Tôi thấy Joanne Kessler trong Khu mua sắm tại góc đường Tysons, khu mua sắm hấp dẫn hơn trong số hai trung tâm kết hợp lại phía hông gần đường cao tốc thu phí, sát bên tòa nhà chính phủ nơi cuộc thẩm vấn Aslan Zagaev đã diễn ra.
Khu mua sắm mang nét đặc trưng của Ritz-Carlton, DeBeers và Versace, tôi không bao giờ có thể hiểu được vì sao mà nó kinh doanh được trong thời gian dài thế, vì ngoài lễ Giáng sinh, còn lúc nào chỗ này cũng vắng hoe.
Ngồi tại chiếc bàn lung lay, Joanne đang siết chặt một tách trà trong không gian trông như hang động giữa siêu thị. Lại là Starbucks.
Trong một tháng hoặc hơn sau khi công việc này kết thúc, các thân chủ sẽ giữ lại các điện thoại bảo mật - để phòng hờ. Sau thời gian đó, phần mềm sẽ viết đè lên các mã và các con số bằng các nội dung vô nghĩa, sau đó họ có thể trả lại chúng vào hòm thư bưu điện hoặc vứt đi. Tin nhắn của Joanne tôi đã nhận được nửa tiếng trước, cô hỏi rằng chúng tôi có thể gặp nhau không.
Tôi đã gọi cho cô và Ryan, cả Amanda nữa, tất nhiên, và giải thích mọi chuyện với họ. Chúng tôi đã nói với nhau lời tạm biệt. Và với lệnh phóng thích đã ký, đó là dấu chấm hết cho công việc.
Nhưng rõ ràng nó chưa kết thúc hẳn.
Tôi lấy tách cà phê rồi đến ngồi cạnh người đàn bà buồn rười rượi.
“Anh thấy sao rồi?” Cô hỏi.
Chẳng thoải mái gì khi trò chuyện về những nỗi đau, cơn nhức và ngón chân cái chưa lành, tôi nhẹ nhàng đáp: “Ổn. Còn Ryan?”
“Đang hồi phục tốt. Mai anh ấy sẽ xuất viện.”
“Amanda thế nào?”
“Nó ổn cả. Đang bừng bừng muốn chiến đấu với những kẻ xấu xa tại Washington.”
“Để mắt đến các trang blog của con bé,” tôi nói. “Đừng để ai biết đến chúng.”
Cô mỉm cười, “Tôi đã nói chuyện với con bé rồi.”
“Cô có xem bản tin không? Về Stevenson ấy?”
“Có xem.” Cô nói tiếp, “Nghe này, Corte, tôi cảm thấy rằng không ai trong chúng tôi biết cảm ơn anh thế nào cho vừa. Tôi đang nghĩ về chuyện đó. Tất cả những gì anh đã làm. Anh đã suýt bị giết. Với anh, chúng tôi chỉ là những người xa lạ. Chúng tôi chẳng là ai cả.”
Tôi im lặng một lúc. Rồi lên tiếng, thật vụng về, “Mọi người là công việc của tôi.”
“Dù sao cũng cảm ơn anh nhé.”
Nhưng tôi biết cuộc gặp này không chỉ để cảm ơn.
Thoáng ngập ngừng.
“Còn một chuyện nữa. Tôi muốn hỏi anh một điều. Lẽ ra không nên nhưng… tôi chẳng quen bất kỳ ai khác để nhờ nữa.”
“Được mà. Hỏi đi.”
“Là về Maree.” Joanne cúi đầu xuống. “Còn một chuyện khác mà tôi đã phá hỏng.”
Tôi chờ đợi, ngắm nhìn những cửa kính bày hàng.
“Nó không chịu nói chuyện với tôi. Mà là tôi nghe lỏm được. Nó sẽ bỏ đi: dọn vào sống cùng Andrew. Tôi đã cố gắng bảo con bé bỏ chuyện ấy đi nhưng nó toàn bịt tai không nghe. Con bé vơ vội mấy thứ rồi chạy ra ngoài cửa… Thằng ấy sẽ lại làm đau con bé lần nữa và nó sẽ để mặc cho thằng ấy làm thế.” Joanne chạm vào cánh tay tôi. Một cảm giác lạ lùng. Khi bạn xem những người được mình chăm sóc như những mảnh ghép trò chơi sẽ được bảo vệ, bạn sẽ không quen với tiếp xúc vật lý. Như Abe nói, nên tránh chuyện ấy.
