• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Ký ức hai góc đối chiến
  3. Trang 9

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 8
  • 9
  • 10
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 8
  • 9
  • 10
  • Sau

Lời nói đầu

“K

ý ức hai góc đối chiến ”là cuốn sách đề cập đến đề tài về cuộc chiến ở Việt Nam cách đây hơn nửa thế kỷ. Đây là những tâm tư, tình cảm, những ký ức vui buồn của chính những người lính trong cuộc, tuy không cùng chiến tuyến, nhưng các anh đã trực tiếp hoặc gián tiếp cầm bút kể lại những trải nghiệm của chính các anh đã thực sự trải qua trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam, không chỉ ở trong mà thậm chí còn ở cả ngoài vùng chiến sự, có nhiều lúc còn ở cả ngay trên nước Mỹ.

Cuộc chiến tranh ở Việt Nam là một cuộc chiến liên miên kéo dài khoảng hai thập niên, trải qua 05 đời tổng thống Mỹ, và chính phủ Mỹ không có cách gì khác hơn là phải thay đổi liên tiếp bốn lần chiến lược chiến tranh, nhưng cuối cùng họ cũng chẳng giải quyết được gì hơn ngoài việc phải “rất lịch thiệp” hạ cờ đầy sao “cực kỳ kiêu hãnh” của họ vào ngày 29 tháng 03 năm 1973 tại sân bay Tân Sơn Nhất, không trống, không kèn, rút toàn bộ lính Mỹ về nước.

Điểm qua lịch sử cuộc chiến, chúng ta phải kể đến vị tổng thống đầu tiên liên quan đến cuộc chiến ở Việt Nam là Dwight Eisenhower, một ông tướng lục quân Mỹ, là tổng thống thứ 34 của Mỹ (từ 1953 đến 1961), với chiến lược Chiến tranh đơn phương . Dwight Eisenhower là người dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm và sử dụng chính quyền này chống lại cuộc kháng chiến của dân tộc, với âm mưu tìm cách biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Dwight Eisenhower đã cho tiến hành hàng loạt các chiến dịch tố cộng ở khắp nơi, từ thành thị đến nông thôn, nhằm mục đích tàn sát những người kháng chiến và yêu nước cũ ở miền Nam Việt Nam.

Tổng thống thứ hai là John Fitzgerald Kennedy, vị tổng thống thứ 35 của Mỹ (1961-1963), với chiến lược Chiến tranh đặc biệt nhằm xây dựng quân đội chính quyền Sài Gòn mạnh với vũ khí, trang thiết bị hiện đại và một hệ thống cố vấn Mỹ đầy tiềm lực để tiến hành “bình định lãnh thổ trong 18 tháng”, khoanh vùng lập “ấp chiến lược”, “nhằm tát nước, bắt cá”, tiêu diệt thật nhanh, thật gọn các lực lượng vũ trang và chính trị chống đối Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam.

Tổng thống thứ ba là Lyndon B.Johnson, vị tổng thống thứ 36 của Mỹ (1963- 1969), với chiến lược Chiến tranh cục bộ , nhằm trực tiếp đưa quân chiến đấu từ Mỹ sang, thực hiện chiến lược “Search and Destroy” (tìm và diệt), cùng một lúc triển khai chiến lược hai gọng kìm nhằm tiêu diệt chủ lực đối phương và bình định miền Nam. Bên cạnh đó, để đẩy mạnh chiến tranh phá hoại miền Bắc trên quy mô lớn, ngày 13 tháng 02 năm 1965, Johnson đã phê chuẩn chiến dịch “Operation Rolling Thunder” (chiến dịch Sấm Rền) và chính thức ngày 02 tháng 03 năm 1965, ra lệnh triển khai chiến dịch với hơn 100 máy bay phản lực không kích vào kho đạn tại Xóm Bằng, nằm 10 dặm sâu trong lãnh thổ miền Bắc. Cùng lúc, 60 máy bay cánh quạt của không quân chính quyền Việt Nam Cộng hòa tiến hành ném bom căn cứ hải quân Quảng Khê, 65 dặm về phía bắc vĩ tuyến 17. Kết quả trận không kích đầu tiên của chiến dịch Sấm Rền, 06 máy bay Mỹ bị bắn rơi và đại úy Hayden J. Lockhart, phi công lái máy bay F100 là phi công Mỹ thứ hai bị bắt tại miền Bắc (sau trung úy phi công Anverez bị bắt trong sự kiện vịnh Bắc bộ ngày 05/08/1964 tại thị xã Hòn Gai). Triển khai kiên quyết chiến dịch “Operation Rolling Thunder” (Sấm Rền), Johnson hy vọng sẽ kết thúc cuộc chiến trong vòng từ 25 đến 30 tháng.

