.

Thực ra trong chiến tranh Việt Nam, Phòng Địch vận của Cục Chính trị, Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (chỗ bạn Hùng Trí công tác) có nhận được rất nhiều tài liệu, sách báo, Kinh thánh, nhật ký của lính Mỹ vứt lại trên chiến trường. Trong cuốn “Những bài học rút kinh nghiệm nhanh ” (Quick Lessons Learnt – QLL) do Bộ Tư lệnh quân đội Mỹ đúc kết, họ nêu rất rõ cách thức du kích (VC) và dân Việt Nam đánh, diệt Mỹ như thế nào.

Trong cuốn tự sự của mình, bạn Hùng Trí viết như sau:

“…Có cuốn sách động viên tinh thần binh sĩ với những lời lẽ như lính Mỹ được “best paid, best equipped” (được trả lương tốt nhất, được trang bị siêu nhất). Thậm chí bọn chỉ huy còn dám xuyên tạc cả Kinh thánh để ru ngủ binh sĩ. Trong Kinh thánh, tôi có đọc Kinh Nhật Tụng 13 (Psalm 13) viết cầu Chúa, đại ý “Though I walk through the valley of death, I shall fear no evil because you are with me. You caress my head…” (… Dẫu tôi đi qua thung lũng thần chết, tôi không sợ gì quỷ ma vì Người vẫn bên tôi; Người xoa đầu tôi…) thì trong truyền đơn ta thu được trên xác lính Mỹ chết viết thành “…Dẫu… Người vẫn bên tôi, Người vuốt thẳng tóc xoăn cho tôi…” (chắc là cho lính Mỹ da đen)!.

Chúng tôi (anh em đơn vị bạn Hùng Trí, - TG) còn bắt được rất nhiều thư từ và nhật ký của lính Mỹ thể hiện sự chán chường khi phải tham gia cuộc chiến ở Việt Nam. Tôi nghĩ sau hòa bình chắc chắn tôi sẽ có quá nhiều tư liệu để viết về mảng đề tài chiến tranh. Nhưng tiếc rằng khi di chuyển căn cứ, mặc dù tôi đã cẩn thận cho tất cả tư liệu thu lượm được vào một thùng sắt, gắn si kín miệng, chôn dưới một gốc cây lớn, lưu ý một vài vật chuẩn xung quanh để khi quay lại dễ tìm, nhưng sau trận đánh bom, quay trở lại tìm tư liệu, tôi không tài nào có thể nhận ra chỗ cất dấu vì, than ôi, chỗ cất dấu đó đã thành “mặt trăng” rồi! (đã thành hố bom hay hố đạn đại bác)”.

Từ năm 1973, sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Phòng Địch vận, Cục Chính trị rời bản doanh về gần Lộc Ninh. Trí trực tiếp phiên dịch cho các đoàn quân sự của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tại sân bay Lộc Ninh, làm việc với Ủy ban quốc tế, phái đoàn của Mỹ và của Việt Nam Cộng hòa khi có những đợt trao trả tù binh.

Sau khi trao trả hết tù binh Mỹ tại sân bay Lộc Ninh, ngày 02 tháng 03 năm 1973, Trí bay vào trại Davis (Tân Sơn Nhất) làm việc bằng trực thăng do chính phi công Mỹ lái. Ngày 04 tháng 03 năm 1973, Trí bay ra Hà Nội, tham gia việc trao trả phi công Mỹ.

…cuộc trùng phùng sau tám năm xa Hà Nội

Thế là sau tám năm xa nhà biền biệt (1965-1973), Trí được phép hưởng “một chuyến bay vô cùng đặc biệt” về miền Bắc làm nhiệm vụ. Nhưng Trí chỉ được phép vui trọn vẹn “đúng một đêm” ở tòa biệt thự yêu quý tại số 212 phố Bà Triệu với mẹ già và anh chị em, và cũng chỉ được thanh thản “trong phút chốc” ngồi trên chiếc xe Skoda của quân đội chở từ sân bay Gia Lâm về nhà, được đắm mình trong “những kỷ niệm” vô cùng thân thương, đẹp và nên thơ biết nhường nào với người yêu trước khi anh lao vào cuộc chiến chinh, nhất là trong cái giây phút chiếc xe nhà binh “sặc mùi lính tráng” hình như cũng cảm thông với anh, đang từ từ lăn bánh qua những cung đường “mộng mơ”, “đầy ắp những hình ảnh” đẹp nhất trong một giai đoạn thời trai trẻ của đời anh, tràn ngập những tình cảm “có một không hai” đan xen nhau giữa “đang yêu” và “đang được yêu”. Đó chính là những dãy phố trung tâm của Hà Nội như Hàng Bông, Hàng Gai, vòng quanh Hồ Hoàn Kiếm, Tràng Tiền, Tràng Thi, ngã năm Cửa Nam, Hàng Bông Nhuộm, Bà Triệu v.v…

Sáng sớm hôm sau, Trí có mặt tại điểm hẹn từ sáng sớm, lại một thân, một mình leo lên chiếc xe Skoda của quân đội, đi vòng vèo, uốn éo qua những cung đường yêu thương chiều qua để đến sân bay Gia Lâm, kịp chuyến bay trở lại chiến trường.

…làm việc hết mình, nhưng tình cảm bạn bè là vô giá

Một điều làm tôi vô cùng cảm động khi ngày 07 tháng 03 năm 1973, Trí gửi cho tôi bức thư xuống khu Sài Gòn - Gia Định, cho tôi hay mặc dù chỉ được vẻn vẹn đúng một ngày, một đêm ở Hà Nội, làm đủ mọi chuyện từ việc công đến việc tư, thậm chí đêm chỉ thiếp đi được một chút vì còn phải hàn huyên với mẹ già và các anh, các chị, các cháu trong nhà, nhưng Trí không quên nghĩa vụ với bạn bè là lính tráng đang ở chiến trường. Chính ngay trong chiều tối hôm đó, Trí đã ghé thăm cha mẹ, gia đình tôi ở phố Bùi Thị Xuân và cha mẹ, gia đình bạn Nguyễn Gia Chăn ở phố Lê Văn Hưu.

Một tuần sau, khoảng ngày 12 tháng 03 năm 1973, anh La Côn, tổ trưởng, và anh Trì, tổ phó (cả hai anh là cán bộ của Ủy ban Bảo vệ Hòa bình thế giới của Việt Nam) bàn giao chức tổ trưởng tổ phiên dịch ở Tân Sơn Nhất cho Trí để các anh về nhận công tác ở Hà Nội.

Tháng 02 năm 1974, Trí xin nghỉ công tác biên phiên dịch, bàn giao chức tổ trưởng tổ phiên dịch cho anh Nhạ (giáo viên Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội), trở về căn cứ của Phòng Địch vận, Cục Chính trị, Bộ Tư lệnh Miền, với hy vọng sẽ được giải quyết trở về hậu phương miền Bắc theo chính sách đối với quân nhân đi công tác và chiến đấu ở chiến trường B2 có thâm niên từ 05 năm trở lên.

…ai hiểu mình hơn những người bạn thân

Trong thư gửi từ Lộc Ninh cho tôi đề ngày 28/02/1974, Trí tâm sự với tôi:

“Khi ở Tân Sơn Nhất về, hy vọng sẽ mau chóng được hưởng chính sách, nhưng về đến đơn vị mới vỡ mộng. Nghĩa là chuyện phép tắc để giải quyết xây dựng gia đình chưa có tia ánh sáng nào cả.

Thời kỳ ở Tân sơn Nhất, tao vẫn nhận được thư từ và quà của mẹ tao hàng tuần (dĩ nhiên là trừ khi bọn Mỹ cắt chuyến bay!).

Bà cụ hiện rất sốt ruột về chuyện xây dựng gia đình của tao và rất nóng lòng tao sớm về nhà để cụ chăm sóc. Đó là mong muốn của các bà mẹ chúng ta. Cũng không biết làm gì hơn ngoài hy vọng và mong muốn thôi. Phải không mày?”.

Đi đủ các nơi, dịch cho biết bao “ông lớn, bà lớn”, nhưng người lính cũng chỉ mong mỏi được cấp trên sớm giải quyết chế độ theo quy định, được quay trở về nhà, gặp cha mẹ và những người thân yêu. Trong bức thư, bạn Trí viết:

“…Tao đã được đi cùng các đại sứ và các tướng lĩnh ra Quảng Trị, được gặp và nói chuyện với chị Nguyễn Thị Bình (Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam), đi Pleiku trao trả tù binh, đi Lộc Ninh với các tướng của Ủy hội quốc tế, với phái đoàn Ba Lan, dịch cho Bộ trưởng Trần Bửu Kiếm v.v…

Làm thì nhiều, lên trực thăng, xuống xe hơi liên tục, nhưng tao vẫn muốn về đơn vị cũ, làm công tác nghiên cứu và chờ trên giải quyết chính sách hơn là làm ở Tân Sơn Nhất”.

Thế là Trí lại quay về làm việc ở Phòng Địch vận, Cục Chính trị ở Lộc Ninh (thủ đô kháng chiến của Mặt trận) một thời gian cho đến tháng 03 năm 1975 nhận được lệnh làm phó đoàn cùng anh trưởng đoàn là Lê Quang Huy (Tám Huy) dẫn giải khoảng 300 tù binh là sĩ quan VNCH bị bắt ở Phước Long ra ngoài miền Bắc.

Cuộc hành trình ngược ra miền Bắc không có đi bộ vượt núi Trường Sơn như hồi 1965 mà di chuyển bằng xe tải của Liên Xô. Đúng ngày 29 tháng 03 năm 1975, khi đoàn xe chở tù binh đến Quảng Bình thì ta giải phóng Đà Nẵng. Khi đoàn 300 tù binh là sĩ quan VNCH về đến Hà Nội thì ta đang tấn công quyết liệt ở Xuân Lộc.

Đến giữa tháng 04/1975, sau khi bàn giao 300 tù binh của quân đội VNCH bị bắt ở mặt trận Phước Long cho trạm tiếp nhận tù binh ở Yên Bái, Trí về trình diện tại Cục Địch vận, Tổng cục Chính trị và được đi an dưỡng ở Bình Lục, tỉnh Nam Hà.

Thời kỳ hậu chiến tranh (từ 1975 trở đi), Trí đã vượt qua mọi khó khăn, làm tốt mọi công tác trên mọi cương vị được giao tại Bộ Ngoại thương.

Sau khi đi tu nghiệp tiếng Anh ở Ấn Độ (1981-1982), Trí quay trở về công tác tại Bộ Ngoại thương. Đầu tháng 03 năm 1985, Trí nhận quyết định làm Trưởng tùy viên thương mại của Đại sứ quán Việt Nam tại Thái Lan thay cho anh Nguyễn Văn Hoàng trở về Việt Nam nhận nhiệm vụ Tổng Giám đốc IMEXCO tại TP Hồ Chí Minh.

Làm việc tại Thái Lan được một nhiệm kỳ rưỡi (bốn năm, sáu tháng), Trí về nước, tiếp tục công tác tại Bộ Ngoại thương.

Từ tháng 05 năm 1991, Trí về công tác tại Phòng Thị trường và hợp tác quốc tế của Tổng Công ty xăng dầu PETROLIMEX cho đến ngày 25 tháng 06 năm 2002 (60 tuổi), Trí nhận quyết định nghỉ hưu.

Tôi dành nhiều thời gian viết về Trí vì trong nhóm ba bạn Trí, Chăn, Thuyên ở Cục Địch vận thuộc Tổng cục Chính trị đi vào B2 công tác và chiến đấu, duy nhất chỉ có bạn Trí làm việc đúng với chuyên môn “địch vận” và “chuyên trách về khai thác tù binh”.

Chuyện về bạn Nguyễn Bùi Thuyên

Bây giờ tôi xin phép kể về bạn Nguyễn Bùi Thuyên.

Đây là anh bạn thấp, nhỏ người, mắt bị “lé kim”, nhìn thoáng qua đã thấy sức khỏe “không thực sự tốt” so với những người khác. Chẳng hiểu trớ trêu làm sao Thuyên lại được chọn biên chế về “đầu quân” cho sư đoàn 09 (công trường 09), một sư đoàn chiến đấu nổi tiếng, đối phương cực kỳ khiếp sợ, lúc đó đang đứng chân ở căn cứ Suối Nhung, tỉnh Phước Thành, miền đông Nam Bộ (Chiến khu D). Đây chính là Chiến khu Mã Đà mà ngay từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp đã nổi tiếng với câu: “Mã Đà sơn cước, anh hùng tận!”.

Sư đoàn 09 được thành lập vào ngày 02 tháng 09 năm 1965, trên cơ sở nòng cốt là hai trung đoàn Q761 và Q762, do Đại tá Hoàng Cầm làm Sư đoàn trưởng. Ngay sau khi thành lập, tháng 11 năm 1965, Sư đoàn đã nổi tiếng với những trận chiến đấu vô cùng dũng cảm chống lại Sư đoàn 01 bộ binh Mỹ “Anh cả đỏ” phối hợp với Sư đoàn 05 của quân đội Việt Nam Cộng hòa đang triển khai chiến dịch Bushmaster, tấn công vào căn cứ của Sư đoàn 09 (công trường (CT) 09) ở Dầu Tiếng.

Trận Bàu Bàng năm 1965 là trận đánh cấp sư đoàn đầu tiên ở chiến trường miền Nam giữa ta và Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.

Năm 1966, Sư đoàn 09 (CT 09) liên tiếp có những trận đánh nẩy lửa với Sư đoàn 01 bộ binh Mỹ “Anh cả đỏ” trong chiến dịch Attleboro ở Dầu Tiếng.

Đến năm 1967, một lần nữa tại Bàu Bàng, Sư đoàn 09 (CT 09) lại giao chiến vô cùng ác liệt, một mất một còn với chính Sư đoàn 01 bộ binh Mỹ “Anh cả đỏ” trong chiến dịch Junction City.

Cuối năm 1967, khi tôi vào đến chiến trường B2, anh Bạch Vân cho tôi biết tin về bạn Hùng Trí, nhưng riêng hai bạn Chăn và Thuyên không hề được biết một tin tức gì.

Sau này bạn Hùng Trí cho tôi biết bạn Thuyên công tác ở Sư đoàn 09 (CT09) được một thời gian, nhưng vì sức khỏe quá yếu, không kham nổi cuộc sống của người lính ở một sư đoàn cơ động, luôn hành quân, chiến đấu liên tục, buộc các thủ trưởng phải cho bạn Thuyên chuyển về công tác tại Ban Binh vận thuộc Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Thực ra, tại Sư đoàn 09 (CT09), bộ phận trinh sát kỹ thuật Mỹ do anh Kế phụ trách làm việc rất tốt, phục vụ đắc lực cho chỉ huy tác chiến của sư đoàn. Tôi đã từng trao đổi kinh nghiệm công tác nghiệp vụ với anh Kế và rất quý mến anh, đặc biệt anh rất say mê trong công tác của mình được giao tại sư đoàn.

Từ năm 1972 trở đi, tình hình chiến trường Nam Bộ có nhiều chuyển biến tích cực, tạo thế và lực rất quan trọng cho quân và dân ta.

Tôi xin phép điểm lại một số tình hình chiến trường Nam Bộ lúc bấy giờ để bạn đọc có một cái nhìn tổng thể.

Đầu quý 02 năm 1972, Trung ương Cục và Quân ủy Miền đã mở chiến dịch tiến công mang mật danh Nguyễn Huệ trên khu vực miền Đông Nam Bộ, do anh Tư Chi (thời gian này vẫn là Trung tướng Trần Văn Trà) làm tư lệnh.

Chiến dịch Nguyễn Huệ (từ 01/04/1972 đến 19/01/1973) chọn đường số 13 là hướng tiến công chủ yếu, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực quân VNCH trên hướng bắc Sài Gòn, giải phóng khu vực Bình Long, Phước Long và một số vùng đệm ở Tây Ninh và Bình Dương, tạo thế đứng chân đưa chủ lực của quân giải phóng Miền từ ngoài biên giới về Nam Bộ.

Chiến dịch này phối hợp với hướng tiến công chủ yếu ở Trị-Thiên trong năm 1972, nhằm thu hút và ghìm chân quân chủ lực VNCH, tạo điều kiện cho nhân dân Đồng bằng sông Cửu Long nổi dậy đánh phá bình định.

Đến trước thời điểm mở màn chiến dịch, lực lượng quân đội VNCH đã bố trí dày đặc trên địa bàn với 04 Sư đoàn bộ binh (05, 18, 25 và 21), 01 lữ đoàn dù, 05 liên đoàn biệt động quân, 456 xe tăng, xe bọc thép, 396 khẩu pháo, 67 liên đội và 146 đại đội bảo an, 820 trung đội dân vệ.

Thực hiện quyết tâm đánh lớn, đánh quỵ từng bộ phận quân chủ lực VNCH, Bộ Tư lệnh chiến dịch của quân giải phóng đã huy động 03 Sư đoàn chủ lực (05,07, 09); 03 Trung đoàn bộ binh độc lập (24, 71, 205); 03 Trung đoàn bộ binh địa phương (04, 16, 33); Trung đoàn đặc công 429; Trung đoàn 42 và Tiểu đoàn 28 (thuộc Đoàn pháo binh 75); 02 Tiểu đoàn xe tăng và xe bọc thép; 04 Tiểu đoàn pháo cao xạ và súng máy cao xạ trực tiếp tham gia chiến dịch. Đây là lần đầu tiên tại chiến trường Nam Bộ, quân giải phóng tiến hành một chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô tương đương cấp quân đoàn tăng cường.

Ngày 01/04/1972, Bộ Tư lệnh chiến dịch ra lệnh nổ súng, tiến công thẳng vào đội hình phòng ngự của Chiến đoàn 49 VNCH ở hướng Thiện Ngôn - Xa Mát, buộc họ phải tập trung chống đỡ bằng cách điều quân đi chốt giữ các vị trí chiến lược trên tuyến đường 22.