Tất nhiên, suy nghĩ này khiến tôi nhớ lại nụ hôn Maree và tôi đã trao nhau trên phiến đá nhìn ra dòng Potomac.
Joanne thì thầm, “Anh có thể nói chuyện với con bé được không? Xin anh. Tôi biết đó không phải là việc của anh. Nhưng nó sẽ không chịu nghe lời tôi. Có thể con bé không bao giờ còn nói chuyện với tôi nữa.”
Tôi trông thấy những giọt lệ trong đôi mắt cô. Mới là lần thứ hai kể từ khi tôi gặp cô. Tôi thấy khó chịu.
“Giờ cô ta đâu rồi?”
“Nó sẽ gặp thằng kia tại Công viên Washington, khu buôn bán kinh doanh trong một giờ đồng hồ.”
Như tôi đã giải thích rõ với Claire duBois và tất cả đệ tử của tôi, sự gắn bó của người dẫn dắt với các thân chủ của mình kết thúc vào đúng giây phút kẻ chủ mưu và kẻ moi tin hoặc sát thủ bị bắt giữ hoặc vô hiệu hóa. Trị liệu tâm lý, ly hôn, các tai nạn bi kịch, hạnh phúc mãi mãi về sau - không một kết thúc khả dĩ nào trong số này còn liên quan gì tới chúng tôi nữa. Vào lúc cuộc sống của gia đình Kessler bắt đầu trở lại bình thường - bằng cách này hay cách khác - sau những kinh hoàng của vài ngày qua, thì tôi sẽ tới một nhà an toàn khác hoặc đang trên đường tới đâu đó, bảo vệ các thân chủ mới.
“Làm ơn.”
Trên phiến đá, tôi thấy chính mình đang nghĩ. Tôi chợt nhớ đến bọt biển sôi sục của dòng Potomac dưới chân mình.
Trên phiến đá…
“Được rồi.”
Sức ép lên cánh tay tôi tăng lên.
“Ôi, cảm ơn anh…” Cô lau nước mắt.
Tôi đứng dậy.
“Corte?”
Tôi ngoái lại nhìn.
“Anh còn nhớ chúng ta từng nói gì với nhau không? Có hai cuộc đời, anh biết đấy, công việc bảo vệ các thân chủ của anh hay công việc của tôi, và rồi có một gia đình nữa? Tôi đã nói anh không thể có được cả hai. Nhưng tôi không chắc… Có thể anh sẽ làm được. Nếu anh xử lý đúng đắn.” Cô nở nụ cười không giống cô. “Và nếu anh mong muốn đủ đậm sâu.”
Tôi không biết phải đáp lại như thế nào. Tôi gật đầu tạm biệt, rồi hơi khập khiễng, bước về xe mình.
Sau bốn mươi phút tôi đã ở Công viên Washington, cách DuPont Circle không xa. Công viên nhỏ và mang dáng dấp của D.C. thuở mới thành lập. Vài chiếc ghế dài là mới, và tôi nghe nói được tái chế từ mấy cái lốp hoặc thùng carton đựng sữa bỏ đi. Rất xanh và tốt cho sức khỏe con người nhưng tôi thích ghế cũ hơn, như mấy chiếc trong công viên này. Trông chúng như thể được đặt ở đây từ thời Teddy Roosevelt còn đang làm việc cách đây khoảng ba dặm trên Đại lộ Pennsylvania. Đồ sắt đen xì, hoen rỉ vài chỗ, với mấy thanh gỗ mỏng để ngồi lên, đã lồi lõm sau bao nhiêu năm bị sơn vô tội vạ.