Tổng thống thứ tư là Richard Nixon, vị tổng thống thứ 37 của Mỹ (1969- 1974), với chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh , nhằm mục đích rút quân Mỹ ra khỏi chiến trường, chỉ để lại hệ thống cố vấn chỉ huy quân sự, và đảm bảo viện trợ đủ vũ khí, trang thiết bị, lương thực cùng tiền của để vực dậy chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Bên cạnh đó, Nixon trực tiếp lệnh cho không lực Mỹ tiến hành đánh phá miền Bắc trên quy mô lớn bằng máy bay chiến lược B52 vào các khu quân sự cũng như dân sự ở Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố khác, đồng thời rải mìn, ngư lôi phong tỏa các cảng, cửa sông ở miền Bắc, đặc biệt tại cảng Hải Phòng, chặn đứng nguồn tiếp tế bằng đường thủy vào chiến trường miền Nam. Điều đáng buồn và vô cùng hổ thẹn trong cuộc đời của một tổng thống đương nhiệm là ngày 08 tháng 08 năm 1974, trong khi Ủy ban tư pháp Hạ viện Mỹ đang chuẩn bị luận tội tổng thống chính là kẻ cầm đầu trong vụ ăn trộm tài liệu tại văn phòng Đảng Dân chủ ở Khách sạn Watergate thì chính bản thân Nixon không thể chịu nổi sự chất vấn, đã phải xin từ chức, bàn giao chức vụ “ông chủ Nhà Trắng” cho Phó tổng thống Gerald Ford theo quy định của hiến pháp Mỹ.

Tổng thống thứ năm là Gerald Ford, vị tổng thống thứ 38 của Mỹ (1974- 1977). Điểm khác biệt so với các tổng thống tiền nhiệm, Ford có xu hướng không muốn can thiệp trực tiếp vào chiến tranh Việt Nam. Việc tổng thống Ford tuyên bố kết thúc chiến tranh Việt Nam cho thấy bản thân Ford không còn ham muốn dính líu đến một cuộc chiến kéo dài đằng đẵng, gây quá nhiều tốn kém, không thể nào tưởng tượng cho nổi về các nguồn tiền tài và nhân, vật lực, ảnh hưởng quá lớn đến sự phục hồi và phát triển của nền kinh tế Mỹ, và cũng chính cuộc chiến tàn khốc này đã từng là nguyên nhân then chốt, gây ra biết bao sự chia rẽ ngay trong nội bộ chính trường nước Mỹ.

Một cuộc chiến kéo dài liên miên, khoảng gần hai thập kỷ, trải qua năm đời tổng thống Mỹ, tốn kém biết bao nhân, vật lực từ hai phía tham gia cuộc chiến. Biết bao thế hệ từ ông, đến cha, đến con, đến cháu liên tục lên đường trực tiếp hay gián tiếp tham gia cuộc chiến và biết bao nhiêu tiểu thuyết, tuyển tập truyện ngắn, những tác phẩm điện ảnh đề cập đến chiến tranh Việt Nam ở cả hai chiến tuyến cũng được liên tục khai thác để sáng tác với những mục đích chính trị rất khác nhau.

Mặc dầu cuộc chiến tranh kéo dài đằng đẵng như vậy, nhưng cuốn sách “Ký ức hai góc đối chiến” chỉ tập trung xoáy sâu vào tâm tư, tình cảm của những người lính với những hoàn cảnh và mục đích tham gia chiến tranh rất khác nhau từ hai chiến tuyến đối địch nhau, những người lính đã từng có mặt trong những năm tháng ác liệt nhất của cuộc chiến tranh (những năm từ 1967 cho đến khi kết thúc cuộc chiến), ở những vùng chiến sự nóng bỏng nhất. Đó là khu vực ở miền Đông - Tây Nam Bộ và Đặc khu Sài Gòn - Gia Định. Chính những người lính này, sau khi chiến tranh kết thúc, đã trực tiếp cầm bút hoặc gián tiếp kể lại thật tường tận những suy nghĩ, tâm tư, tình cảm, những trải nghiệm của chính mình về những gì họ đã từng làm trong cuộc chiến, không hề có một chút hư cấu.

Bạn đọc cũng có thể tìm thấy trong cuốn sách này, thông qua tâm tư của những người lính ở hai chiến tuyến khác nhau, “bật sáng chói” những ước ao rất đỗi đời thường của cha mẹ và mọi người thân yêu trong gia đình những người lính. Hàng ngày những người thân yêu đó phóng cặp mắt từ khắp nơi, có khi vượt cả đại dương hàng ngàn, hàng vạn dặm, về chiến trường miền Nam Việt Nam xa xôi, nơi cuộc chiến tranh đang diễn ra rất khốc liệt, khắc khoải mong chờ cuộc chiến sớm kết thúc để cho những người lính, những người ông, những người cha, những người chồng, và những người con trai thân yêu của họ được lành lặn trở về sum họp với gia đình.

Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hùng

Phó Khoa trưởng Khoa Ngữ Văn nước ngoài, Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh (từ tháng 09/1978 - tháng 09/1980).

Nghiên cứu sinh Trường Đại học Quốc gia Sư phạm Ngoại ngữ Moscow mang tên Maurice Thorez, thủ đô Moscow (Liên Xô cũ) từ tháng 10/1982 đến tháng 06/1986 (nay đổi tên là Trường Đại học Ngôn ngữ Quốc gia Moscow).

Khoa trưởng Khoa Ngữ Văn Anh, Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 11/1986 đến tháng 09/1991.

Trưởng Bộ môn Ngữ học Anh và Biên Phiên dịch, Khoa Ngữ Văn Anh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 10/2003 đến tháng 07/2008.

Trong chiến tranh, tác giả đã đảm trách những nhiệm vụ sau:

Trung đội trưởng Trung đội Trinh sát kỹ thuật Mỹ, Đại đội 2 Trinh sát kỹ thuật, Phòng Quân báo, Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (từ năm 1968 đến tháng 04/1972).

Đại đội trưởng Đại đội Trinh sát kỹ thuật, Ban Quân báo, Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định (từ 05/1972 đến 12/1973).

Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu, Ban Quân báo, Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định (từ tháng 12/1973 đến ngày 30/04/1975).