Đòn nghi binh này tạo điều kiện cho các đơn vị quân giải phóng nhanh chóng triển khai lực lượng từ các vị trí tập kết dọc biên giới xuống hướng chủ yếu (đường 13), chiếm lĩnh các vị trí xuất phát, tiến công các trọng điểm, cụ thể Sư đoàn 05 (công trường 05) bao vây cụm cứ điểm Lộc Ninh, Sư đoàn 09 (công trường 09) triển khai phía bắc thị xã An Lộc, Sư đoàn 07 (công trường 07) chốt chặn dọc đường 13, đoạn từ Cầu Cần Lê (ngã ba đường 17 phía bắc thị xã) và đoạn từ nam thị xã đến bắc Chơn Thành.

Trong khi quân đội VNCH đang thất bại nặng nề ở hướng nghi binh Thiện Ngôn - Xa Mát, ngày 05/04/1972 quân giải phóng với sự yểm trợ của xe tăng, bất ngờ tiến công vào chi khu quân sự Lộc Ninh và đến chiều ngày 07/04/1972, ta đã giải phóng hoàn toàn chi khu Lộc Ninh.

Nghe tin Lộc Ninh thất thủ, quân đội VNCH bỏ Bù Đốp (tỉnh Phước Long), tháo chạy về thị xã Phước Bình. Chiến đoàn 52 của quân đội VNCH bỏ căn cứ Đồng Tâm (nam Lộc Ninh) rút chạy về phía nam và toàn bộ chiến đoàn này lọt vào trận địa phục kích của quân giải phóng ở cầu Cần Lê khiến cho một bộ phận lớn quân lính của Chiến đoàn 52 VNCH chết và bị thương.

Sau khi mất Lộc Ninh, thị xã An Lộc đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt. Quân đoàn III của quân đội VNCH buộc phải tăng cường 05 chiến đoàn cùng sự chi viện tối đa của pháo binh, không quân để giải tỏa, ráng chốt giữ các khu vực xung quanh tỉnh Bình Long, bảo vệ cho bằng được thị xã An Lộc.

Trước diễn biến mới của chiến trường, ngày 15/05/1972, Bộ Chỉ huy Chiến dịch của quân giải phóng quyết định tập trung lực lượng, chuyển sang tiến công đường số 13, mở rộng vùng giải phóng ở Bình Long và hình thành thế áp sát bao vây nội ô thị xã An Lộc.

Từ ngày 19/05/1972 đến 21/06/1972, quân giải phóng cùng nhân dân địa phương đánh bại hai cuộc hành quân mở đường lên thị xã Tàu Ô, gây nhiều tổn thất lớn cho Sư đoàn 21, Chiến đoàn 15, Sư đoàn 09, Tiểu đoàn 46 và Sư đoàn 25 quân đội VNCH.

Từ ngày 01/10/1972, Bộ Chỉ huy Chiến dịch quân giải phóng chủ trương giữ tuyến đường 13 để thu hút chủ lực của quân VNCH từ Sài Gòn kéo lên, đồng thời tạo điều kiện giúp các địa phương đánh phá bình định của đối phương ở bắc Bình Dương, Củ Chi, đánh bại các cuộc hành quân phản kích giải tỏa và hành quân lấn chiếm của quân đội VNCH vào vùng giải phóng của ta.

Đến cuối tháng 12/1972, sư đoàn 05 VNCH mở cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng ra các khu vực Rạch Bắp - Dầu Tiếng, trên đường 14 và Long Nguyên - Minh Hòa. Giữa tháng 01/1973, quân giải phóng tổ chức nhiều hướng, đồng loạt tiến công Chiến đoàn 08 VNCH đóng ở Bến Tranh, loại 478 lính VNCH ra khỏi vòng chiến, khiến Chiến đoàn 08 VNCH mất sức chiến đấu, không thể mở tiếp những cuộc hành quân tái chiếm Lộc Ninh và những vùng đã mất.

Trải qua hơn 10 tháng liên tục tiến công, ngày 19/01/1973, Chiến dịch Nguyễn Huệ đã kết thúc thắng lợi. Bằng những nỗ lực phi thường, kiên trì khắc phục mọi khó khăn gian khổ, quân dân miền Đông Nam Bộ đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 13.000 quân VNCH (bắt làm tù binh 5.381 người).

Thành công của chiến dịch đã hình thành nên một khu vực giải phóng rộng lớn trên hướng chiến lược xung yếu ở tây bắc Sài Gòn, làm thay đổi cục diện chiến trường miền Đông Nam Bộ.

…mừng muốn khóc khi gặp lại bạn Thuyên ở chiến trường

Tháng 05 năm 1973, một lần đi công tác tại thị trấn Cây Dầu (biên giới Việt Nam - Campuchia), trên đường trở về căn cứ, tôi và cháu Thanh (liên lạc) đang men theo đường ruộng để sang khu rừng trước mặt, tình cờ có một anh bộ đội miền Bắc, người nhỏ con, đội nón cối trùm kín mặt, chạy tới trước mặt tôi, xin phép tôi được mồi điếu thuốc lá rê anh mới cuốn.

Tôi công tác ở vùng sâu, vùng xa (khu T4, vùng Sài Gòn - Gia Định) nên ăn mặc không như anh em bộ đội ở trên Bộ Tư lệnh Miền.

Khu vực chúng tôi công tác và chiến đấu là khu vực sông nước nên thường ăn mặc quần áo mỏng để khi giặt dễ khô. Tôi mặc một bộ popeline màu xanh da trời, cổ quấn khăn rằn, thắt ceinturon to bản của Mỹ, đeo khẩu súng K59 của Liên Xô, để đầu trần, không đội nón, mũ gì cả.

Anh bộ đội Thuyên nhỏ con không nhận ra tôi, nhưng tôi nhận ra anh ngay qua giọng nói khàn khàn khét lẹt mùi thuốc lá của anh.

Tôi kêu lên:

“Thuyên! Mày không nhận ra tao à!”.

Tôi lật mũ cối của anh ta lên, lộ diện một mớ tóc bạc và bộ mặt quen thuộc của bạn Thuyên.

Thế là tôi ôm chầm lấy Thuyên, thấy tội nghiệp cho ông bạn sau 08 năm trời không gặp mặt, người do bị sốt rét, xanh lét, ốm tong teo, chỉ còn da bọc xương mà thôi.

Tôi vô cùng cảm động khi thấy Thuyên vừa khóc vừa nói:

“Mày thật đấy hả, Hùng ơi! Sao ai nói với tao năm ngoái mày xuống đường, bị bọn Mỹ phục kích bắn chết rồi?”.

Tôi cười, rồi nói:

“Đúng là năm ngoái, trên đường hành quân, bị đầm già phát hiện. Nó kêu pháo bắn, rồi trực thăng lồng kẽm lên rượt, dùng AR15 bắn liên tục từ trên máy bay, nhưng nhanh trí, tao nhảy đại xuống một cái hầm ven đường nông choèn choẹt, ai ngờ trong phút dở sống, dở chết ấy lại chui tọt cả người lẫn cả cái máy PRC 25 xuống hầm. Bọn Mỹ bắn phá một lúc, không thấy gì, bỏ đi.

Sau đó, tao không tài nào lên khỏi hầm được. Anh em phải vừa đào hầm rộng ra, vừa kéo tao mới lên được. Xuýt chết đấy, bố đĩ ạ! Nói chung, số tao chưa chết được đâu”.

Tôi và cháu Thanh ngồi xuống bờ ruộng, nói chuyện với Thuyên và 06 anh em khác trong đội của Thuyên.

Tôi bảo Thuyên vứt điếu thuốc rê đi, đưa hết gói Ruby Queen tôi đang hút dở cho Thuyên và các bạn hút. Thuyên và các bạn kêu lên mừng rỡ:

“Trời ơi! Thuốc Ruby Queen, lâu lắm rồi bọn tao mới được hút, Hùng ơi!”.

Thuốc lá Ruby hút rất đằm, dễ nghiện. Tôi nghe nói trong thuốc có tẩm một chút thuốc phiện nên lính chúng tôi rất “mê”.

Thực ra có hai loại thuốc lá Ruby: Ruby Queen (anh em lính giải phóng cứ đọc là “Rubi Quen”) và Ruby quân tiếp vụ (loại thuốc lá phát cho lính VNCH khi đi hành quân). Thỉnh thoảng tôi thấy sau cuộc hành quân, bọn Mỹ được trực thăng vận về căn cứ thường vứt lại ngoài trảng trống (khu vực hành quân) đủ các thứ bánh, kẹo và thuốc lá (trong đó có cả thuốc Ruby quân tiếp vụ).

Trên căn cứ của Bộ Tư lệnh Miền, các anh thỉnh thoảng hút thuốc thơm ARA của Campuchia là “ăn chơi” lắm rồi, còn dân nghiện phải cuốn hút thuốc rê (loại thuốc lá rất nặng). Nhiều lúc khi đang bị giặc càn, không có cách nào đi mua thuốc được, cơn nghiền lên, các anh phải đi tìm “cào cào” quanh hầm trú ẩn và hầm làm việc, nghĩa là phải đi lượm mẩu thuốc rê đã vứt đi, cuốn lại rồi hút một vài hơi cho đỡ “cơn nghiền”. Phải nói thật, lúc cơn nghiện thuốc lên, chỉ cần được “rít” một hơi thuốc “sái” kiểu này là “đã lắm”, “đã vô cùng”, “hồn vía bay lên mây”, các bạn ạ!

Lính chúng tôi ở dưới đồng bằng, chỉ phải tội nghe bom rơi, đạn réo suốt ngày đêm, đôi lúc có thể “ra đi không hẹn trước lúc trở về” bất kỳ ở thời điểm nào, nhưng bù lại thỉnh thoảng còn dám “đột đại” ra ngoài ấp chiến lược mua mọi thứ thiết yếu cho cuộc sống, kể cả thuốc lá Ruby (nơi chúng tôi đóng quân không bán thuốc ARA).

Tôi nói cháu Thanh lục bòng của tôi lấy cho Thuyên và các bạn của Thuyên hai gói Ruby Queen và một gói trà Con Cua để các bạn mang về đơn vị “trà lá” (đây là từ của “lính giải phóng” nghĩa là uống trà và hút thuốc lá) buổi tối.

Tôi hỏi Thuyên đi đâu mà bảy anh em lại mò mẫm xuống vùng biên giới này? Bọn mày chặt cây để làm gì?

Thuyên cho biết đã cùng các bạn xuống đây được hai ngày. Hôm nay bắt đầu đi chặt cây để làm căn cứ tiền phương cho Trung ương Cục miền Nam Việt Nam.

Bây giờ mệt quá rồi, nên nằm ở bờ ruộng này nghỉ một chút mới đủ sức khuân được đám thân cây lớn kia về khu định làm căn cứ.

Tôi hỏi Thuyên và các bạn:

“Căn cứ chúng mày định làm ở đâu?”.

Thuyên trả lời:

“Bọn tao làm căn cứ ở khu rừng bên kia ngọn đồi, đi khoảng 45 phút nữa”.

Tôi thấy 07 anh em Thuyên toàn là dân “Bắc kỳ” vượt Trường Sơn vào B2, tuổi cũng sàn sàn khoảng 30 tuổi như tôi và Thuyên, sức khỏe có vẻ “xuống cấp” rồi, nên tôi nói các bạn cứ ngồi nghỉ, tôi sẽ giúp đưa số cây này về căn cứ cho.

Tất cả 07 anh em mừng rỡ, cười nói vui vẻ, nói với tôi với một tấm lòng rất chân thành:

“Nhờ có “Sếp” bữa nay bọn em đỡ cực nhiều lắm!”.

Tôi nói cháu Thanh chạy về đơn vị nói Trung đội trưởng Công Thành cử cho tôi 07 đến 08 người ra ngoài ruộng phụ giúp anh em Thuyên mang số cây này về căn cứ bên kia rừng.

Sau khi anh em đơn vị tôi khiêng cây giúp anh em Thuyên về căn cứ, tôi nói tất cả 07 anh em về tắm rửa, nghỉ ngơi thoải mái. Khoảng 17g30 tôi mời tất cả sang ăn cơm với tôi. Cháu Thanh sẽ sang dẫn đường lúc 17g00.

Thực ra tối đó tôi đang rất bận vì đang phải lên kế hoạch đưa toàn bộ đơn vị xuống vùng sâu trong hai hoặc ba ngày tới. Tôi giấu, không nói cho Thuyên biết. Tôi nói cháu Thanh xếp hết đồ đạc, tài liệu của tôi lại, tối nay vui với anh em Thuyên.

Tôi dặn anh Chung, quản lý đơn vị cho giết ba con gà, nấu cháo và bóp gỏi bắp cải để tôi tiếp bảy ông bạn trên “rừng” xuống chơi.

Đồng thời tôi cũng dặn anh Chung ngày mai, giết con heo khoảng 100 kg, giữ bí mật, không được cho dân chung quanh, kể cả dân Campuchia ở phum gần đó được biết (lính ta rất tài, giết một con heo điêu luyện đến mức không nghe thấy tiếng heo kêu). Sau đó, chia cho các trung đội số thịt heo được ướp muối cẩn thận, cất giữ làm lương thực cho cuộc hành quân dài ngày sắp tới.

Tôi nói Chung để lại đầu heo, bộ đồ lòng và khoảng từ 4 đến 5 ký thịt cho anh em toàn đơn vị liên hoan chiều mai (có thể lấy rượu của tôi cho anh em uống cho vui, nhưng không ai được phép say rượu).

Do tôi có khách bất chợt ở trên Trung ương Cục xuống, nên tôi giao cho anh Thanh Hùng (tức Hùng méo) là đội phó của tôi quán triệt và chấp hành mọi yêu cầu của tôi đến từng trung và tiểu đội, không ai được thắc mắc và đòi hỏi giải thích bất cứ một điều gì.

Tối hôm đó, tôi rất vui được tiếp đãi Thuyên và các bạn của Thuyên vì thực ra gần 08 năm trời (1965-1973) tôi và Thuyên mới có dịp gặp nhau, mặt đối mặt, ngồi tán gẫu với nhau như thế này.

Từ khi vào chiến trường B2 đến nay, tôi chỉ được biết tin tức về Thuyên và Chăn qua thư từ của Trí mà thôi.

Đang ngồi “nhậu”, Thuyên ngẫu hứng “nổ” lung tung, thách tôi uống rượu thi.

Tôi điềm đạm trả lời:

“Bữa nay tao đi họp suốt ngày nên hơi mệt. Được rồi, thách “đấu” rượu thì trưa mai đệ xin kính mời tất cả 07 “chư vị anh hùng” trên R xuống “lạm li thoải mái” với “lính xã, lính ấp” chúng tiểu đệ một chập ở ngay chính tại căn chòi đại bản doanh này của tiểu đệ”.

Tôi cố gắng “lách”, tránh khích bác của bạn Thuyên, vậy mà “ổng” không chịu buông tha cho tôi, chứng nào tật ấy như hồi còn học ở đại học, chê tôi hết lời nào là “hèn”, nào là không dám “đấu” với anh em ông.

Nói xong, ông dốc ba bi đông rượu ngược lên, “chê” tôi hết rượu, không đủ cho “ổng” uống, lại còn làm phách.

Cháu Thanh và anh Thanh Hùng ngồi phụ tiếp khách với tôi cứ nhìn tôi, không dám “hó hé” nửa lời.

…nhậu “thật đã” để mừng ngày hội ngộ không ngờ

Cuối cùng, tôi gạt tay, đứng dậy, nói cháu Thanh xuống hầm tôi ngủ, mang rượu lên “hầu” chú Thuyên và bạn bè từ trên R xuống chơi, “tu rượu” cho đỡ khát.

Cháu Thanh chỉ đợi như vậy, “dạ” một tiếng thật lớn rồi xuống hầm mang một can 20 lít rượu “cực kỳ chất lượng” đặt lên chiếc bàn mây rừng tôi tự tay làm, trước sự “kính nể” và “sợ hãi” của 07 ông bạn trên R xuống.

Tôi nói cho Thuyên và các bạn biết nếu xuống đồng bằng hoặc về miền Tây Nam Bộ công tác, chớ bao giờ “thách” rượu vì với anh em “Miền Tây” thì “ly rượu” là đầu câu chuyện, “không rượu thì không làm việc”.

Chính trong đêm đó, ba anh em tôi (tôi, Thanh Hùng và Thanh) cho 07 “ổng” bạn trên “rừng” uống rượu say bò lê, bò càng, không còn biết trời trăng gì cả, ói mửa đầy căn chòi là “đại bản doanh” của đơn vị tôi.

Chỉ tội cho cháu Thanh phải dọn căn chòi suốt đêm vì nếu không dọn, kiến “bột nhọt” sẽ bu tới đầy nền đất. Lúc đó, các ông bạn tôi xuống võng đi tiểu, sẽ bị bọn kiến này “ăn thịt”, chỉ còn cách điên đầu không biết xử lý làm sao, chắc chỉ ngồi khóc mà thôi!

Sáng hôm sau, tôi dậy sớm, đi kiểm tra đơn vị xem bộ phận hậu cần và các trung, tiểu đội chuẩn bị ra sao thì thấy anh chị em làm rất tốt. Khoảng 07g00, tôi đi họp ở Ban Quân báo.

Trước khi đi, tôi dặn cháu Thanh tiếp chú Thuyên và bạn bè thật chu đáo, mời các chú ăn cơm sáng, nghỉ ngơi, chờ tôi trở về khoảng 11g00 để dự liên hoan cùng với đơn vị.

Đúng 11g00 tôi trở về đơn vị. Ở nhà, anh Thanh Hùng và anh Chung cùng các anh, các chị em “chủ lực” đã làm xong các món ăn cho buổi liên hoan.

Tôi vào khu vực làm việc, hỏi anh Thanh Hùng và anh chị em ở nhà có bắt được tin tức mới về các cuộc hành quân của các đơn vị VNCH không?