Một cặp đôi băng qua công viên, dừng lại một lần ngắm nhìn một bụi cây, một bông hoa nhài đang nở bung, tôi tin thế, rồi lại tiếp tục bước đi. Một lúc sau công viên vắng tanh. Một ngày gió thổi dữ dội, trời mây u ám. Tôi đỗ xe ở nơi có thể nhìn thấy toàn bộ các ghế dài và nhận ra Maree từ bất kỳ góc độ nào. Tôi tắt máy xe và hạ tấm che nắng trên xe xuống. Tôi đã đủ vô hình. Tôi thử gọi vào điện thoại của cô ta nhưng cuộc gọi chuyển vào hộp thư thoại, tôi nghi ngờ cô ta tắt máy nhằm tránh phải nghe những cuộc gọi của chị gái.
Thế rồi một người khác tới gần. Tôi chán nản khi thấy đó là Andrew - Claire duBois đã gửi cho tôi ảnh của gã khi tôi yêu cầu cô kiểm tra gã như một kẻ chủ mưu khả dĩ trong công việc của Kessler. Gã đang gọi di động, nhàn tản bước vào công viên. Gã nhìn xung quanh rồi đứng lại một lúc sau đó ngồi xuống ghế dài. Gã vắt chéo chân. Tôi không thể thấy được nét mặt gã - tôi ngồi cách đó khoảng mười hai mét - nhưng gã không cười, thể hiện ra ngôn ngữ cơ thể của một người đang bực bội. Gã sẽ trở thành đối thủ dễ thất bại trong một trò chơi, chưa kể đến cá tính nóng nảy của gã, tâm trí gã sẽ thường xuyên ở trên mây.
Vì gã đã tới đây trước nên sẽ không có nhiều cơ hội nói chuyện với Maree trừ phi tôi có thể chặn đầu cô.
Nhưng chuyện này cũng sẽ không xảy ra. Ngay sau đó cô ta bước đến từ phía đối diện công viên. Không như Andrew cô ta đang mỉm cười, rõ ràng mong ngóng được gặp gã. Có sự nhẹ nhàng trong bước chân, cô ta mang theo một túi mua sắm nhỏ từ Neiman Marcus và túi đựng máy ảnh. Tay cô đang kéo theo chiếc va-li một bánh đã trở nên quen thuộc sau lưng như con cún. Phải chăng trong cái túi mua sắm kia là món quà tặng? Cô ta lại vào vai diễn bối rối, như trẻ con, cầu xin sự quan tâm của đàn ông, mà tôi nhớ lại từ tin nhắn cô ta để lại trên điện thoại của Andrew mà chúng tôi đã nghe. Đối với gã, cô ta cư xử rất khác, hay nói là, cô ta đối xử với gã trái ngược hẳn cách đối xử với những người như tôi.
Ngài Hướng dẫn viên…
Andrew nhận ra cô ta và gật đầu nhưng không hề mỉm cười hay kết thúc cuộc gọi. Tôi tự hỏi phải chăng gã gọi cuộc điện thoại không cần thiết như một cách thể hiện quyền lực. Các loài vật phô diễn hành vi thống trị, như thế này, nhưng chúng làm thế để sinh tồn chứ không phải vì bản ngã. Tôi biết rằng Andrew đã làm tổn thương Maree trong quá khứ và tôi cũng cảm nhận thấy, qua sự xem thường này, rằng lúc này gã là mối đe dọa đối với cô ta, như Joanne đã nghĩ.
Vì tuần làm việc của tôi đã kết thúc, nên tôi để khẩu Glock trong ngăn kéo bàn đã khóa kín. Dẫu vậy tôi luôn có thể gọi cho 911. Tôi quan sát chăm chú, ghi nhớ từng chi tiết có thể là quan trọng. Gã đeo găng tay. Hông của gã hơi căng cứng. Tôi đã nhận thấy từ trước. Gã mang theo một ba lô lớn, bên trong có thể chứa, hoặc thậm chí, có thể dùng làm vũ khí. Gã không đeo kính, cho thấy vị trí dễ tổn thương mà có thể hữu ích với đối thủ khi đấu tay đôi hoặc chạy trốn. Rõ ràng gã sung sức và mạnh mẽ.
Thế nhưng có vẻ như Maree không nhận ra bất kỳ mối đe dọa nào, cô ta rất vui vẻ được ở bên cạnh gã. Miệng vẫn mỉm cười, cô ta ngồi xuống, hôn gã vào bên má không bị điện thoại che khuất. Gã nắm chặt lấy tay cô ta, tảng lờ cô ta đi trong một lúc hoặc lâu hơn rồi gác máy. Gã cất điện thoại đi quay sang cô ta kèm theo một nụ cười. Tôi không nghe được từ nào nhưng màn đối thoại có vẻ vô hại. Gã chắc đang hỏi mấy ngày qua cô ta đã đi đâu - và từ nét mặt ngạc nhiên của gã - tôi có thể đoán cô ta đã kể cho gã nghe sự thật. Gã bật lên tiếng cười ngắn.
Nhưng dù cậu nghĩ chuyện gì đang diễn ra đi nữa, Corte, dù có là gì đi nữa, đừng bao giờ đưa ra những giả định. Cảnh giác không ngừng.
Chắc chắn rồi, Abe.
Nụ cười toe toét của Andrew biến thành một nụ cười quyến rũ, gã vòng tay ôm cô ta vào lòng. Gã thì thầm có vẻ như là lời mời cô cùng quay về căn hộ của gã. Từ nghiên cứu của duBois tôi biết rằng nơi gã sống cách đây không xa.
Đến lúc này Maree lắc đầu và gỡ cánh tay của gã khỏi vai mình. Cô ta lảng tránh. Im lặng một lúc, cô ta hít một hơi rồi gửi đến gã câu nói gì đó, lảng tránh ánh mắt gã. Dường như ban đầu cô ta còn vụng về nhưng rồi dần tự tin và mạnh mẽ hơn nhìn thẳng vào gương mặt thụ động của gã, khi tiếp nhận những lời nói của cô ta.
Gã phác một cử chỉ với một bên tay đeo găng ngồi sán lại gần hơn. Gã nói vài câu, Maree lắc đầu.
Cô ta cầm cái túi lên lấy ra một bức ảnh viền khung. Đó là bức ảnh tĩnh vật mà tôi đã thấy tại nhà Kessler và nhận ra đây có thể là món quà gã đã tặng cô ta trước kia. Có thể là một trong số các bức ảnh của riêng gã. Cô ta trả nó lại cho gã.
Thú vị đây. Cô ta đang chia tay gã.
Gã nhìn chằm chằm bức ảnh rồi nở nụ cười buồn. Gã nói với cô ta vài câu nữa, mặt nghiêm túc. Gã rướn người vào muốn một nụ hôn nhưng cô ta lùi xa hơn nữa, nói thêm câu gì đó.
Gã gật đầu. Rồi vụt đứng phắt dậy, gã quẳng bức ảnh xuống vỉa hè, khiến nó vỡ tan tành. Maree co rúm người lại, tránh xa những mảnh vỡ. Tiếp theo gã đưa tay ra nắm lấy cánh tay cô ta. Cô ta nhăn nhó thét lên vì đau. Bàn tay đeo găng kia của gã rụt lại, siết lại thành quả đấm.
Tôi mở cửa xe nhanh nhẹn bước ra ngoài…
Đúng lúc đó Maree cũng đứng dậy, lòng bàn tay giơ lên đánh thẳng vào mặt gã. Không ngờ tới những cử chỉ bạo lực này gã hoàn toàn không kịp phòng thủ. Cú đánh trúng vào mũi gã. Chắc phải đau lắm - tôi biết; một thân chủ trong cơn hốt hoảng đã từng vô tình thúc cùi chỏ vào mặt tôi.
Gã ngã ngồi xuống chiếc ghế dài, gập người lại, tức điên lên, ôm chặt lấy gương mặt máu me.
“Con khốn chó đẻ.”
“Tôi nói rồi; chuyện chúng ta kết thúc rồi,” Cô ta cương quyết nói.
Giờ vì đã xuống xe nên tôi nghe tiếng họ rất rõ.
Gã lại đứng dậy quờ quạng tìm kiếm nhưng cô ta bình tĩnh đẩy gã lùi lại, rất mạnh. Mù dở vì những giọt nước mắt đau đớn, gã loạng chạng rồi ngã gục xuống vỉa hè, một bên sườn tiếp đất. Gã lảo đảo đứng dậy rồi bước lùi lại, vươn tay tìm khăn giấy Kleenex.
“Mày đã tấn công tao, con chó này! Tao sẽ gọi cảnh sát.”