Anh Thanh Hùng và mọi người trả lời ngoài những tin tức thông thường, không có tin gì đặc biệt.

Tôi rất vui vì tình hình diễn ra đúng dự kiến. Tôi lệnh cho mỗi trung đội chỉ để hai máy trực. Tất cả nghỉ làm việc, về các trung đội ăn liên hoan.

Tôi quay về Ban Chỉ huy Đội, mời Thuyên và 06 người bạn của anh dự liên hoan.

Tới dự liên hoan với chúng tôi có anh Ba Lâm (Trưởng ban Quân báo) và anh Năm Nhượng (Trưởng ban Tác chiến) của Phòng Tham mưu, Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định.

Thấy có khách của Phòng Tham mưu tới, thái độ của Thuyên và bạn bè nghiêm túc hơn. Tôi giới thiệu các anh bạn với anh Ba và anh Năm. Mọi người bắt tay nhau rất hồ hởi, nói chuyện vui vẻ như đã quen biết nhau từ lâu rồi.

Nhìn can rượu trên bàn, sau khi sớt ra can nhỏ cho các trung đội, còn khoảng 10 lít. Tôi cười, nói với mọi người:

“Rượu bữa nay không thiếu. Dưới hầm tôi còn đủ cho các anh “tu”.

Nhưng theo lệnh của anh Hai (tức anh Trần Hải Phụng, Thiếu tướng, Tư lệnh quân khu), không cho phép cán bộ và chiến sĩ được uống rượu trong thời gian này, trừ trường hợp do bị bệnh, phải uống rượu thuốc.

Tôi mời các anh tới đây, không thể không có rượu đãi các anh, nhưng hôm nay tôi “mời” các anh uống rượu “thuốc” để bồi bổ sức khỏe”.

Nói xong, tôi nói cháu Thanh xuống hầm lấy một ít cam tôi mới mua hôm qua ở thị trấn Cây Dầu. Tôi chia cho các trung đội một vài trái cam để vắt vào rượu trước khi liên hoan. Số cam còn lại, tôi vắt dần vào từng can nhỏ 4 lít, trông màu vàng rất đẹp. Sau đó tôi tuyên bố bữa liên hoan bắt đầu, nhậu với “rượu thuốc”!

Thế là đơn vị chúng tôi liên hoan, uống rượu thuốc đúng “lệnh” của anh Hai.

Tôi quay sang hỏi Thuyên và các anh em trên R bữa nay còn muốn “đấu rượu” không?

Thuyên và anh em xanh mặt, xin lỗi tôi và các anh Thanh Hùng, Vũ Tiến, Công Thành, Quốc Chung và cháu Thanh liên tục.

Thuyên còn nói bữa nay không dám đụng môi vào rượu nữa, vì nghĩ đến rượu bây giờ là muốn ói, muốn mửa rồi.

Tôi cười, nói với Thuyên và các bạn chỉ cần uống một chút thôi là sẽ tỉnh rượu ngay. Đây là cách “lấy rượu trị bệnh say rượu”. Các bạn Thuyên nghe lời tôi, mỗi người ráng uống một chút. Sau đó, Thuyên và các bạn tỉnh rượu, ngồi uống trà vui vẻ với chúng tôi.

Trước khi Thuyên và các bạn của Thuyên ra về, tôi ôm Thuyên khá bịn rịn. Thế mới biết tình cảm lính tráng tưởng khô không khốc, có ai ngờ có những giây phút bịn rịn, không nỡ chia tay nhau, lại ra nông nỗi như thế này đây!

Tôi hiểu rằng bạn bè gặp gỡ ở chiến trường như hoàn cảnh giữa tôi và Thuyên là vô cùng hiếm hoi, khó có thể có lần được gặp lại nhau được như vậy nữa.

Thuyên xuống khu Cây Dầu cùng anh em làm căn cứ tiền phương của Mặt trận lại chính là nơi hậu phương của chúng tôi về nghỉ dưỡng quân khoảng một vài tháng là cùng. Sau đó, anh em chúng tôi lại cùng nhau trở lại chiến đấu và phục vụ chiến đấu ở chiến trường vùng sâu.

Vì vậy, khi từ biệt Thuyên và anh em R, tôi nói vườn rau của đơn vị tôi nhiều rau, ăn không hết, là gián tiếp muốn nói Thuyên và các bạn ở lại, ra ngoài vườn hái rau để cải thiện bữa ăn, và sang căn cứ của đơn vị tôi bỏ đi lấy làm chỗ ở vì chúng tôi làm căn cứ, hầm trú ẩn rất kỹ càng. Không hiểu sau khi chúng tôi hành quân xuống vùng sâu, Thuyên và anh em có hiểu được ý của tôi không.

Cháu Thanh đã gói sẵn quà cho Thuyên và các bạn của Thuyên hai ký thịt heo sống, một ít lòng heo đã luộc và một số thịt thủ đã làm sẵn và một can rượu khoảng 3 lít để các bạn mang về đơn vị ăn cho vui.

Thế là sau bữa liên hoan lịch sử “có một không hai trong đời tôi” với một người bạn lính ở ngay chính chiến trường Nam Bộ đầy bom đạn này, ngay tờ mờ sáng hôm sau, tôi cho đơn vị hành quân xuống chiến trường Sài Gòn - Gia Định, không hề muốn cho Thuyên hay biết về chuyện đơn vị tôi xuống vùng sâu, phục vụ cho đợt chiến đấu mới chống lại âm mưu phá hoại Hiệp định Paris của cố vấn Mỹ và các đơn vị VNCH bằng cách liên tiếp tổ chức các cuộc hành quân lấn đất, giành dân ở vùng tranh chấp trong khu vực Sài Gòn - Gia Định và các vùng phụ cận.

…từ biệt bạn bè, đơn vị hành quân lại qua Dầu Tiếng

Tôi đã đưa đơn vị hành quân xuống vùng sâu (khu Sài Gòn - Gia Định) biết bao nhiêu lần, kể cả những lần đi công tác một mình, qua đồn điền Dầu Tiếng (đồn điền Michelin), nhưng chưa bao giờ có nhiều ấn tượng bằng hai đợt hành quân cùng đơn vị qua khu đồn điền này.

Lần thứ nhất vào đợt 1 đi phục vụ tiền phương năm 1968, tôi hành quân qua đồn điền Dầu Tiếng. Thời gian này, tôi vừa mới chân ướt chân ráo đến Phòng Quân báo Miền (chiến trường B2) được hơn một tháng thì được lệnh đi gấp xuống tiền phương, không kể ngày và đêm, vượt gấp qua đồn điền để xuống khu tây bắc Sài Gòn phục vụ tác chiến.

Đi liên tục hơn một ngày, một đêm, chúng tôi tới đồn điền vào buổi sáng sớm.

Lần đầu tiên trong đời, tôi được chứng kiến bằng chính đôi mắt của mình một đồn điền cao su thật đẹp, rộng bao la. Đường trong đồn điền trải nhựa phẳng lì. Dịp Tết đến, các anh, các chị thanh niên đang sống ở khu đồn điền từng cặp một chở nhau trên chiếc xe Honda trông vô cùng “oách”.

Đặc biệt khu vực đồn điền này tiếp giáp với vùng giải phóng nên “mode” của các anh, các chị là mặc quần áo theo kiểu lính giải phóng, nhưng quần áo của các anh, các chị được may đo sát người, vải popeline màu xanh của lính rất đẹp, tất cả đều đội mũ tai bèo trông rất bắt mắt.

Tôi ngắm lại những bộ quần áo của “lính giải phóng thứ thiệt” chúng tôi mà thấy buồn cười vì quần áo chúng tôi là vải kaki hoặc vải thường màu đen, người thì đội nón tai bèo, người thì quấn khăn rằn, đâu có bảnh bao, đẹp đẽ, ủi láng cóng như của các anh, các chị ở đồn điền cao su. Lính giải phóng chúng tôi gọi đám thanh niên trên là “dân cà nhõng chống xâm lăng”.

Lần thứ hai đưa đơn vị xuống chiến trường vùng sâu, đi vượt qua đồn điền Dầu Tiếng tôi mới cảm thấy thật đáng thương những người lính “bên kia chiến tuyến” bị chết và bị thương trong những trận đánh một mất một còn với quân giải phóng đầu năm 1973 ở khu vực Sở Cao su Dầu Tiếng, Bến Tranh.

Khi đơn vị tôi chuẩn bị băng qua đồn điền Dầu Tiếng, cô giao liên ra lệnh tất cả anh chị em lấy bao ny-lon bít kín mặt để chạy thật nhanh qua vùng nguy hiểm (bao ny-lon bịt mặt này phát cho anh em lính giải phóng để phòng ngừa khi qua vùng máy bay Mỹ rải chất độc da cam, bịt kín mặt chạy thoát khỏi khu vực đó, rồi tháo ny-lon bịt mặt ra, lấy gói xà bông bột được phát chà lên mặt, sau lấy nước uống trong bình toong rửa sơ qua mặt để giảm thiểu chất độc hóa học ngấm vào trong cơ thể).

Trên đoạn đường cả đơn vị chạy qua đồn điền, chúng tôi gặp rất nhiều xác chết bị cháy thành than, đen thui, nằm ngổn ngang, co quắp, chưa được chôn cất. Điều rất lạ là lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi thấy tận mắt con người chúng ta bình thường cao khoảng từ 1m55 trở lên, nhưng khi bị thiêu cháy thành than, thân hình đen mun, độ cao chỉ còn khoảng 0m80 là cùng.

Chạy bán sống bán chết khoảng 45 phút, cô giao liên cho nghỉ để tháo bao ny-lon, rửa mặt.

Sau khi vượt qua đồn điền Dầu Tiếng, cô giao liên dẫn chúng tôi đi một đoạn đường dài khoảng hơn một tiếng đồng hồ mới cho nghỉ. Đến đoạn đường này, chúng tôi đã rành đường đi xuống chiến trường. Cô giao liên chia tay với chúng tôi, quay trở về trạm.

Lúc này là 16g00 chiều. Tôi cho anh chị em nghỉ, chuẩn bị nấu cơm chiều, rồi đi hành quân tiếp về nơi đóng quân trước khi trời sáng.

Ăn cơm xong, tôi ngồi uống trà với anh em. Tôi thấy anh Quốc Chung (phụ trách hậu cần) hớt hải từ dưới rạch nước gần đó chạy lên. Anh thì thầm với tôi:

“Anh Hùng ơi, dưới rạch nước, chỗ lùm cây có cái đầu lâu!”.

Tôi đứng dậy, kéo anh Chung ra một góc, rồi nói nhỏ:

“Ăn cơm thì cũng đã ăn rồi, uống trà thì cũng đã uống rồi. Cậu giữ kín chuyện cho tôi, lộ ra là mệt lắm đấy! Vài ba anh chị em biết chuyện lại ói mửa lung tung dễ bị lộ lắm, dễ vỡ kế hoạch hành quân của đơn vị lắm đấy!

Ở đây bọn thám báo hoạt động hơi nhiều, nói anh chị em phải hết sức cẩn thận, nói càng ít, càng tốt.

Cậu nhanh chóng giúp tôi truyền lệnh cho mọi người chuẩn bị lên đường, tiếp tục hành quân. Đội hình đi dãn ra, đề phòng pháo Đồng Dù bắn lúc chiều tối”.

Anh Quốc Chung phổ biến lệnh hành quân, và rồi anh em tôi lại tiếp tục “lết” trên đường.

Tôi biết anh chị em đi từ sáng đến giờ rất mệt, nhưng vẫn phải ra lệnh hành quân vì khoảng chiều tối pháo địch bắn liên tục, không được an toàn. Chúng sợ lính hậu cần đoàn 83 tải gạo xuống chiến trường dọc sông Sài Gòn.

Đây là kỷ niệm rất đặc biệt trong đời lính chiến mà suốt đời tôi không thể nào quên cho được.

Quay trở lại câu chuyện về bạn Thuyên. Kể từ khi đưa đơn vị xuống chiến trường vùng sâu, tôi không có tin tức gì của Thuyên cả.

Qua thư của bạn Hùng Trí tôi được biết Trí đã vào Sài Gòn và đang ở Ban Liên hiệp Quân sự bốn bên trung ương từ tháng 02/1973 và hiện bạn Thuyên đã được điều về công tác tại Hội đồng Hòa giải của Mặt trận.

Chẳng hiểu ông bạn Thuyên của chúng tôi về Hội đồng hòa giải này có việc gì làm không hay suốt ngày chỉ ngồi uống trà, “xơi” thuốc lá? Mặc dù vậy, tôi cũng mừng cho Thuyên đã được về làm việc ở một chỗ “khá an toàn” và đỡ vất vả hơn trước.

Khoảng tháng 10/1973, Trí lại cho tôi hay bạn Thuyên đã chuyển công tác sang làm nhiệm vụ lễ tân ở bộ phận anh Hai Dũng, Hòm thư L6062 ở Lộc Ninh.

Trí viết cho tôi biết “ông Thuyên” lại “nổ tưng bừng”, hẹn sẽ tiếp đãi Trí thật “hoành tráng” khi gặp lại nhau tại thủ đô kháng chiến Lộc Ninh.

Tiếc rằng Trí quá bận, không sắp xếp được thời gian đến thăm bạn Thuyên để xem ông tiếp khách “long trọng” ra sao như ông đã hứa.

Tháng 05 năm 1974, Thuyên được xét duyệt theo chế độ, từ biệt chiến trường Nam Bộ để quay trở lại miền Bắc. Điều đáng buồn khi về đến quê nhà, Thuyên không bao giờ được gặp lại người cha thân yêu của mình, vì bố của Thuyên bị bệnh ung thư, đã từ biệt cõi đời này.

Sau khi hòa bình trở lại, năm 1977 tôi có dịp ra Hà Nội thăm gia đình và bạn bè. Tôi và Trí cùng nhau đạp xe về quê Thuyên. Chúng tôi rất vui khi ba đứa chúng tôi (thiếu mất Chăn) gặp lại nhau tại chính gia đình Thuyên, gặp tất cả vợ con anh ở nhà. Thuyên chững chạc trong bộ đồ lính, quân hàm thiếu tá. Thuyên cho biết hiện anh là giáo viên dạy tiếng Anh cho trường ngoại ngữ của quân đội. Trở về quê nhà, vợ chồng Thuyên sinh hạ thêm đứa con thứ tư.

Trưa hôm đó, Trí và tôi ngồi ăn cơm với gia đình Thuyên, kể đủ mọi chuyện trong chiến trường Nam Bộ rất vui vẻ. Tất nhiên trong các câu chuyện ôn lại, không thể nào thiếu chuyện “ông thiếu tá” thách tôi “đấu” rượu ở đơn vị tôi tại thị trấn Cây Dầu (biên giới Việt Nam - Campuchia).

Trở về Sài Gòn công tác, tôi không còn có dịp gặp lại Thuyên nữa. Nghe nói một vài năm sau đó, Thuyên mất vì bị bạo bệnh.

Chuyện về bạn Nguyễn Gia Chăn

Còn một nhân vật thứ ba và cũng là nhân vật cuối cùng của nhóm lính Ăng- lê 615 đầu tiên đầu quân cho Cục Địch vận, Tổng cục Chính trị được điều đi chiến trường B2 tôi phải có nghĩa vụ kể hầu các bạn cho trọn tình, trọn nghĩa.

Đó là bạn Nguyễn Gia Chăn, người đã từng thực hiện nghĩa vụ quân sự đầu tiên sau tiếp quản Hà Nội, đã được vinh dự gọi tái ngũ.

Khác hẳn với Trí và Thuyên, bạn Chăn được chọn biên chế về đầu quân cho Sư đoàn 05 quân giải phóng (công trường 05), một sư đoàn anh hùng, do anh Năm Truyện hay anh Năm Sài Gòn làm sư trưởng, hoạt động diện khá rộng và chủ yếu ở các vùng trọng điểm của chiến trường Nam Bộ.

Đầu năm 1968, Sư đoàn 05 (CT 05) được tăng cường Trung đoàn 88 của Sư đoàn 308. Trong đợt tác chiến đầu tiên, Sư đoàn 05 đóng vai trò chủ lực ở mặt trận phía đông, tấn công thẳng vào Sài Gòn.

Chính trong thời điểm lịch sử này, Chính ủy Sư đoàn 05 (CT 05) là Tám Hà đã ra chiêu hồi, được quân VNCH nhanh chóng đưa về khai thác tại Sài Gòn.

Sự phản bội của Tám Hà làm sư đoàn bị tổn thất nặng khi phải đối đầu với các mạng lưới hỏa lực dày đặc của Mỹ và quân đội Sài Gòn tấn công dữ dội vào đội hình tác chiến cũng như vào các căn cứ đóng quân của các đơn vị thuộc sư đoàn.

Sau ba đợt tác chiến trong năm 1968, Sư đoàn 05 (CT 05) rút về hoạt động phía tây bắc Sài Gòn. Đội hình của Sư đoàn 05 (CT 05) phải củng cố liên tục, không còn giữ được nguyên biên chế ban đầu giống như Sư đoàn 09 (CT 09) và Sư đoàn 07 (CT 07).

Tháng 04/1970 Sư đoàn 05 (CT 05) hành quân lên Campuchia và tham gia đánh thắng trận Snoul, tịch thu được nhiều xe thiết giáp, góp phần đẩy lui cuộc hành quân qua Campuchia của Mỹ và của quân đội VNCH.

Đầu năm 1972, Bộ Tư lệnh Miền (R) mở Chiến dịch Nguyễn Huệ.

Trong trận hiệp đồng binh chủng đầu tiên của quân dân ta ở chiến trường Nam Bộ, các Sư đoàn 05 (CT 05), Sư đoàn 09 (CT 09), Sư đoàn 07 (CT 07) quân giải phóng và các đơn vị xe tăng đã tấn công đồng loạt giải phóng thị xã Lộc Ninh.