“Tốt thôi,” cô ta nói, ví dụ mẫu mực về sự bình thản. “Hãy nhớ anh rể tôi là cảnh sát đấy. Tôi biết anh ấy rất thích nói với anh về chuyện đó. Anh ấy cùng một số người bạn nữa.”
Tôi rất vui khi nghe thấy câu này, dưới sự chăm sóc của tôi, Maree đã học được cách nắm chắc - và sử dụng - lá bài chủ trong tay.
Cô ta nhìn xuống với vẻ thương hại nào đó, có vẻ như vậy. “Đừng bao giờ gọi cho tôi nữa.” Nói rồi cô quàng cái túi đựng máy ảnh lên vai, xoay người, kéo chiếc va-li sau lưng, chậm rãi bước đi. Tôi đợi xem Andrew có bám theo cô ta nữa không. Dường như gã đang phân vân. Gã nắm chặt một thứ như là một mảnh khung kính vỡ còn lại nhưng rồi lại ném đi. Rồi gã loạng choạng đi về phía ngược lại, bàn tay đeo găng giữ chặt cái mũi đang chảy máu.
Tôi buông mình xuống ghế tài xế và khởi động xe, quay xe theo hướng Maree đã đi. Tôi thấy cô ta ở ngã tư tiếp theo, đang đứng chờ đèn. Cô ta lùa bàn tay vào mái tóc, ngả người về phía sau, ngước mắt lên ngắm bầu trời đang đậm thêm. Hẳn cô ta ngửi thấy cũng như tôi, qua cửa kính xe đã hạ xuống của chiếc Volvo, mùi hương ngọt ngào của những chiếc lá thu và thứ mùi còn ngọt ngào hơn nữa của gỗ trong lò sưởi từ căn nhà đá cát kết nâu nào đó gần đây.
Đèn giao thông chuyển màu. Maree băng qua đường bước đến chỗ Khách sạn Hyatt cao lớn, lấp lánh như thủy tinh.
Tôi cho xe vào lề đường trước cửa khách sạn rồi dừng xe, trình thẻ liên bang cho tay cảnh sát giao thông, anh ta gật đầu rồi bước đi.
Tôi tắt máy xe.
Tôi ngắm nhìn Maree bước qua cánh cửa xoay. Nó xoay chậm dần rồi dừng lại. Cô ta nhìn quanh rồi đến gần bàn lễ tân, trao lại va-li cho người trực tầng. Cô ta chào hỏi nhân viên lễ tân rồi mở túi, trình chứng minh thư và thẻ tín dụng.
Tôi theo dõi cô ta một lúc. Rồi khi thân chủ cuối cùng của tôi cuối cùng cũng an toàn, tôi khởi động xe rồi vào số. Tôi hòa mình vào dòng giao thông, rời khỏi khách sạn, để trở về nhà.
CỜ TÀN
Khi lái xe đi làm, tôi không cho phép mình tận hưởng thú vui xa xỉ là nghe nhạc: quá phân tâm, như tôi đã nói với Bill Carter.
Nhưng khi có thời gian, tôi luôn nghe radio, một đĩa CD hay một danh sách nhạc tải từ trên mạng xuống. Tôi thích nhạc xưa nhưng với tôi nhạc xưa là từ những năm 1930 đến 1960, sớm hơn hay muộn hơn chút cũng đều không hay.
Các nghệ sĩ thời đó như Fats Waller, Sinatra, Billie Holiday, Louis Armstrong, Rosemary Clooney, Ella, Sammy Davis, Jr., Dean Martin ... nếu lời hát của họ không quá ngu ngốc. Ca từ rất quan trọng. Đó là khái niệm mà nhóm Beatles, hay nói đúng hơn, toàn bộ khả năng âm nhạc của họ không hiểu được. Âm nhạc tuyệt vời nhưng tôi cho rằng hẳn là họ sẽ sáng tạo ra thứ nghệ thuật siêu việt hơn nhiều nếu họ chịu dừng lại và suy nghĩ về những gì mình đang viết.
Lúc này, khi phóng vun vút rời khỏi Washington, tôi đang bật kênh Sinatra trên đài vệ tinh Sirisu, lắng nghe sự pha trộn rất hay giữa các nghệ sĩ của thời đó, không chỉ có Frank. Giọng hát đang vẳng ra từ các loa là của Harry Connick, Jr.