Đầu năm 1972, trước khi Sư đoàn 05 (CT 05) di chuyển về miền Tây Nam Bộ hỗ trợ các đơn vị bộ đội địa phương chống lại các đợt hành quân phục vụ ý đồ bình định lãnh thổ của Mỹ và quân đội VNCH, bạn Chăn và một đồng đội của Chăn là anh Tên (học sinh ở Sài Gòn) đến Đại đội 02 trinh sát kỹ thuật ở Phòng Quân báo, Bộ Tư lệnh Miền trao đổi về nghiệp vụ trinh sát kỹ thuật Mỹ với tôi.

Thực ra lúc này trên chiến trường, Mỹ đang rút dần quân chủ lực ra khỏi Việt Nam. Đơn vị rút cuối cùng khỏi chiến trường là sư đoàn Dù 101 vào tháng 04/1972. Mỹ chỉ để lại một hệ thống cố vấn giúp chế độ Sài Gòn.

Không ngờ gặp lại bạn Gia Chăn ở rừng Móc Câu

Tôi vô cùng mừng rỡ được gặp lại Chăn ở Nam Bộ sau gần 07 năm xa cách (1965-1972). Chăn ở và làm việc với tôi khoảng hai tuần. Điều đặc biệt là trong nhóm vào chiến trường Nam Bộ, chỉ có tôi ở bên Cục Tình báo còn ba bạn Trí, Chăn, Thuyên ở Cục Địch vận.

Ấy vậy mà do tình hình “chiến sự” xoay vần, chỉ có duy nhất Trí giữ nghề, Thuyên chuyển sang làm “binh vận”, chủ yếu đóng đô ở Trung ương Cục, làm văn thư, tiếp tân là chính. Riêng duy nhất bạn Chăn chuyển sang làm cùng nghề trinh sát kỹ thuật Mỹ với tôi.

Chăn tâm sự bạn không thích lắm về cái nghề này vì đi hành quân phải mang vác nặng. Hơn nữa, khi chiến sự nổ ra, trên yêu cầu nắm Mỹ và các đơn vị VNCH quá rộng, đôi lúc không đáp ứng kịp, bị la rầy liên tục. Trong Ban Quân báo sư đoàn, Chăn là chính trị viên đội trinh sát kỹ thuật. Riêng việc lo hậu cần cho đơn vị trong quá trình hành quân, chiến đấu với đối phương là đã “oải” lắm rồi.

Chăn nói vô cùng chuẩn xác vì địa bàn hoạt động của Sư đoàn 05 (CT 05) dang rộng ba vùng trọng điểm Long Khánh - Biên Hòa - Bà Rịa, bom đạn suốt ngày đêm, tiếp tế lương thực, vũ khí đạn dược vô cùng khó khăn. Hơn nữa, ngoài việc phải thường xuyên đương đầu với các lực lượng quân sự Mỹ - Việt Nam Cộng hòa, thì còn phải đương đầu với Trung đoàn Hoàng gia Úc chiến đấu vô cùng lì lợm, đôi lúc còn dữ dằn hơn cả lính Mỹ nữa.

Tôi trao đổi nhiều với Chăn và Tên về đối phó của Mỹ trong kỹ thuật thông tin liên lạc, đặc biệt sau năm 1969, khi tôi nghe nói đơn vị trinh sát kỹ thuật của anh Đồng ở Phân khu 01 (T1 - khu tây bắc Sài Gòn - Gia Định) bị lính Mỹ bao vây, bắt giữ được một số tài liệu và quân đội Mỹ phát hiện đơn vị anh Đồng đang khai thác tin tức hoạt động của các lực lượng quân sự Mỹ trên các mạng thông tin liên lạc nội bộ của lính Mỹ.

Những kế hoạch hành quân trước kia bọn Mỹ chủ quan, nói rất rõ, kể cả các tọa độ đổ quân và kế hoạch tác chiến. Nhưng từ khi phát hiện quân giải phóng theo dõi những hoạt động quân sự Mỹ trên những phương tiện thông tin liên lạc, quân đội Mỹđã mã hóa toàn bộ, gây khó khăn không nhỏ trong công tác nắm tin tức quân sự Mỹ, phục vụ cho chỉ huy tác chiến của ta ở mặt trận.

Chúng tôi cũng trao đổi cách khai thác nhanh nhất những “khó khăn” trên như thế nào, kể cả các kế hoạch ném bom B52 của Mỹ.

Những trao đổi về kinh nghiệm trong nghề nghiệp trinh sát kỹ thuật của chúng tôi cũng rất bổ ích cho đơn vị Chăn khi các bạn về đứng chân ở miền Tây Nam Bộ, đặc biệt nắm tin tức, hoạt động của các đơn vị VNCH trong các đợt hành quân phục vụ ý đồ bình định lãnh thổ, chiêu hồi cán bộ, bộ đội ta, đánh lấn chiếm ra vùng giải phóng, phá hoại Hiệp định Paris.

Tôi cũng cho Chăn biết các sư đoàn đều đã có đội trinh sát kỹ thuật riêng rồi. Các anh nắm địch rất tốt, cụ thể Sư đoàn 07 (CT 07) có anh The, Sư đoàn 09 (CT 09) có anh Kế, Sư đoàn 01 (CT 01) có anh Sen. Tất cả các anh kể trên đều đã có dịp về Phòng Quân báo làm việc với tôi.

Ngoài công việc, Chăn cũng tâm sự về gia đình bạn ở Lê Văn Hưu, Hà Nội, về tương lai ra sao vì lúc đó tuổi bạn đã lớn rồi (Chăn chắc phải lớn tuổi hơn Trí, Thuyên và tôi vài ba tuổi vì sau khi học xong phổ thông, bạn ấy đã đi nghĩa vụ quân sự ba năm).

Hai tuần sống và làm việc với nhau quá nhanh. Chăn và tôi lại chia tay, mỗi đứa đi một ngả ở chiến trường Nam Bộ rộng bao la, bát ngát này.

Sau khi kết thúc làm việc với Chăn, cuối tháng 04 năm 1972, tôi xuống nhận công tác mới ở T4 (Đặc khu Sài Gòn - Gia Định).

Làm việc ở T4 (Sài Gòn - Gia Định), một chiến trường vùng sâu, quá xa với Trung ương Cục miền Nam, tôi chỉ được biết mọi tin tức về gia đình ở Hà Nội, về Thuyên, Chăn chủ yếu qua thư từ của Trí.

Chăn, Thuyên đã về nhà. Chăn lấy vợ. Thuyên thêm em bé.

Trong bức thư gửi cho tôi đề ngày 25 tháng 12 năm 1974, Trí báo tin bạn Chăn đã được giải quyết theo chế độ, trở về miền Bắc. Chăn đã xuất ngũ và đã nhận nhiệm vụ chính thức làm giáo viên dạy tiếng Anh tại Trường phổ thông cấp 3 Lý Thường Kiệt, Hà Nội.

Khoảng tháng 06 năm 1975, Trí viết thư báo bạn Chăn đã lập gia đình được gần bốn tháng rồi.

Thế là đến cuối tháng 12 năm 1974 hai ông bạn trong nhóm “Bốn lính Ăng-lê 615 ở chiến trường ở B2” là Chăn và Thuyên đã trở về quê nhà, gặp họ hàng, gia đình thân yêu. Cuộc sống các bạn thật đẹp. Anh chị Thuyên sinh thêm một đứa con nữa là tròn bốn cháu, và Chăn, sau chín mười năm chiến trận, đã lập gia đình với một cô gái Hà Nội nghe nói khá xinh đẹp và rất đảm đang.

Ôi, thật quá hạnh phúc! Xin thành thật chúc mừng hai bạn đồng đội Thuyên và Chăn cùng toàn thể hai gia đình.

Các bạn Thuyên và Chăn của tôi đã rất xứng đáng được hưởng hạnh phúc thật trọn vẹn trong tình cảm tràn ngập thân thương của gia đình, của vợ con, mặc dù trong thời gian cuối năm 1974, ở chiến trường trọng điểm Sài Gòn - Gia Định của chúng tôi bom đạn nhiều hơn, dữ dội hơn, lính tráng ta cũng “tất bật” hơn chuẩn bị cho những trận đánh lớn quyết liệt hơn, và tôi cũng dám chắc 100% rằng vào thời điểm đó bác Văn Cao chưa hề có ý tưởng trong đầu để sáng tác bài ca “Mùa xuân đầu tiên” cực kỳ hay chào mừng mùa xuân đầu tiên sau ngày giải phóng đất nước (1976).

Ở chiến trường B2 này trong nhóm “Bốn lính Ăng-lê 615” thời gian cuối 1974 chỉ còn tôi và bạn Trí.

Trong hai thằng tôi, bạn Trí ở trên Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam, chắc trước sau cũng phải giải quyết chế độ cho bạn ấy vì Trí vào chiến trường quá lâu rồi.

Hùng Trí đã trở về nhà tháng 03/1975, sau 10 năm xa cách

Đúng như tôi dự đoán. Trí viết thư báo cho tôi biết đã về đến nhà 212 Bà Triệu, kết thúc gần 10 năm chiến chinh ở chiến trường Nam Bộ nóng bỏng này, sau khi hoàn thành nhiệm vụ dẫn một số tù binh quân đội VNCH ra miền Bắc vào cuối tháng 03/1975.

Thật mừng cho Trí và toàn thể gia đình bác giáo Thìn vì từ giờ phút này trở đi, bác giáo cùng vợ chồng anh Cường (béo) + chị Nhu, vợ chồng anh Hội + chị Thúy, vợ chồng chị Loan + anh Cường (gầy), vợ chồng chị Cúc + anh Hòa và các cháu trong nhà đã có thể “từ từ” chuẩn bị tiệc cưới long trọng cho chú Hùng Trí ở đất Hà thành rồi.

Tôi luôn chắc rằng Trí sẽ “cưới” một cô em gái thật vừa lòng mình, vừa lòng tất cả mọi người đang sống trong ngôi biệt thự số 212 phố Bà Triệu, vì tôi biết lúc này bác giáo và các anh, các chị đi “soi” vợ cho Trí kỹ lắm.

Trí không thể lấy vợ như kiểu bạn ấy tâm sự trong một lá thư gửi cho tôi:

“…Cuộc sống hiện nay rất đa dạng, yêu đương bây giờ cũng khó khăn hơn. Ông Nguyễn Minh Y (địch vận) phải nói là “lấy vợ như đánh sổ xố”. Cũng đúng đến 80% mày ạ”.

…còn anh em đơn vị tôi ở quân khu vẫn lao vào trận mạc

Giữa lúc các bạn tôi đang hạnh phúc trong vòng tay âu yếm, yêu thương của đại gia đình mình trong những căn nhà thân yêu (home) ở quê nhà tại miền Bắc, tôi lại đang bù đầu trong công tác và phục vụ chiến đấu ở nơi “nước sôi, lửa bỏng” nhất của chiến cuộc (chiến trường T4), làm sao tôi có thể bỏ nhiệm vụ, trở về nhà như các bạn của tôi được? Vả lại ở chỗ tôi đang công tác (chiến trường T4) có ai nói đến chuyện “giải quyết chế độ” gì đâu! Tôi luôn nghĩ tất cả là do Mr. God định hết!

Thật đúng là thời gian từ cuối năm 1973 trở đi, đơn vị tôi công việc ngập đầu, người làm việc thiếu, một người phải làm việc bằng hai, bằng ba. Hơn nữa, một số lớn anh chị em có nghiệp vụ quân báo được điều động sang tăng cường cho các đơn vị khác mới thành lập, chẳng hạn như Lữ đoàn 316 đặc công biệt động được thành lập ngày 20 tháng 03 năm 1974, chuẩn bị cho những đợt tổng phản công sắp tới trên diện rộng ở chiến trường trọng điểm.

Lữ đoàn 316 gồm 04 tiểu đoàn đặc công, 12 phân đội Z biệt động (tương đương cấp tiểu đoàn) do các anh hùng quân giải phóng miền Nam Việt Nam chỉ huy gồm các Đại tá Chín Tùng hay Mười Cơ (Nguyễn Thanh Tùng), Tư Cang (Nguyễn Văn Tàu, Chính ủy Lữ đoàn), Tư Tăng (Nguyễn Văn Tăng), và Tám Nam (Nguyễn Thành Nam).

Ngày 18 tháng 03 năm 1975, cha tôi gửi một bức thư cho tôi hay anh Út Ngộ (Thượng úy, đồng đội của tôi ở chiến trường T4 được cử ra miền Bắc học và công tác) đến nhà 123 Bùi Thị Xuân, báo cho cha tôi rõ anh Tư Chu (Đại tá Nguyễn Đức Hùng, Anh hùng lực lượng vũ trang, nguyên Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng quân khu Sài Gòn - Gia Định, nguyên Tư lệnh biệt động Sài Gòn) sau khi ra nghỉ, an dưỡng ở miền Bắc, đã được lệnh hỏa tốc quay gấp về chiến trường, nên không thể kịp ghé qua nhà để lấy thư của cha tôi nhờ chuyển cho tôi.

Ở chiến trường, ngay từ cuối năm 1973 chuyển sang 1974, không khí làm việc tại các đơn vị trong quân khu vô cùng tất bật, nhằm chuẩn bị phục vụ cho các chiến dịch lớn trước sau cũng sẽ diễn ra, mặc dầu anh em trong đơn vị không hề được trên phổ biến, nhưng ai ai cũng đoán được bộ đội ta “sắp đánh lớn đến nơi rồi!”.

Những năm tháng cuối của chiến tranh

Tôi còn nhớ cũng khoảng cuối năm 1973, anh Hai Phụng, Tư lệnh quân khu, gọi điện thoại báo cho tôi chuẩn bị sáng mai báo cáo một số mục tiêu cụ thể có thể tác chiến được ở nội đô Sài Gòn với anh Sáu Đạo, Chính ủy và anh Quang, Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh đặc công từ Hà Nội vào chiến trường công tác.

Sau một đêm chuẩn bị thật kỹ lưỡng theo yêu cầu của anh Hai, sáng hôm sau tôi lên văn phòng Bộ Tư lệnh quân khu báo cáo. Chúng tôi làm việc suốt một buổi sáng từ 07g30 đến 11g30. Tôi liên tục phải trả lời các câu hỏi chất vấn của các anh Hai Phụng, Sáu Đạo và Quang về các mục tiêu cụ thể đã báo cáo và các hướng tiếp cận các mục tiêu trên từng tuyến đường cụ thể.

Trong khi tôi báo cáo, phía góc cuối văn phòng tôi nhìn thấy anh Bảy Bê đứng lấp ló, đang nghe ngóng gì đó. Thực ra tôi không có một chút quan tâm về chuyện này.

Sau buổi báo cáo, anh em lính A1 (văn phòng Bộ Tư lệnh) nói chuyện với anh chị em trong đơn vị tôi rằng anh Bảy Bê vô cùng kinh ngạc vì khi báo cáo với các thủ trưởng, tôi quá rành đường phố Sài Gòn, ăn nói chẳng khác chi dân Sài Gòn “thứ thiệt”. (Anh Bảy Bê, tức anh Nguyễn Thanh Xuân, Anh hùng lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam, và anh Tư Mập, tức anh Nguyễn Văn Hòa, đêm Noel 1964, đã đưa một xe hơi chứa đầy thuốc nổ chạy thẳng vào tầng hầm của cư xá Brinks, số 103 đường Hai Bà Trưng, Quận 1, Sài Gòn, làm nổ tung cư xá, giết và làm bị thương nhiều sĩ quan Mỹ.

Sau này, khi anh Tư Mập về làm việc tại Ban Tác chiến quân khu, tôi có dịp tiếp xúc nhiều với anh).

…tạo tiếng “vang” để khuấy động phong trào ở đô thị

Tình hình đô thị Sài Gòn - Gia Định tương đối im ắng hơn trong thời gian từ giữa 1972 đến giữa năm 1973.

Binh sĩ và cảnh sát Sài Gòn tăng cường các cuộc hành quân lùng sục khắp hang cùng ngõ hẻm, gây cho ta nhiều khó khăn. Cấp trên yêu cầu tạo lại tiếng vang để khuấy động phong trào ở đô thị Sài Gòn - Gia Định. Khoảng gần cuối năm 1973, Ban Quân báo (lúc này anh Ba Lâm làm Trưởng ban, và phó ban là các anh Hai Sang, Năm Hà, Sáu Lễ và Năm Nhưỡng) đề nghị Bộ Tư lệnh quân khu cho phép “cướp” một máy bay trực thăng ở bãi biển Nha Trang.

Bộ Tư lệnh chuẩn y kế hoạch táo bạo này. Nhiệm vụ này được giao trực tiếp cho anh Trinh (tên thật là anh Hùng) cùng anh Bé Đen triển khai. Anh Bé Đen hỗ trợ cho anh Trinh thực hiện phi vụ này.

Thực ra anh Trinh là người của ta gài vào hoạt động trong lòng địch. Anh đã được Mỹ cử sang học khóa phi công lái trực thăng. Tốt nghiệp, về Sài Gòn, anh được phong hàm Trung úy phi công lái trực thăng trong Không lực Việt Nam Cộng hòa.

Sau một thời gian làm việc, anh bị phát hiện trong gia tộc có một người quan hệ họ hàng khá xa đi tập kết ở miền Bắc. Thế là anh được phép xuất ngũ, về làm dân dã, và rồi trở lại Sài Gòn kiếm sống.

Sợ bị lộ cơ sở trong thành, Ban Quân báo điều anh ra căn cứ, chờ bố trí công việc cho thích hợp.

Sau khi trao đổi kỹ nhiệm vụ, bàn các phương án tác chiến, anh Trinh và anh Bé Đen vào Sài Gòn. Sau đó, các anh đi xe đò ngược lên Nha Trang, nơi anh Trinh đã từng làm việc trong không lực VNCH, chờ thời cơ.

Khu vực sân bay lúc bấy giờ lính VNCH canh gác rất nghiêm ngặt, rất khó đột nhập vào trong sân bay.

Đang lúc trong vòng vây gắt gao của đối phương, hoạt động khó khăn, thì lại là lúc vừa chân ướt chân ráo đến địa bàn hoạt động, anh Trinh mất liên lạc hoàn toàn với anh Bé Đen.

Thế là anh Trinh phải độc lập tác chiến, tự xoay sở một mình, không hề có ai hỗ trợ.

Trong một buổi chiều đẹp trời, anh gặp một trường hợp khá chủ quan của một viên phi công đang lái chiếc trực thăng đáp xuống bãi. Chớp thời cơ, anh Trinh rà đến gần chiếc trực thăng, làm như không có sự cố gì xảy ra, leo nhanh lên chiếc trực thăng, vận bộ đồ bay của viên phi công rồi khởi động cho chiếc trực thăng bay lên cao, hướng về phía tây bắc Sài Gòn.

Trên đường bay, anh đã liên lạc về đơn vị qua máy điện đàm trên máy bay và được lệnh trực tiếp của Bộ Chỉ huy quân khu tìm chỗ đáp chiếc trực thăng xuống đồn điền Dầu Tiếng (lúc này Dầu Tiếng đã là vùng giải phóng).

Hạ cánh chiếc trực thăng xong, anh được đưa ngay về căn cứ Bộ Tư lệnh Quân khu. Sau một thời gian ngắn, tôi nghe anh Ba Lâm (Ban Quân báo) cho biết anh Trinh và toàn bộ chiếc trực thăng trên đã được vận chuyển thẳng ra Hà Nội rồi.

Bên cạnh chuyện “cướp” trực thăng của không quân VNCH, phải kể đến một trận tập kích “đẹp như mơ”, đánh thẳng vào Nhà Làng của xã Thạnh Lộc, quận Gò Vấp, một xã nằm cặp bên hông Sài Gòn, tiêu diệt toàn bộ lực lượng dân vệ và bảo an đồn trú tại địa phương, làm chủ suốt một đêm tại Nhà Làng vào khoảng cuối năm 1973 của Tiểu đoàn đặc công Quân khu Sài Gòn - Gia Định.

Thắng lợi của trận tập kích này làm nức lòng dân, làm lính Mỹ và lính VNCH nhốn nháo, các đài phương Tây như BBC, VOA, ABC, và các báo chí trong và ngoài nước “chộp” và đưa lên trang đầu tin tức “nóng hổi” ngay sáng hôm sau.

Sự thật là trong tình hình lúc bấy giờ, đánh thẳng mục tiêu vào Sài Gòn rất khó khăn, vì các tuyến phòng thủ của đối phương rất chặt chẽ.

Bộ Tư lệnh Quân khu đã chọn thế bất ngờ, điều lực lượng tinh nhuệ đánh Nhà Làng, xã Thạnh Lộc là một đòn rất hiểm, làm hoang mang tinh thần của binh lính VNCH, làm dân chúng từ nội đô đến các quận vùng ven vô cùng phấn khởi, vì có tiếng súng là mọi người hiểu bộ đội đang ở ngay cạnh dân. Hơn nữa, địa hình khu vực này khi ta rút ra cũng rất thuận lợi, tránh khỏi thương vong cao.

Quận Gò Vấp năm 1973 đã bỏ cấp hành chính cấp “Tổng”, chỉ còn 07 xã trực thuộc quận là các xã An Nhơn, An Phú Đông, Bình Hòa, Thạnh Lộc, Hạnh Thông, Thạnh Mỹ Tây và Thông Tây Hội.

Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định giao cho tiểu đoàn đặc công do Thượng úy Triều (một người bạn khá thân của tôi, quê ở Thái Bình) chỉ huy trận tập kích này.

Những chuyện sau cuộc chiến, ngồi nhớ lại…

Sau giải phóng Sài Gòn, tôi gặp lại anh Triều ở nơi tiểu đoàn anh đóng quân tại một tòa nhà lớn ở đường Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa), đường đi xuống sân bay Tân Sơn Nhất, quẹo trái về đường Nguyễn Minh Chiếu, ngay ở cua ngã tư đường. Anh em gặp lại nhau vui vẻ, biết bao chuyện từ trong Nam ra đến ngoài Bắc, chuyện quê hương,… đều kể hết cho nhau nghe.

Khi Trung Quốc xâm lược cả phía bắc lẫn phía tây nam đất nước, anh Triều (lúc này là đại úy) đã dẫn tiểu đoàn đặc công thiện chiến này ra chi viện cho mặt trận phía bắc.

Sau này, do công việc sau chiến tranh quá bận rộn, tôi không liên lạc với anh Triều được nữa, không hiểu cuộc sống của anh ra sao?

Chuyện của anh em lính tráng chúng tôi thì nhiều lắm, đủ thứ chuyện vui buồn, kể làm sao cho hết được.

Nhân đây, tôi muốn kể tiếp một câu chuyện vui để các bạn thấy được tình cảm của các “sếp” ở Bộ Tư lệnh với “lính lác” chúng tôi như thế nào.

Khoảng gần cuối năm 1974, tôi lên giao ban ở Bộ Tư lệnh, báo cáo về tình hình hoạt động bình định, giành dân, giành đất ở khu vực Củ Chi.

Anh Năm Mân hay anh Trần Mân, (tên thật là Trần Văn Phú), lúc này là Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh quân khu Sài Gòn - Gia Định (T4) thay anh Tư Chu ra miền Bắc nghỉ dưỡng và công tác. Sau ngày hòa bình lập lại, thống nhất đất nước , anh Năm Mân là Thiếu tướng, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự Thành phố Hồ Chí Minh), hỏi tôi rất chân tình:

“Lính VNCH đang ủi đất rất quyết liệt ở Củ Chi. Bản đồ cậu lên báo cáo hôm nay có thật sự chính xác không?”

Tôi trả lời:

“Báo cáo các anh đây là tình hình lính VNCH đang lấn chiếm, dùng xe ủi đất ở khu vực xã Tân An Hội”.

Anh Năm hỏi tiếp:

“Tôi hỏi cậu có thật chính xác không? Bữa nay tôi được biết bọn lính đã ủi đến khu ruộng của chị tôi rồi đấy”.

Tôi trả lời:

“Báo cáo thủ trưởng tôi đâu có biết ruộng nhà chị của thủ trưởng ở chỗ nào đâu ạ! Nhưng tôi bảo đảm tình hình hoạt động lấn chiếm, ủi đất của lính VNCH được thể hiện trên bản đồ hôm nay là chính xác vì đã qua kiểm tra đủ các nguồn tin có thể có được, bao gồm đủ tin tức trinh sát mặt đất, giao liên, trinh sát kỹ thuật của Ban Quân báo rồi ạ”.

Mọi người trong cuộc họp cười vui vẻ vì câu trả lời chân thật của tôi.

Anh Năm phì cười, rồi nói:

“Tôi nói như vậy là muốn cho tất cả mọi người rõ lính VNCH đang ở sát nách chúng ta rồi đấy. Các phòng, ban phải hết sức cảnh giác, có kế hoạch canh gác căn cứ thật cẩn thận, đề phòng lính VNCH có thể tấn công bất cứ lúc nào”.

Sống ở chiến trường Sài Gòn - Gia Định này tuy ác liệt, lúc nào cũng khét lẹt mùi bom đạn nhưng bao giờ cũng đầy ắp những kỷ niệm của chiến trường. Trong công tác, tôi thường xuyên được gặp các anh chị phụ trách các cụm điệp báo ở trong thành hay ở cặp vùng ven về làm việc. Các anh phụ trách các ban quân báo các huyện như anh Bảy Sơn (Bình Chánh), anh Ba Quả (Hóc Môn) và các anh khác ở các huyện Nhà Bè, Gò Vấp, Thủ Đức v.v…về căn cứ họp, thường kể rất nhiều chuyện anh em du kích có sáng kiến trong chiến đấu rất hay, và cũng “rất Việt Nam”.

Trong tất cả những câu chuyện các anh kể, tôi thích nhất chuyện “hạ máy bay Mỹ” ở Bưng Sáu xã, huyện Thủ Đức.

Phải thật lòng mà nói, chưa một nước nào trên thế gian này “hạ máy bay” bằng bộc phá cả. Anh em dân quân ở Bưng Sáu xã (Thủ Đức) tuy học hành chỉ lớp 2 hay lớp 3 thôi nhưng đã có sáng kiến dùng bộc phá tiêu diệt “máy bay lồng kẽm” rất thông minh.

Thực ra bộc phá tự chế từ trước đến giờ dùng để “chơi” xe tăng. Ở vùng ven sát ngay Sài Gòn này, máy bay đầm già L19 ngày cũng như đêm lượn, đảo đi, đảo lại, “săm săm, ngó ngó”, tìm kiếm Việt Cộng. Bọn L19 bay dè dè suốt ngày, động một chút có gì nghi ngờ, chúng chỉ điểm ngay cho pháo bắn hay cho bọn máy bay lồng kẽm lên “dí” anh em Việt Cộng ta.

Trong phần viết về ông bạn Thuyên sau gần 07 năm xa cách (1965-1972) mới gặp lại ông ta ở thị trấn Cây Dầu, tôi đã kể cho ông bạn nghe chuyện thằng lồng kẽm đã “dí”, không chịu buông tha tôi như thế nào, làm tôi suýt “đỏ rực ngực” ở chính nơi chiến địa.

Thấy suốt ngày bị máy bay đầm già, pháo và bọn lồng kẽm quấy rầy, anh em du kích cột bộc phá có ngụy trang lên cây cao, rồi nằm ở dưới gốc cây che mình thật kín chờ lồng kẽm.

Anh em tạo tín hiệu giả cho đầm già nghi ngờ. Sau đó bọn lồng kẽm kéo từ hai đến ba máy bay tới. Trên máy bay lồng kẽm luôn có một chú “Mẽo” ngồi phanh cả ngực, gác có khi thòi cả chân ra ngoài, mặt đỏ gay đỏ gắt (chắc trời quá nắng), chĩa chúc đầu khẩu súng AR-15 xuống, tìm hầm cá nhân bắn xối xả. Nhiều tên rất ngoan cố, cho lồng kẽm dừng lại thẳng đứng trên ngọn cây, vén lá để ngó xem có Mr. Việt Cộng nào đã “deux cinquante” chưa? (hai lần năm mươi là một trăm tuổi, nghĩa là CHẾT ).

Thế là các chú lồng kẽm mắc bẫy “quân giải phóng miền nam” rồi. Mấy anh du kích ta chỉ còn chờ chú lồng kẽm vén lá ngó tìm VC là giật bộc phá cho nổ. Cả chiếc máy bay lồng kẽm tan tác, kéo theo tối thiểu hai lính Mỹ banh thây không còn chút thân xác nào để quân lực Hoa Kỳ có thể “escort” (hộ tống) về trả cho gia đình ở bên Mỹ nữa.

Cũng từ sự kiện vài ba chiếc lồng kẽm cùng “viên phi công Mỹ và đồng đội có trang bị AR-15 tháp tùng trên máy bay” bị tan thây, mất xác chỉ vì “sáng kiến vĩ đại” của anh em du kích Bưng Sáu xã (huyện Thủ Đức), dân quân vùng ven Sài Gòn sau này đỡ hẳn cảnh bị bọn lồng kẽm nhũng nhiễu.

Thời gian hoạt động ở khu vực Củ Chi, ấn tượng rất sâu đậm không bao giờ phai mờ được trong tiềm thức của tôi là “Cụm Bảy Nhà” ở Vùng Đất Thép Thành Đồng.

Các thủ trưởng của tôi là những người chính gốc địa phương vùng Củ Chi cho tôi biết Cụm Bảy Nhà này đã có từ rất lâu, nghe nói, không hiểu đúng hay sai, từ hồi chống Pháp. Sau này, tôi biết rất rõ trong kháng chiến chống Mỹ đây là một khu dân cư có bảy căn nhà, hầm trú ẩn được xây dựng kiên cố.

Điểm nổi trội là trong chiến tranh, đồng bào ở đây “rất lỳ”, không chịu tản cư, không chịu di chuyển đi nơi khác cho đỡ nguy hiểm. Đồng bào bám trụ đến cùng tại khu vực này.

Biết bao nhiêu lần B52 và pháo Đồng Dù vùi dập chốn này. Biết bao cuộc hành quân của quân đội Mỹ và Sài Gòn càn quét, triệt hạ Cụm Bảy Nhà này không chút thương tiếc. Ấy vậy mà, chỉ vài ba ngày sau, bảy căn nhà lại sừng sững hiện lên như “ma”, làm đối phương kinh hồn, khiếp vía!

Hòa bình lập lại, biết bao nhiêu công việc phải lao vào làm để kiếm sống hàng ngày, tôi bẵng quên vùng đất có tên “Cụm Bảy Nhà” này.

Gần đây, tôi hỏi đi hỏi lại qua nhiều người đáng tin cậy, nhưng chẳng ai biết được thực hư “Cụm Bảy Nhà” này còn hay mất, và cũng chẳng hiểu lý do tại làm sao cái tên huyền thoại “Cụm Bảy Nhà” không hề được nhắc đến một lần nào ở các giai thoại hào hùng của thành phố Sài Gòn trong cuộc chiến tranh cách đây gần nửa thế kỷ.

Phải nói thật lòng những công việc anh em chúng tôi từ quý 04/1974 trở đi rất nhiều, phải làm vô cùng tất bật, thậm chí không có thời gian nghỉ ngơi, nhưng anh em trong đơn vị chúng tôi như anh em một nhà, bảo ban nhau làm việc không nề hà gì cả, tất cả nhằm chuẩn bị tích cực phục vụ cho các trận đánh lớn của quân dân ta vào những tháng đầu mùa khô năm 1975 ở vùng đô thị Sài Gòn - Gia Định.

Những câu chuyện tôi kể ở trên về các bạn Trí, Chăn, Thuyên, những người bạn chiến đấu ở B2 với tôi đã được phép trên cho luân phiên trở về nhà sum họp gia đình là chuyện rất đỗi thường tình trong chiến tranh với những người lính chiến, chẳng có tác động mảy may gì đến tinh thần chiến đấu và phục vụ chiến đấu của lính tráng chúng tôi cả.

Phần cá nhân tôi, sau chiến tranh, vào đầu năm 1976, anh Tư Tiểng (Huỳnh Văn Tiểng) đến gặp anh Sáu Thành, Chính ủy Bộ Tư lệnh TP Hồ Chí Minh xin đích danh cho tôi được chuyển ngành về Đài Truyền hình Sài Gòn Giải phóng.

Tôi được bố trí về làm việc tại Phòng Tổ chức và Nhân sự, dưới sự lãnh đạo của anh Nguyễn Văn Thơm và anh Lê Dân, chủ yếu cùng các anh kiện toàn lại bộ máy tổ chức và nhân sự của Đài.

Giữa năm 1977, do công việc ở Đài đã ổn định, tôi xin chuyển về làm giảng viên Ban Anh văn, Khoa Ngữ văn nước ngoài, Trường Đại học Tổng hợp TP Hồ Chí Minh (ngành tôi đã được đào tạo trước khi đi lính).

Chuyển sang làm việc ở một môi trường hoàn toàn mới lạ, tôi đã cố gắng hết sức mình để có thể đứng vững trên đôi chân của mình, làm thật tốt công việc của một trí thức trên bục giảng đường đại học.

Giữa năm 1986, tôi đã bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học chuyên ngành tiếng Anh tại Trường Đại học Quốc gia Ngôn ngữ thành phố Moscow (trước là Trường Đại học Quốc gia Sư phạm Ngoại ngữ thành phố Moscow mang tên Morice Thorez) - Liên Xô cũ.

Từ đó (1986) cho đến năm 2008 (năm tôi nhận quyết định nghỉ hưu), tôi làm việc say mê, đào tạo nhiều lớp thầy, cô giáo chuyên ngành Ngữ học và Biên Phiên dịch tiếng Anh, được nhà trường, các thầy cô đồng nghiệp và nhiều thế hệ sinh viên tín nhiệm, quý mến.

Mặc dù đã nghỉ hưu, nhưng đến nay (2021), tôi vẫn tiếp tục ký hợp đồng làm việc với các trường đại học trong thành phố, tham gia đào tạo các lớp trên đại học, hướng dẫn các thầy cô trẻ viết luận văn sau đại học và tham gia các hội đồng chấm luận văn cao học ở tất cả các trường đại học nơi tôi cộng tác.

Bạn Nguyễn Minh Y, nhóm bộ đội khóa 04 đầu tiên được tuyển vào Cục Địch vận, nhưng sau không được cử đi bất kỳ một chiến trường B nào, cho dù đó là B ngắn, B sâu hay B dài, chỉ vì cái “tội” bạn Y biết tiếng Thái Lan quá giỏi đến nỗi các thủ trưởng ưu ái giữ chặt bạn không cho nhúc nhích, ở lại làm việc ngay tại Hà Nội, không cho đi vào bất kỳ chiến trường phía nam nào cả. Có lần bạn Y nói với tôi:

“Tao công nhận bọn mày ở chiến trường trọng điểm, bom đạn nhiều, sống chết chẳng biết thế nào, nhưng tao đảm bảo cuộc sống hàng ngày, ăn uống chúng mày phải tốt hơn ở miền Bắc rất nhiều. Mày phải biết miền Bắc trong những năm từ 1970 đến 1975 khổ lắm, Hùng ơi!”.

Nhớ lại cuộc sống ở chốn rừng thiêng, nước độc…

Ngồi ngẫm nghĩ lại, tôi không hiểu hoàn cảnh sinh sống của Chăn hay của Thuyên trong chiến tranh ra sao, nhưng cuộc sống trong chiến tranh của Trí và đặc biệt là của tôi, nhất là từ khi tôi xuống công tác ở đồng bằng T4 (khu Sài Gòn - Gia Định) thì khá tốt.

Trong cuốn tự sự gửi cho tôi, Trí tâm sự:

“…Tám năm sống trong rừng kể cả những lần đi chiến dịch hay xuống trại hỏi cung tù binh Mỹ, cuộc sống của chúng tôi khá đầy đủ về vật chất và tinh thần.