Thưởng thức âm nhạc. Thưởng thức cả việc lái xe nữa.
Tôi đã bỏ lại District sau lưng. Bỏ lại Maree và Joanne. Ryan và Amanda.
Cả Henry Loving nữa.
Tất cả bọn họ, theo những cách khác nhau, đều là những lời chia tay vĩnh viễn.
Những người khác cũng đã chấm dứt sự tồn tại với tôi - chỉ là tạm thời, tất nhiên. Freddy đã đi xa rồi, Aaron Ellis và Claire duBois nữa, người mà tôi hy vọng lúc này đang bận tíu tít nấu nướng cùng Người Mèo.
Jason Westerfield đã biến mất khỏi danh sách nhân viên trong đầu tôi cũng như người đàn bà đeo ngọc trai.
Xe phóng vút qua một biển chỉ đường. Còn mười lăm phút nữa tới Annapolis, Maryland.
Hai mươi phút sau, tôi cho xe vào lề đường phía trước một ngôi nhà thuộc địa màu trắng khiêm nhường cách vịnh Chesapeake không xa. Ngọn gió tối nay tuy nhẹ nhưng tôi vẫn có thể nghe thấy những con sóng - một trong số những điều tôi thích nhất ở khu này.
Tôi cho xe chạy chậm lại, bật xi nhan, cho dù sau xe tôi chẳng có ai, rồi ngoặt vào lối vào nhà hẹp, phủ đầy lá, ở đây cần phải dọn lá từ sớm, không như ở D.C. Tôi ưa thích cào lá - không phải thổi lá mà là cào - ngày mai tôi sẽ bắt tay vào nhiệm vụ này, ngày bắt đầu kỳ nghỉ cuối tuần của tôi. Tôi dừng xe lại, xuống xe, vươn vai rồi lấy máy tính, túi tập gym và túi mua sắm trong đấy có đựng trò board game quý giá của tôi.
Tay xách nách mang, tôi bước dọc theo lối đi bê tông uốn lượn - thảm lá lạo xạo dưới chân - tiến tới cửa trước. Tôi vừa định bỏ va-li xuống để thọc tay vào túi tìm chìa khóa thì bỗng cánh cửa bật mở.
Tôi chớp mắt ngạc nhiên.
Peggy đang phá lên cười. Nhỏ nhắn nhưng mạnh mẽ, gương mặt lấm tấm tàn nhang ngay cả khi đã bước vào tuổi tứ thập, cô nàng tóc nâu ấy choàng tay ôm chầm lấy tôi, cùng với đống đồ đạc lỉnh kỉnh khiến tôi suýt nữa thì ngã bật ngửa. Cô giữ chắc cả hai chúng tôi - mạnh mẽ, tôi phải nói vậy - với cánh tay siết chặt phần lưng dưới của tôi, cô dẫn cả hai tiến vào trong ngôi nhà của chúng tôi.
“Anh về sớm thế.” Cô cau mày. “Em có nên bảo bồ của em trốn ra bằng cửa sổ phòng ngủ không?”
“Hắn có biết nấu ăn không thế?” Tôi hỏi. “Bảo hắn ở lại đi.”
Peggy đấm mạnh vào hai mạng sườn tôi, lại phá lên cười. Bỏ hết đống va-li túi xách xuống, tôi ôm lấy cô thật chặt. Đôi môi chúng tôi xoắn vào nhau trong nụ hôn lâu thật lâu.
“Vậy là dự án kết thúc sớm à?”
Tôi nhận thấy cô liếc nhìn hình ảnh mình trong gương rồi duỗi thẳng sợi tóc cứng màu đen. Rõ ràng cô cứ nghĩ rằng phải tới mai tôi mới về. Cô thường chưng diện đẹp đẽ đón tôi về nhà mỗi khi tôi đi vắng. Đây là một trong những điều ở cô ấy mà tôi yêu. Tôi không gọi trước vì tôi không muốn gặp bất kỳ rắc rối nào và muốn làm cô ngạc nhiên - như thế này, cũng như vào những ngày sinh nhật và kỷ niệm, ngày kỷ niệm đám cưới lần thứ 15 của chúng tôi đang đến rất gần, chỉ hai tuần nữa thôi.