Sáng đi nghe giao ban tình hình chiến sự và nhận nhiệm vụ trong ngày, theo dõi đài AFVN, đài của quân lực Mỹ ở Việt Nam, hút thuốc thơm ARA của Campuchia hay Ruby (quân tiếp vụ) của Sài Gòn, uống trà Con Cua, Con Khỉ.

Từng nhóm nhỏ chúng tôi nuôi thêm gà, có lúc lên đến hàng chục con gà. Nhiều khi thèm ăn, gán tội vu vơ cho con nào đó, rồi bắt làm thịt.

Một vài câu thơ vui của lính giải phóng miền Đông Nam Bộ:

“Cảm thông bộ đội miền đông

Ăn cơm mắm ruốc, hút ròng ARA

Đói lòng làm bát cháo gà

Khát nước, uống bậy ly trà Con Cua”

Nhiều khi ăn thịt gà nhiều quá, thấy chua chua, không muốn ăn nữa.

Trong đời lính, tôi chưa bao giờ thiếu gạo, trừ một tuần phải ăn đậu xanh thay cơm. Bữa đầu, lính nào cũng thích. Nhưng vài bữa sau, nuốt không trôi.

Mỗi tuần, nhà bếp làm bánh xèo, ép bún hoặc làm thịt chó để cải thiện bữa ăn. Thời gian đóng trên đất Campuchia, khu vực Cần Ché (Kratié) ăn thịt chó “vô tư” vì dân họ cho. Ở xứ Campuchia, dân không ăn thịt chó. Đơn vị có ông anh nuôi biết cách chế biến thịt chó 07 món, ăn thật tuyệt vời.

Trong khu căn cứ, chúng tôi dùng súng thể thao đi săn (vì bạn Trí ở vùng “trong cùng” của hậu cứ, nơi có các tướng lĩnh “đỉnh cao” ở và làm việc, nên phải trang bị cho anh em bằng súng thể thao để đi săn lấy thịt về cải thiện cho bữa ăn của đơn vị. Ưu điểm nổi trội là khi bắn thú rừng, tiếng súng thể thao nổ nhỏ đi rất nhiều so với súng CKC, không bị bọn biệt kích, thám báo phát hiện. Đây cũng là ưu thế đặc thù có một không hai mà chỉ có quân giải phóng sống ở khu vực này mới được hưởng.

Điều này có thể được kiểm chứng minh bạch nếu đặt câu hỏi này với 100 lính giải phóng quân đã từng chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ, may ra chỉ có một người (1%) biết được “ân sủng” đặc biệt này mà thôi!

Nếu chẳng may không tìm nổi một người lính giải phóng biết chuyện này đi chăng nữa thì vẫn có tôi, vì đến nay Trí đã bật mí cho tôi biết chuyện này rồi! - TG).

Nhiều khi chúng tôi bắn đến mức bội thu đủ loại thịt thú rừng ăn rất ngon như cheo, gà rừng, mễn (một loại nai rừng, có khi nặng đến 20 kg), dọc (một loại khỉ mặt xanh), ăn không thể hết được, phải kho cất đi để dành.

Nhiều đêm, chúng tôi chuyển hướng, đi dọc suối chém cá. Dụng cụ đi chém cá rất đơn giản, chỉ cần một chiếc đèn dầu hỏa, lấy một lá cây to che ánh sáng khỏi vào mắt, lội ngược chiều dòng chảy của con suối và thẳng tay chém khi gặp cá. Có đêm chém được cả hai ki-lô cá, đưa hết vào nhà bếp cho anh chị nuôi để làm thức ăn cải thiện hôm sau cho đơn vị.

Tôi nhớ có lần căn cứ của Bộ Tư lệnh Miền chuyển sâu vào trong đất Campuchia (cuối năm 1971), một buổi tối chúng tôi còn săn được gà đãi. Đó là một loại chim lớn, nặng đến 10 kg, Loại chim này chuyên ăn cá Biển Hồ và làm tổ nuôi con ở những cây cao trong rừng. Tôi bắn được một con gà đãi khoảng từ 9 đến 10kg, cao khoảng một mét (tính từ lưng xuống chân).

Tôi cùng một đồng đội là anh Phước chặt một cành cây, treo con gà đãi ở khuỷu chân, dùng dây rừng buộc khẩu súng thể thao dọc đòn cây nhưng quên không xỏ đòn qua quai súng nên dây rừng tuột, súng bị rơi trong rừng.

Hai chúng tôi lội rừng, khiêng con gà đãi tìm đường về căn cứ mất cả tiếng đồng hồ thì bất ngờ gặp một hàng rào cây bẻ cò ngược.

Chúng tôi biết ngay chắc đường vào một cơ quan nào đó.

Tôi gọi lớn tiếng. Một chiến sĩ đi ra hỏi tên và đơn vị của tôi. Sau đó, anh chiến sĩ gọi điện, xác minh có chính xác không, rồi dẫn chúng tôi ra đường mòn Thống Nhất. Thật hú vía! Đường chúng tôi đi đêm qua có hàng rào bẻ cò ngược chính là đường vào căn cứ của anh Mười Khang (Trung tướng Hoàng Văn Thái) và anh Tư Chi (Trung tướng Trần Văn Trà).

Ngày hôm sau, ông Mười Tài cho hai chúng tôi vào rừng tìm khẩu súng thể thao để bữa sau di chuyển căn cứ. Con gà đãi bắn được thịt rất non, xẻ thịt đầy một nồi ba mươi”.

Trên đây là những gì Trí viết trong cuốn tự sự của mình.

Phải nhớ rằng hồi tôi còn ở trên Phòng Quân báo Bộ Tư lệnh Miền, tôi đã được nghe Trí nổi tiếng là tay súng thiện xạ ở Phòng Địch vận, Cục Chính trị rồi. Mỗi lần anh Bạch Vân sang cùng Trí hỏi cung tù binh Mỹ đều được Trí chiêu đãi cháo cheo hay cháo gà rừng, miễn là phải nộp cho Trí một hoặc hai viên đạn để buổi tối Trí còn đi săn.

Cuộc sống của tôi lúc còn ở Phòng Quân báo, Bộ Tư lệnh Miền, thời kỳ làm Trung đội trưởng Trung đội trinh sát kỹ thuật Mỹ thuộc Đại đội 02 Trinh sát kỹ thuật không được tốt như Trí.

Chúng tôi là đơn vị lính, nằm ở vòng ngoài, nhiều tầng nhiều lớp, khá xa với nơi Trí và các thủ trưởng Bộ Tư lệnh Miền ở.

Trong đơn vị tôi có anh Bảy Châu (tức anh Phạm Văn Châu, sinh năm 1935, quê ở xã Mỹ Hạnh, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An), thường hay đi săn về đêm, đôi lúc chúng tôi cũng được cải thiện bữa ăn khi anh bắn được dọc, mễn, cheo v.v…

Nhiều khi thịt dọc nhiều quá, ăn không hết. Nếu kho thịt để lâu sẽ có mùi gây gây, rất khó ăn. Em Hai, quê ở huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre (liên lạc viên C2) có sáng kiến sau khi cạo lông dọc sạch sẽ, lấy xà bông chà rồi cắt nhỏ và đem kho với bột cà ri. Thế là có một nồi thịt kho, ướp gia vị đàng hoàng, ăn rất giống thịt bò kho.

Viết đến đây, tôi rất xúc động và rất thương anh Bảy Châu về hậu vận cuộc đời anh. Tôi còn nhớ như in trong óc mình vào khoảng cuối năm 1971 anh Bảy Châu gặp tôi vô cùng hí hửng báo tin vui là anh sắp đi thăm chị Hạnh ở một trạm giao liên ở vùng giải phóng (khu biên giới với Campuchia).

Anh Bảy Châu là chồng chị Nguyễn Thị Hạnh (tên thật là Trần Thị Bé) quê ở xã Mỹ Hạnh, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, đội trưởng đội du kích xã Mỹ Hạnh, rất nổi tiếng trong việc vận động bà con huyện Đức Hòa phá âm mưu thành lập ấp chiến lược, dồn dân vào từng khu vực nhằm tiêu diệt cộng sản ở miền Nam Việt Nam theo kiểu “tát nước, bắt cá”.

Chị Hạnh đã được tuyên dương Anh hùng quân giải phóng miền Nam Việt Nam năm 1967.

Chị Hạnh đã xin phép tổ chức cho lên trạm đón tiếp của Bộ Tư lệnh Miền thăm chồng sau một thời gian dài xa cách (vì anh Bảy Châu bị tù đày ra ngoài Côn Đảo. Sau khi được thả, anh được tổ chức bố trí tham gia quân giải phóng và về đơn vị Đại đội 02 trinh sát kỹ thuật. Trước khi tôi xuống công tác tại Quân khu Sài Gòn - Gia Định, anh là chính trị viên phó Đại đội 02).

Nhưng thật tội nghiệp anh Bảy Châu vì đường đi từ căn cứ Bộ Tư lệnh Miền xuống trạm đón tiếp khá xa. Chị Hạnh tới trạm đón tiếp nghỉ mới được khoảng hơn một tuần bị mất vì bệnh sốt rét ác tính.

Thế là giấc mơ được trùng phùng với vợ sau bao năm xa cách của anh Bảy không bao giờ có thể thực hiện được.

Tôi nghe nói khoảng cuối năm 1974, anh Bảy được tăng cường về Quân khu miền Đông, làm đại đội trưởng một đại đội trinh sát mặt đất. Sau đó vì tôi công tác ở một địa điểm quá xa với anh chị em trong đơn vị cũ ở Bộ Tư lệnh Miền nên tôi không hề biết một chút tin tức gì về anh Bảy nữa.

Sau giải phóng, mỗi lần đi họp Hội Cựu chiến binh Phòng Quân báo, Quân khu 07, tôi luôn hỏi anh chị em về tin tức và cuộc sống của anh Bảy, nhưng anh em cho hay anh Bảy sau chiến tranh đi lưu lạc khắp nơi, không thể nào liên lạc được.

Ngày 23 tháng 08 năm 2012, Ban liên lạc Hội Cựu chiến binh Phòng Quân báo, Quân khu 7 có ghé qua nhà, rủ tôi đi thăm anh Bảy Châu ở trong một xóm nghèo ở xã Hòa Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh (cặp biên giới Campuchia). Anh Bảy sống với một chị vợ theo kiểu như các cụ ta thường nói “rổ rá cặp lại”, nhưng rất hạnh phúc. Chị rất kính trọng và rất thương anh và chăm sóc rất chu đáo cho anh trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời anh Bảy.

Khi chúng tôi đến thăm, anh Bảy Châu khoảng 78 tuổi (tôi nhớ anh hơn tôi 08 tuổi), đang bị bệnh nặng. Anh Bảy vô cùng mừng rỡ khi đoàn chúng tôi gồm 06 anh chị em (Tiến Hùng, Vinh, Tăng, Kháng, Trúc Giang và Bé Mười) đến thăm.

Đặc biệt khi nhìn thấy tôi sau đúng 40 năm không hề gặp lại nhau (1972- 2012), anh Bảy ôm lấy tôi rưng rưng nước mắt, miệng lẩm bẩm “Tiến Hùng; Tiến Hùng…”.

Đây là lần đầu tiên tôi thấy anh Bảy rỏ lệ khi gặp lại đồng đội ở chiến trường xưa, nơi anh và tôi có biết bao kỷ niệm ở cái Đại đội 02 Trinh sát kỹ thuật, Phòng Quân báo, Bộ Tư lệnh Miền.

Anh Nguyễn Tiến Hùng và anh Phạm Văn Châu (tức Bảy Châu)

Hình chụp ngày 23 tháng 08 năm 2012 tại xã Hòa Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh.

Một số anh em trong Trung đội Trinh sát Kỹ thuật Mỹ, Đại đội 2 TSKT, Phòng Quân báo, Bộ Tư lệnh Miền (hình chụp đầu năm 1972).

*(Một đơn vị dường như có một không hai trong Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam bao gồm anh chị em sinh viên giỏi tiếng Anh từ Hà Nội vào và từ Sài Gòn ra).

Hình do anh Nguyễn Tiến Hùng cung cấp.

…và cuộc sống “chém dè” ở làng xóm ven đô Sài Gòn

Từ năm 1972 trở đi, khi tôi về công tác và phục vụ chiến đấu ở đặc khu Sài Gòn - Gia Định (T4), cuộc sống vật chất và tinh thần của tôi khá tốt.

Đầu tiên tôi phải nói về một thủ trưởng để lại cho tôi một ấn tượng vô cùng sâu sắc. Đó là anh Hai Phụng, hay còn là anh Ba Đặng (tức Thiếu tướng Trần Hải Phụng, Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ).

Trong cuộc đời hơn chục năm lính chiến, tôi chưa thấy ông tướng nào chăm sóc anh em lính tráng như anh Hai Phụng.

Tôi đã nghe kể nhiều chuyện về anh Hai Phụng với các chiến sĩ sống trong khu vực của Bộ Chỉ huy quân khu. Chuyện kể trên đường gặp một chiến sĩ mặc quần áo xộc xệch, khuy áo bị đứt, anh gọi lại bảo chiến sĩ đó chiều về gặp anh để lấy một vài khuy đơm vào áo, gài lại cho chỉnh tề, hoặc chuyện đi công tác về đơn vị gặp một chiến sĩ râu ria lởm chởm (chắc vì không có dao cạo râu), anh hẹn chiến sĩ ấy về đơn vị gặp anh để lấy dao cạo râu về cạo mặt cho sạch sẽ. Anh thường nói đại ý anh em mình đi làm cách mạng, cho dù có thiếu thốn đến đâu chăng nữa cũng phải giữ thể diện, danh dự của người đi làm cách mạng, không thể để bầy hầy trông giống như bọn cướp biển được.

Đối với tôi, anh thể hiện tư cách của một người đi trước, coi tôi như người em trai, hướng dẫn, chỉ bảo tận tình. Tôi được biết trước khi đi bộ đội, anh là một thầy giáo có tiếng ở Hà Tĩnh, rất giỏi tiếng Pháp.

Hàng tuần, hàng tháng và hàng quý tôi đều được Trưởng ban Quân báo phân công viết và gửi báo cáo địch tình lên Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định và Phòng Quân báo Bộ Tư lệnh Miền.

Mặc dù báo cáo tôi viết đã thông qua Trưởng ban Quân báo (có chữ ký của Trưởng ban Ba Lâm đàng hoàng), nhưng khi bản báo cáo đến tay anh Hai, anh đọc rất kỹ. Có lần tuy đã khuya, anh gọi tôi lên, chỉ cho tôi những chỗ viết báo cáo còn rườm rà, câu chưa hoàn chỉnh về mặt ngữ pháp, phải chỉnh sửa lại cho đúng ngữ pháp và cho gọn để các thủ trưởng khác đọc dễ hiểu hơn.

Tôi quý mến và kính trọng anh Hai vì tôi biết anh bận trăm công nghìn việc, nhưng anh vẫn ráng bỏ thì giờ bồi dưỡng cho những thế hệ đàn em.

Một nét đặc thù trong chỉ huy của anh Hai là bất cứ hành quân di chuyển đi đâu, dù ngắn hay dài ngày, anh Hai luôn lệnh cho các đơn vị toàn quân khu phải tăng gia sản xuất, nâng cao cuộc sống vật chất cho bộ đội.

Anh Hai xác định rõ tăng gia sản xuất phục vụ cải thiện cuộc sống trong đơn vị nếu còn kịp thời vụ thì thu hoạch, cải thiện cho đơn vị, nếu phải di chuyển, hành quân đi nơi khác, khu vực tăng gia sản xuất đó để dành để nâng cao cuộc sống cho anh em bộ đội các đơn vị khác hành quân đến sau.

Nhờ chính sách tăng gia sản xuất của anh Hai, đơn vị quân báo của chúng tôi lúc nào cũng sung túc rau xanh. Nếu đóng quân ở một vị trí dài hơi hơn, thịt cá chúng tôi ăn không hết.

Đưa đơn vị xuống sâu ở vùng Củ Chi, tôi chọn vị trí ở gần khu Bến Súc, cặp sông Sài Gòn (cách căn cứ của Đoàn hậu cần 83 gần một cây số) làm căn cứ. Chúng tôi khoét sâu những hốc đất thiên nhiên lớn cặp sông làm hầm trú ẩn để tránh bom, pháo của giặc trút xuống hàng ngày.

Sống cặp sông, suốt ngày chan hòa ánh nắng, sức khỏe của anh chị em trong đơn vị tôi được cải thiện rõ rệt, họa hoằn mới có anh em lên cơn sốt rét.

Sau khi làm xong công sự, hầm ngủ và trú ẩn để đề phòng đối phương thả bom, bắn pháo và hành quân lấn chiếm vùng giải phóng, tôi điều anh Chung và bốn anh chị em vượt sông Sài Gòn sang khu vực Thanh An kiếm miếng đất gần nhà chị Sáu Anh (cơ sở của anh Năm Hà, Phó ban quân báo) dựng tạm ngôi nhà lá trên nền nhà cũ của dân đã bỏ đi, đánh luống để mua hạt giống về trồng rau muống, rau cải, đậu rồng, mướp, bí, bầu v.v… Chúng tôi cũng nuôi gà và một con heo con để giải quyết những thức ăn dư thừa.

Sau khoảng hơn hai tháng về đóng quân ở khu Bến Súc, đơn vị tôi dư rau ăn, thịt cá một phần nào có thể tự túc được.

Nhớ dì Năm Lành…

Mỗi khi nhắc đến thời kỳ đóng quân ở khu Bến Súc, tôi không chỉ nhớ đến kỷ niệm về vườn rau của đơn vị tôi do anh Quốc Chung phụ trách, mà còn nhớ đến vườn rau của Ban Quân báo do dì Năm Lành (má của anh Thanh Hùng) chăm sóc. Dì Năm Lành thực ra là một bà chủ tiệm vải lớn ở Chợ An Đông (khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn).

Dì Năm Lành là cơ sở hoạt động nội thành của T4 (Sài Gòn - Gia Định), công tác rất nhiệt tình, có nhiều uy tín. Chính dì Năm Lành là bà chủ chiếc xe hơi chứa đầy thuốc nổ chạy thẳng vào tầng hầm của cư xá Brinks vào đêm Noel 1964 ở đường Hai Bà Trưng, Quận 1, Sài Gòn. Dì Năm giao xe cho anh Bảy Bê và anh Tư Mập làm phương tiện hoạt động và hai anh đã sử dụng xe của dì để tiêu diệt khá nhiều sĩ quan Mỹ trong trận đánh trên.

Sau trận đánh, cảnh sát Sài Gòn truy tìm chủ chiếc xe hơi trên, và đương nhiên lúc họ tổ chức các cuộc hành quân lùng sục để tìm “Việt cộng Năm Lành” thì dì Năm đã ở trên căn cứ của chúng tôi rồi.

Anh Chín Hưởng (tức anh Dương Xuân Hưởng), dân gốc Bến Tre, năm 1973 được điều về làm Trưởng ban Quân báo Đoàn đặc công 27 (cấp tương đương sư đoàn). Cứ mỗi lần đi công tác, anh lại ghé qua thăm vườn rau của đơn vị tôi.

Khi anh đến, tôi và anh Thanh Hùng thường vượt sông sang bên Thanh An thăm anh.

Nhiều lúc ngồi nhậu với tôm, cá bắt được ở sông Sài Gòn, thấy có dì Năm Lành sang chơi, anh Chín Hưởng thường chọc ghẹo dì:

“Bà thấy chưa? Đi theo Việt cộng, tiền tài, của cải ở Sài Gòn mất hết, chồng thì đi lấy vợ bé, con trai thì thằng Thanh Hùng ở đây rồi, còn thằng Út thì bơ vơ ở Sài Gòn, không cẩn thận, nó đi lính Sài Gòn, rồi vào đây thịt cả hai mẹ con đấy!”.

Dì Năm chỉ cười, rồi nói:

“Tụi bay mới uống có một chút mà đã ăn nói tầm bậy rồi. Thằng Út Sơn đã được rước ra căn cứ và đã gia nhập quân giải phóng rồi.

Còn tiền thì tao nghĩ đã dám đi làm cách mạng, thì còn tiếc làm quái gì. Số tiền tao mất đi đâu có đáng bao nhiêu so với cả đống sĩ quan Mỹ chết đêm Noel đó!”.

Nói xong, dì Năm cười khanh khách rất dễ thương.

Mỗi lần nghĩ về dì Năm Lành, tôi lại nghĩ phẩm chất của một người phụ nữ Việt Nam thật bình dị, dễ thương và được người đời trân quý biết nhường nào!

…nhớ món lươn hầm độc nhất vô nhị của cháu Thanh

Đơn vị tôi đóng quân ở Bến Súc, cặp ngay sông Sài Gòn. Hàng ngày theo dòng nước sông lên và xuống, cháu Thanh (liên lạc) lội xuống sông đặt ống chúm để bắt lươn, cải thiện bữa ăn chiều. Lươn cháu bắt được có con gần một ki lô gam, ăn không thể chê vào đâu được.

Hôm nào bắt được nhiều lươn, cháu Thanh đi ra ngoài cánh đồng trồng chuối đã bị bỏ hoang (do đồng bào chạy tản cư) đào một vài củ chuối mang về gọt và rửa thật sạch. Sau đó cháu cắt nhỏ từng miếng như miếng thịt heo nạc trông rất bắt mắt, rồi hầm những miếng củ chuối đó thật nhừ với lươn.

Đây là một món ăn rất ngon, ăn không bao giờ chán. Nhiều hôm thấy nồi hầm của cháu quá phong phú, tôi thường bảo cháu sang căn cứ của Ban Thông tin mời anh Hai Ninh, Trưởng ban, dân gốc Hà Nội, hoặc anh Tám Phía, dân Củ Chi, bạn nhậu của tôi, sang ăn cơm, uống rượu cho vui.

Những dịp lễ, Tết, chúng tôi còn có quà của bà con, cô bác từ Sài Gòn gửi ra, nhờ các cụm điệp báo chuyển, cho chúng tôi không thiếu thứ gì nào là bánh chưng, bánh tét, thuốc lá, rượu tây, cà phê, trà ngon v.v…

Tóm lại, đời sống của anh em chúng tôi ở vùng tranh chấp này tốt hơn rất nhiều so với anh chị em ở Bộ Tư lệnh Miền.

Tình cảm của lính với gia đình ở hậu phương…

Nhiều anh chị em cơ sở từ Sài Gòn về căn cứ làm việc có hỏi tôi đi giải phóng lâu ngày, có nhớ ông bà già và gia đình ở ngoài bắc không?

Tôi trả lời rất nhớ, nhưng phải làm việc sao cho thật tốt để chiến tranh sớm kết thúc, hòa bình được lập lại mới có điều kiện về nhà.

Thực ra trong anh em giải phóng chúng tôi, ai cũng nhớ nhà, nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ người thân, nhưng mỗi người một hoàn cảnh khác nhau.

Bản thân tôi rất nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ anh, chị em, bạn bè ở Hà Nội, nhưng tôi đóng quân ở quá xa, không liên lạc được, rất khó nhận được thư trực tiếp từ các bạn giao liên, quân bưu, chuyển từ miền Bắc vào.

Tôi nhờ bạn Hùng Trí làm trung gian chuyển thư giữa tôi và gia đình nên tôi nhận được nhiều thư hơn anh em đồng đội khác (trong cuộc chiến, tôi nhận đuợc 47 bức thư của cha mẹ, anh, chị, em và bạn bè từ Hà Nội). Nhiều anh chị em trong đơn vị tôi rất tội nghiệp, hai ba năm trời chẳng nhận được một lá thư nào của gia đình cả.

Mỗi lần tôi nhận được thư của gia đình hay của bạn Hùng Trí là cả đơn vị đọc chung cho vui vì thực ra có gì bí mật với nhau trong cuộc chiến này đâu.

Anh chị em đơn vị tôi ở T4 (Sài Gòn - Gia Định) này chưa bao giờ được gặp bạn Hùng Trí, nhưng mỗi khi đọc thư của Trí viết về tình yêu, về chuyện được bay ra Hà Nội công tác thường xuyên, được về gặp bác giáo Thìn, các anh, các chị ở 212 phố Bà Triệu, lại ngồi thừ ra một lúc suy ngẫm, rồi nói: “Anh Trí sướng thật!”.

Ngay cả khi hai đồng đội của tôi là các em Nguyễn Văn Hưởng (quê ở Trực Ninh, Nam Định) và Nguyễn Văn Tửu (quê ở Hà Nội) từ Phòng Quân báo Miền xuống công tác ở chiến trường T7 (Long Khánh - Bà Rịa - Biên Hòa) vô cùng vất vả và cực khổ, nhưng khi nghe tin bạn Hùng Trí được bay về Hà Nội thăm gia đình đã viết cho tôi lá thư đề ngày 24/07/1973 có đoạn như sau:

“…Anh Hùng ạ! Ở đây có anh Trần Ngọc Lai (người Nghệ An) mới sống với bọn em được mấy ngày, bữa nay đã được ra Liên hiệp. Giờ anh ấy vào Sài Gòn rồi.

Ở dưới này bọn em cũng hay tin anh Trí, anh Bạch Vân cũng đi Liên hiệp và hiện nay đang ở Tân Sơn Nhất.

Anh Trí vừa qua được đi máy bay về Hà Nội đấy anh ạ! Sướng thật”.

Ngay trong bức thư Trí gửi cho tôi ngày 25 tháng 12 năm 1974 cũng mang đầy nỗi khổ tâm của một người lính chiến, mặc dù điều kiện của bạn ấy khá hơn anh em lính “lác” bọn tôi ở “dưới ấp, xã” này rất nhiều:

“… Mẹ tao dạo này rất yếu. Không hiểu cụ có thể chờ mình được mấy tháng nữa, chưa dám nghĩ đến mấy năm nữa! Bây giờ cụ đi là ngã, là va vấp, lẩm cẩm nữa.

Tao hy vọng có thể được gặp lại cụ lần cuối trước khi cụ nhắm mắt.

Một điều khổ hơn nữa là thư tao viết động viên thế nào, pha trò đủ kiểu, đủ cách ra sao đi nữa thì thư của cụ gửi cho tao cũng chỉ xoay quanh nỗi ước vọng được gặp lại trước khi cụ mãi mãi ra đi.

Buồn quá! Mong mỏi nào giúp ích được gì khi mà tình hình mọi mặt đều rất phức tạp, khó có thể toại nguyện được.

Cầu mong sức khỏe của cụ quay ngược trở lại mười năm lúc tao ra đi để cụ có thể vui vẻ và yên tâm hơn cho tao đỡ khổ tâm.

Đi làm cách mạng phải chiến thắng cả đối phương và cũng phải chiến thắng cả mong ước cá nhân của mình, dù rằng mong ước đó có chính đáng đến đâu đi nữa.

Mọi chuyện chắc rồi cũng đều có kết quả của nó và chúng ta sẽ làm chủ được công việc của chúng ta”.

Những điều Trí tâm sự là rất chuẩn xác, nhất là sau chiều 04/03/1973 khi Trí từ Sân bay Gia Lâm trở về thăm nhà chỉ trong một đêm, sau gần tám năm đằng đẵng xa nhà!

Làm sao bác giáo Thìn không buồn khi thấy tất cả con cái trong nhà đã yên bề gia thất, thậm chí bạn bè thân của Trí ở Hà Nội đã lập gia đình, đã tay bế tay bồng những “quý tử”, những “công nương” rồi. Ngay trong bức thư gửi cho tôi sau ngày về Hà Nội lịch sử trong đời 04/03/1973 ấy, Trí cũng giãi bầy tâm sự:

“Thanh còm (họa sĩ) đã lấy vợ. Cô Dần này rất chân thật, khá xinh. Trường + Nhung đã có hai đứa con gái rồi. Rất hạnh phúc. Phúc Xanh hiện đang ở cùng tao tại 315. Nó lấy cô Nga ở gần nhà tao (trước cửa nhà Tố Khuê). Hiện nó đã có một con rưỡi rồi”.

Thật ra, ước ao của bác giáo rất đỗi đơn giản, rất đỗi bình thường có khác chi nỗi mong ước của biết bao bà mẹ có con đi bộ đội đang ở chiến trường. Đó chính là Trí, con trai út yêu quý nhất của bác giáo, sớm được giải ngũ theo chế độ, trở về nhà chân tay lành lặn, lập gia đình, nhanh chóng sinh con, để bác ôm ẵm vui thú trong lúc tuổi già mà thôi!

Còn về cá nhân, mặc dù con người tôi rất tình cảm, đi đâu cũng được anh em trong đơn vị, được bạn bè, thủ trưởng quý mến, được bà con nơi đơn vị đóng quân yêu thương, kính trọng, nhưng đối với cha mẹ và anh chị em trong gia đình, tôi lại nhiều lần bị rầy la là không thương, không nhớ cha mẹ, không nhớ anh chị em, ít chịu viết thư về nhà!

Sự thật là gia đình luôn so sánh bạn Trí với tôi. Hai thằng bạn thân, học chung một lớp, cùng tốt nghiệp ra trường, cùng đi chiến trường B2 v.v… nhưng Trí viết thư thường xuyên về nhà, còn tôi họa hoằn mới có một hoặc hai lá thư, thậm chí thư phải nhờ Trí chuyển giúp mới về được đến nhà ở Hà Nội.

Bạn đọc lúc này có thể hiểu được lý do, nhưng cha mẹ tôi đã già rồi, đâu dễ hiểu được tại sao con mình ít gửi thư về nhà.

Thư Trí gửi về nhà hầu như thường xuyên hàng tuần, qua rất nhiều đường đi rất nhanh, vô cùng tin cậy. Mỗi khi nhận được thư Trí, bác giáo lại mang sang nhà tôi để cho cha mẹ tôi đọc cho đỡ nhớ con.

Cứ mỗi lần đọc xong thư của Trí, cha mẹ tôi lại ngồi bần thần, thương nhớ con trai ở xa, rồi trách con trai không nhớ cha mẹ, không chịu viết thư về nhà.

Tôi không thể viết thư về nhà nói cụ thể tôi đang ở đâu và đang làm gì ở chiến trường được.

Giá mà tôi có thể viết huỵch toẹt ra, chắc hẳn cha mẹ tôi lại càng lo thêm cho số phận tôi sống chết ra sao ở cái chiến trường này không hiểu gấp bao nhiêu lần nữa đây, khi mà ở đơn vị tôi mới cách đây vài hôm, một đợt pháo từ căn cứ Đồng Dù bắn vào căn cứ Đoàn hậu cần 83 lạc đạn sang đúng chỗ tôi đóng quân, cô em gái Tuyết từ Thành Đoàn mới chuyển qua được hai hôm, em Cử quê ở Bến Tre là chiến sĩ ở đơn vị tôi trúng miểng pháo đã hy sinh. Còn căn hầm tôi kế hầm em Tuyết rung rinh, đất đổ xuống ào ào, cháu Nga đang đánh máy báo cáo tình hình hoạt động của địch ở T4 bị hất tung người lên, tôi đang nằm trên võng suy nghĩ bị té nhào xuống đất,…

Có lần tôi nhận thư của Trí viết ngày 07/03/1973 từ Tân Sơn Nhất mà lòng ngao ngán:

“…Thư và ảnh của mày tao đã gửi ra Hà Nội bằng máy bay ngày 14/02/1973, nhưng tất cả đều mất cả rồi.

Thôi, cố gắng chụp lại cái ảnh khác, và tích cực viết thư cho tao và cho gia đình mày để tao chuyển về cho, đừng để các cụ mong, Hùng nhé!

Tao chỉ cần mày nhớ thật kỹ: “Hãy tích cực viết thư về cho các cụ rồi chuyển sang chỗ tao để để tao gửi về Hà Nội cho nhanh”.

Nhiều lúc ngồi nghĩ vừa thương cha mẹ, vừa ngán ngẩm chẳng biết làm sao giải quyết “sự cố” này, vì nó có trong tầm tay để tôi có thể giải quyết đâu!

Cha mẹ tôi nghĩ rất đơn giản tôi và Trí cùng nghề. Tại sao Trí được về Hà Nội thăm nhà bằng máy bay còn tôi sao không được về nhà? Tại sao Trí viết thư về nhà thường xuyên, còn tôi ít viết thư về?

Trong một bức thư gửi cho tôi ngày 12 tháng 12 năm 1970, có đoạn cha tôi viết như sau:

“Từ khi con đi đến nay, bố mẹ nhận được 08 lá thư của con. Lá thư cuối cùng con viết ngày 07/07/1969 và gia đình nhận được ngày 01/08/1969. Từ đó đến nay bẵng đi 14 tháng không có chút tin tức gì về con cả.

Gia đình ai cũng lòng nóng như lửa đốt. Mẹ con mất ăn, mất ngủ và đôi khi người thơ thẩn như người mất hồn…

Trong khi đó, ôi vui sướng ơi là vui sướng khi bạn của con, anh Nguyễn Hùng Trí, hòm thư 810802, gửi thư về cho cụ giáo Thìn.

Cụ giáo tốt bụng, mang thư của Trí sang cho bố mẹ xem, và chính nhờ bức thư của Trí gửi cụ giáo, bố mẹ biết được tin con còn sống, biết con công tác ở cách chỗ Trí không xa lắm.

Đọc thư của bạn Hùng Trí, bố mẹ phấn khởi vô cùng. Thư bạn Trí viết tình cảm dạt dào, lời văn giản dị và lưu loát. Thấy thư của bạn con mà bố mẹ mủi lòng.

Thư của Trí đấy, còn thư của Hùng đâu?

Trí nghĩ đến cụ giáo Thìn thì viết thư cho cụ giáo, thế còn Hùng không còn nghĩ gì đến bố mẹ nữa hay sao?

Bố mẹ vô cùng khổ tâm khi thấy tin con người ta mà không thấy tin con mình.

Hùng có biết đâu những ngày đau khổ của cha mẹ, những ngày mưa dầm, gió bấc, những ngày mà cha mẹ đau xót về nông nỗi cha mẹ phải xa cách con. Nói như vậy để con biết rằng thư của con dù chỉ vài ba chữ cũng đáng giá vô ngần, cũng làm cho cha mẹ, anh chị em trong nhà có được nguồn vui vô tận. Vì vậy, bố muốn viết ở đây cho con biết bố mẹ mong mỏi tin con như thế nào? Con nên để ý, lưu tâm, con nhé!”.

Thú thực với các bạn hàng tuần tôi đều viết thư về nhà, nhưng làm sao tôi có thể trả lời cho nổi chuyện thư của tôi có được chuyển về đến nhà an toàn hay không trên một chặng đường dài từ khu Sài Gòn - Gia Định, vượt đường Trường Sơn hơn một ngàn cây số ra miền Bắc bằng đường đi bộ do chính các chiến sĩ giao liên, quân bưu gùi trên vai hàng trăm, hàng ngàn bức thư, rồi sau đó được Bưu điện Hà Nội đưa về đến gia đình tôi ở 123 Bùi Thị Xuân.

Ngay cậu Lân (em ruột mẹ tôi) vào Chiến trường T7 (Long Khánh - Bà Rịa - Biên Hòa) từ năm 1965. Cậu cho biết cả bốn, năm năm trời dài đằng đẵng cậu không hề nhận được một lá thư nào của gia đình cả. Sau này, liên lạc được với tôi, hai cậu cháu mới biết được tin tức của nhau và của gia đình ở Hà Nội.

Anh Đào Công Thi (tức Trần Ngọc Lai) ở Chiến trường T7 ngày 18 tháng 05 năm 1971 có gửi cho tôi một bức thư, trong đó có đoạn như sau:

“Hùng ơi! Mình rất buồn vì cái ngày chia tay đi xuống đây công tác đã vắng mặt Hùng, và mình có ngờ đâu càng ngày chúng mình càng xa nhau như thế này và biết đến bao giờ sự xa cách này mới hết?

Năm 1969, nghe nói có lần Hùng đi công tác xuống gần dưới này, mình mừng vô kể. Nhưng rồi thất vọng, đợi mãi chẳng có tin tức gì của Hùng. Cũng từ dạo đó mình bặt tin tức của Hùng và cũng bặt tin tức của gia đình ở miền Bắc luôn. Có lẽ ở ngoài Bắc, mẹ mình đã cúng cơm giỗ cho mình rồi, Hùng ạ!

Mình rất thương mẹ và luôn lo lắng về gia đình ngoài đó, còn ở cái xứ T7 này làm sao mình có thể gửi thư về ngoài đó một cách dễ dàng, hả Hùng?”.

Đọc thư của bạn Thi (tức Lai) đã thấy buồn, nhưng đọc đoạn thư sau của một đồng đội là thương binh bị pháo Mỹ ở cụm Đồng Dù (Củ Chi) bắn nhưng “hên” không chết làm tôi càng nẫu gan, nẫu ruột.

Trong bức thư gửi tôi ngày 14/09/1974 từ Tân Biên (biên giới Việt Nam - Campuchia), anh bạn thương binh Bùi Sỹ Hưng, quê ở Thái Bình, bị thương nặng ở cột sống lưng (miểng pháo văng vào người, xuyên vòng cột sống ra ngoài), phải vừa điều trị ở bệnh viện dã chiến vừa hành quân trở về miền Bắc cho hay gần một năm trời Hưng vẫn ì ạch ở vùng biên giới, đang chờ trên xét duyệt chế độ để chuyển ra Bắc.

“…Rất nhiều lần em viết thư cho anh, và lần nào cũng vậy, thư đi rồi mang theo một niềm hy vọng chờ đợi, chẳng khác chi đường phố Hà Nội hàng ngày chờ đón bước chân anh... Nhưng tất cả đã thất vọng!

Những lá thư có đi mà không tới được nơi anh làm việc. Có lẽ những lá thư đó đã theo người mang nó đi rồi, anh ạ!

Đó chắc là lý do chính mà hơn 06 tháng trời anh em mình bặt tin tức của nhau”.

Tôi đọc đoạn thư mà ứa nước mắt, thấy thương xót anh chị em giao liên, anh chị em quân bưu suốt ngày đêm, mặc cho mưa to, gió lớn, mặc cho nắng cháy rát lưng, vẫn lạc quan, yêu đời, vượt qua mọi tuyến lửa đạn vô cùng nguy hiểm, vừa dẫn đường cho các đoàn quân, dân chính hành quân, vừa gùi trên lưng cả trăm, ngàn bức thư, vượt qua biết bao cung đường khúc khuỷu gập gềnh để mang niềm vui nho nhỏ của gia đình ở hậu phương miền Bắc cho anh em lính tráng chúng tôi ở chiến trường và ngược trở lại, “gùi” tin tức của anh em lính chiến chúng tôi từ tiền phương xa xôi về hậu phương cho gia đình được vui và yên tâm chúng tôi còn sống, đang chờ ngày chiến thắng trở về quê nhà.

Rồi sau gần hai năm trời “hành quân” trong đoàn thương bệnh binh ngược về miền Bắc, trở về lại được đúng quê hương Thái Bình của mình, ngày 03 tháng 06 năm 1975, anh bạn thương binh Bùi Sỹ Hưng viết thư cho tôi có đoạn như sau:

“…Em đã trở lại miền Bắc sau 08 năm trời xa cách, được gặp lại gia đình. Cha mẹ em đã già lắm rồi! Mái đầu phong sương và đôi má nhăn nheo. Chẳng cần hỏi em đã thấy rất rõ ràng những nỗi đau khổ bất tận, chồng chất mà cha mẹ và gia đình em đã phải trải qua trong những năm tháng của cuộc chiến tranh, đã hằn lên trên khuôn mặt của từng người. Các cụ khi lần đầu gặp em không khóc nổi, nhưng cười cũng chẳng được. Thực ra các cụ đã quá mệt mỏi và khóc đã quá nhiều đến nỗi không còn lệ để rơi khi gặp lại thằng con trai ra đi biền biệt gần tám năm trời, mới vừa “lết cái thân xác bị thương tật, nửa sống nửa chết”, trở về được đến quê nhà. Các em và các cháu nhỏ của em nay đã khôn lớn, còn sự “am hiểu” của chúng, thì thưa anh, tiếng súng, tiếng bom đạn suốt ngày đêm đâu có cho chúng được có cơ hội để “phát triển”. Anh trai em đi bộ đội vào Nam đã hy sinh. Chị dâu em mới cách đây ít ngày đã xin phép cha mẹ em được “thoát ly”, để đi công tác. Thật tiêu điều và xơ xác cảnh quê hương sau gần tám năm xa cách, anh ạ!

Em vừa xong đợt an dưỡng 70 ngày, và khỏi cần phương tiện khoa học để kiểm tra lại thương tật gì cả, các nhà “y học chân đất” ở đây đã cầm bút, “phang” cho em một chữ thật lớn 25% thương tật (thương binh loại 1) và mau chóng đẩy em ra khỏi khu an dưỡng, quay trở về trường đại học cũ học tiếp năm thứ tư, năm học cuối cùng của bậc đại học.

Vậy đấy, anh ạ! Ước mơ và sự thật là một khoảng trống bao la. Nhưng khi còn ở trong đó, anh em ta đâu có tưởng tượng ra nổi cảnh miền bắc thân yêu, nơi đã từng được anh em lính chiến chúng ta gọi một cách trìu mến là “thiên đường”!. Em phải nói thật rằng những người như anh và em đã có gan đi “nhà binh”, nay còn sống sót trở về là may mắn nhiều, nhiều lắm đấy! Anh em mình còn có cơ duyên được trở về nhà với cha mẹ và gia đình, nhưng anh thấy đấy, còn biết bao anh em, đồng đội của anh em mình như Vũ Tôn Đản, Đại Huân, Cử (Bến Tre), cô em Tuyết (ở Thành đoàn) và bao anh em khác, kể cả ông anh trai của em nữa, đang nằm yên nghỉ ở một nơi hiu quạnh nào đó, đâu có diễm phúc được trở về nhà như anh em mình”.

Tôi nghĩ viết về tình cảm của những người lính chiến với hậu phương như tôi đã trình bày, thông qua thêm một vài đoạn thư của bạn bè, đồng đội như vậy đã tạm đủ để bạn đọc hiểu được rõ nét tình cảm của những người lính chiến chúng tôi với hậu phương.

Gặp gỡ lại nhớ chuyện ngày xưa, đầy ắp kỷ niệm…

Tôi sẽ vô cùng thiếu sót nếu không đề cập đến một sinh viên khóa 02 (1958 - 1961) của Ban Anh văn, Khoa Ngoại ngữ, một nhân vật có thời gian chúng tôi còn đang học khóa 04 (1961-1965) coi như một “huyền thoại” của sinh viên Ăng-lê. Hơn thế nữa, anh lại là sinh viên đầu tiên của Ban Anh văn, Khoa Ngoại ngữ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội được cử vào công tác và chiến đấu ở chiến trường B2 (từ năm 1963).

Đầu năm 1965, phim thời sự chiếu tại Hà Nội giới thiệu nhà báo nổi tiếng nước Úc là Wilfred Graham Burchett năm 1964 đến thăm vùng giải phóng miền Nam Việt Nam.

Ông nhà báo người xứ Úc Đại Lợi đi khắp mọi nơi trong vùng giải phóng, gặp Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ, ngồi nướng thịt rừng với anh em quân giải phóng v.v…, và rất độc đáo người tháp tùng suốt cuộc hành trình và trực tiếp dịch cho ông nhà báo người Úc chính là anh Nguyễn Đình Viên (tức anh Nguyễn Bạch Vân), người sinh viên bộ đội được Cục Tình báo cử sang học khóa Anh văn 02 (1958 - 1961).

Sau này khi tôi vào B2 công tác, gặp và chủ yếu làm việc gián tiếp với anh Nguyễn Bạch Vân trong một thời gian khoảng bốn năm, trước khi tôi xuống công tác ở T4 (khu Sài Gòn - Gia Định).

Dù sao đi nữa, anh Nguyễn Bạch Vân cũng như anh Lê Hồng Thủy (tức anh Lê Minh Đăng, em rể anh Nguyễn Bạch Vân, nhà ở 196 phố Bà Triệu Hà Nội) luôn để lại trong tâm khảm tôi một sự yêu quý, một sự trân trọng vô bờ. Tôi luôn coi các anh là những tấm gương lớn trong rèn luyện, trong phấn đấu để tôi noi theo.

Trong thời gian công tác ở B2, anh Nguyễn Bạch Vân làm việc có năng lực và uy tín, luôn được cử đi công tác cùng các tướng lĩnh cao cấp trong Bộ Tư lệnh Quân Giải phóng không những trong các chiến dịch quân sự mà còn trong các mặt trận đấu tranh ngoại giao ở các Hội nghị Quân sự ở Tân Sơn Nhất.

Sau ngày hòa bình lập lại, thống nhất đất nước, anh Nguyễn Bạch Vân tiếp tục làm việc với chức trách là Đại tá, Phó Trưởng phòng Quân báo, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 cùng với anh Sáu Cúc (Thiếu tướng, Tổng cục phó Tổng cục Tình báo Bộ Quốc phòng kiêm Trưởng phòng Quân báo Bộ Tư lệnh Quân khu 7). Năm 1992, anh Nguyễn Bạch Vân được cử sang làm Trưởng tùy viên quân sự của Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan.

Sau này, cứ mỗi năm có cuộc họp Hội Cựu chiến binh ở Quân khu 07, tôi rất vui được gặp lại anh Nguyễn Bạch Vân và các thủ trưởng cùng bạn bè đồng đội ở Phòng Quân báo, Quân khu 07.

Riêng anh Lê Hồng Thủy (tức anh Lê Minh Đăng, sinh năm 1930, quê ở Đức Trung, Đức Thọ, Hà Tĩnh) do bị thương, mù hai mắt, nên được đưa từ Củ Chi (vùng Sài Gòn - Gia Định) lên Kà Tum (Tỉnh Tây Ninh) để chuyển ra miền Bắc điều trị cuối năm 1969.

Tôi được biết Giáo sư Lê Thước, cha của anh, là một trong những nhà giáo đầu tiên được phong hàm Giáo sư của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chính Giáo sư Lê Thước đã cùng các học giả tên tuổi như Đỗ Đức Hiểu, Trương Chính, Hoàng Ngọc Phách, Vũ Đình Liên soạn thảo bộ giáo trình đầu tiên giảng dạy môn Văn học ở bậc đại học của Việt Nam.

Anh trai của anh Hồng Thủy là anh Lê Thiệu Huy, ngay từ nhỏ đã học rất giỏi. Sau khi đỗ Tú tài, anh Huy ra Hà Nội học trong 03 năm đạt được ba chứng chỉ Toán-Lý-Hóa đại cương cao cấp, được cấp bằng Cử nhân khoa học loại ưu do Bộ Giáo dục nước Cộng hòa Pháp cấp.

Kháng chiến chống Pháp, anh Huy đi bộ đội, được điều sang chiến trường Lào, làm đến chức Tham mưu trưởng Liên quân Việt-Lào lúc mới 26 tuổi. Anh Huy đã hy sinh thân mình để bảo vệ Hoàng thân Xuphanuvông và đoàn cán bộ lãnh đạo kháng chiến Lào trong một cuộc càn quét của quân đội Pháp.

Sau ngày hòa bình lập lại, thống nhất đất nước, vào một buổi sáng trời se lạnh, từ căn nhà 123 phố Bùi Thị Xuân Hà Nội, tôi đi bộ sang phố Bà Triệu thăm anh (nhà anh Hồng Thủy ở cùng phía với nhà bạn Hùng Trí, ngược lên trên, đi qua phố Tuệ Tĩnh, ngay gần nhà bà đỡ Thược, đối diện bên kia đường là nhà anh Trịnh Thanh, bạn thân của anh Dũng và nhà anh Phan Thanh Hùng, học khóa 05, cùng làm việc trước khi tôi vào B2).

Tôi biết rất rõ công sức của anh Lê Hồng Thủy trong quá trình nghiên cứu tài liệu của Mỹ, ghi rất nắn nót trong cuốn sổ bìa đỏ, cuốn sổ anh đã rất tin tưởng giao phó cho tôi mang về căn cứ của Phòng Quân báo Miền khoảng tháng 06 năm 1968. Sau đó, trước khi xuống chiến trường Sài Gòn - Gia Định, tôi đã bàn giao lại cho anh Tư Nguyên, Đại đội trưởng Đại đội 2 Trinh sát Kỹ thuật Miền. Trong cuốn sổ, anh Hồng Thủy đưa ra một ý kiến rất độc đáo để cải tạo một phương tiện thông tin kỹ thuật của Mỹ (máy PRC 25) sử dụng trong chỉ huy chiến thuật ở phạm vi khoảng 12 km đường chim bay thành một phương tiện phục vụ cho tình báo trinh sát kỹ thuật, không những nắm được tin tức hoạt động quân sự của Mỹ ở cự ly gần (trên dưới 10 km) mà có thể cả ở cự ly xa (khoảng từ 80 km đường chim bay).

Chính nhờ ý kiến rất độc đáo của anh Hồng Thủy mà đơn vị trinh sát kỹ thuật Mỹ chúng tôi đã ứng dụng thành công và hoàn thành tốt nhiệm vụ nắm Mỹ ở trên chiến trường miền Đông Nam Bộ.

Tiếp tôi, anh Hồng Thủy ôm chầm lấy, rưng rưng nước mắt. Anh kể lại những ngày gian truân ở chiến trường, những ngày trở về điều dưỡng ở Hà Nội. Anh cho tôi biết tình hình sức khỏe hiện tại tốt, anh làm được nhiều công việc.

Tôi thật sự ngưỡng mộ và cảm động muốn khóc lên được khi anh Hồng Thủy kể cho tôi nghe cách anh soạn bài lên lớp ra làm sao để khỏi phiền quá nhiều đến gia đình. Vợ anh Hồng Thủy là chị Nguyễn Thị Dung, bác sĩ, chị ruột của bạn Nguyễn Thị Nguyệt (sau này cũng là bác sĩ), bạn học cùng trường, cùng năm học nhưng khác lớp (bạn Nguyệt học lớp 10A, còn tôi học lớp 10C, Trường Phổ thông 3B Hà Nội), là em gái của anh Nguyễn Đình Viên (tức anh Nguyễn Bạch Vân).

Anh Lê Hồng Thủy kể, sau ngày hòa bình lập lại, thống nhất đất nước, anh Bạch Vân gửi tặng anh một máy cassette nhỏ của Nhật để nghe tin tức cũng như nghe nhạc cho vui. Dạo đó nếu ai có được một máy cassette là oai lắm. Anh Hồng Thủy liền nghĩ ra một kế rất hay là sử dụng chiếc máy cassette cho các cháu rảnh bất kỳ lúc nào, đọc tài liệu trong sách giáo khoa vào máy cho anh, để lúc rảnh rỗi, anh mở ra nghe đi nghe lại, rồi soạn bài lên lớp cho anh em ở Trường Thương binh hỏng mắt tại Hà Nội. Như vậy vừa tiết kiệm thời gian, vừa không ảnh hưởng đến học tập của các cháu. Anh Hồng Thủy cho biết hàng ngày anh xuống Trường Thương binh hỏng mắt Hà Nội vừa đảm nhận chức trách của một Hiệu trưởng vừa làm công việc của một thầy giáo. Làm xong việc ở trường, anh về căn nhà nhỏ ở phố Bà Triệu tự đun nước uống trà, tự nấu cơm bằng bếp dầu lửa để khỏi phiền nhiều đến vợ và con, và ngay trong sinh hoạt hàng ngày, kể cả giặt quần áo của bản thân, anh đều một mình tự làm, kiên quyết không phiền đến vợ con. Anh cho rằng cuộc đời thật quá bất ngờ vì không bao giờ anh lại nghĩ rằng giờ đây anh lại là một nhà giáo, dạy môn Toán mà anh thích.

Anh rất thích công việc dạy học và rất quý mến những người học trò đồng thời cũng là những đồng chí, những đồng đội của mình do hoàn cảnh chiến tranh, bị thương hỏng mắt, nhưng các anh học trò này rất siêng năng, chịu khó học tập, và vô cùng dễ thương.

6

Anh Lê Hồng Thủy (tức anh Lê Minh Đăng), sinh năm 1930, nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Trinh sát Kỹ thuật 47 của Phòng Quân báo, Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Năm 1969 anh Hồng Thủy bị thương ở chiến trường Sài Gòn - Gia Định, mù hai mắt, được cáng vượt Trường Sơn trở ra Hà Nội điều trị. Từ năm 1971 trở đi, anh nhận nhiệm vụ là Hiệu trưởng Trường Thương binh hỏng mắt Hà Nội.

Hình do Hội Cựu chiến binh của Phòng Quân báo, Quân khu 7 cung cấp.

Từ phải qua trái, anh Nguyễn Bạch Vân, người mặc áo chemise màu trắng, nguyên Đại tá, Phó Trưởng phòng Quân báo, Quân khu 7, Nguyên Trưởng tùy viên Quân sự Việt Nam tại Thái Lan và anh ruột là Thiếu tướng Hoàng Dũng, nguyên Chánh văn phòng Bộ Tổng Tham mưu, Quân đội nhân dân Việt Nam.

Hình chụp ngày 30 tháng 04 năm 2021 tại nhà riêng của anh Nguyễn Bạch Vân tại TP HCM.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 9
  • 10
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 9
  • 10
  • Sau