“Đầu anh bị làm sao thế kia?”
“Anh vụng về lắm. Em biết mà. Bò lổm ngổm quanh công trường xây dựng.”
“Bảo thủ,” cô la rầy.
“Lúc nào anh chả thế,” Tôi hỏi. “Bố mẹ em tuần này vẫn sẽ đến chứ?”
“Vâng. Cùng Oscar.”
“Ai cơ?”
“Con chó của hai cụ ấy mà.”
“Anh có biết là bố mẹ em nuôi chó không?” Tôi hỏi. Thật sự tôi không nhớ.
“Bố mẹ em nói rồi.”
“Chó giống gì?”
“Peekaboo hay sao ấy, em chả biết. Một con corgi-doodle.”
Tôi nhìn quanh.
“Bọn nhóc đâu rồi?”
“Jeremy trong phòng nó, đang gọi điện thoại cho anh trai anh. Sam đang trên giường ngủ. Em sẽ làm cho anh chút bữa tối.”
“Một chiếc sandwich nhé, nếu có thể. Rượu nữa. Một ly rượu lớn.”
“Đi nào.” Peggy kéo hành lý vào trong hành lang nơi tôi đang muốn lát gạch lại, kể từ khi một đường ống nhà tắm lăn ra hỏng một tháng trước. Cô dẫn tôi vào nhà bếp rồi ngó vào trong tủ lạnh. Trước khi bắt đầu sắp đồ ăn ra cô vặn nhỏ đèn đi và thắp nến.
Cô rót một chai Chardonnay của Pháp, một chai Cote d’Or cho cả hai người. Chúng tôi cụng ly.
“Anh về nhà được bao lâu?”
“Bốn ngày.”
“Thật á!” Cô bước về phía trước, tì cả thân mình vào người tôi rồi hôn tôi thật sâu, bàn tay cô lướt xuống lưng tôi và dừng lại ở đúng cái vị trí từng là nơi tôi giắt bao súng vài giờ trước.
Sau một lúc, khi cô lùi lại, tôi nói: “Anh có nói anh ở nhà được năm ngày chưa?”
“Em biết làm gì cho hưởng trọn cả một tuần đây?” Cô thì thầm, môi cô kề sát tai tôi.
Tôi mỉm cười, cho dù ngay cả với Peggy tôi không phải là người đẹp trai nhất thế giới khi cười.
Thêm vài nụ hôn nữa và khi cuối cùng cô cũng rời khỏi vòng tay tôi, thì tôi mới nói, “Xem anh có gì này.” Tôi bước vào tiền sảnh, túm lấy cái túi mua sắm lấy ra cái trò chơi từng được giao đến vào hôm thứ Bảy. Tôi mở bao gói rồi đặt cái hộp giữa chúng tôi.
“Ôi trời…” Peggy không phải là tín đồ board game như tôi nhưng vì trong nhà này có nhiều trò chơi hơn sách nên cô cũng dần trở thành một chuyên gia. “Có phải thứ em nghĩ không?”
“Bản gốc đấy.”
Trước mắt chúng tôi là phiên bản đầu tiên của Candy Land, trò board game được xem là đơn giản nhất, và có thể cho rằng, là trò board game phổ biến nhất trong số tất cả các trò dành cho trẻ em. Bạn chỉ việc rút những quân bài rồi di chuyển các quân cờ của mình quanh một vùng đất có bao gồm đầm lầy sô cô la và ngọn núi kẹo dẻo vị trái cây.
“Anh nghĩ Jer thì quá tuổi rồi. Nhưng Sammy sẽ thích nó.”
“Không, nếu chơi với anh thì Jeremy sẽ chơi.”
Tôi nhận ra cô ấy đã đúng.
“Giờ thì ngồi xuống thư giãn đi,” Peggy nói với tôi. Rồi nụ cười nhạt dần. Tôi phán đoán. “Em đang tập thể dục hay thử món gì đó mà giấu anh đúng không? Em sút cân rồi này.”
“Đồ ăn nhanh ở cửa hàng em lấy chả ngon gì cả.”
“Hừm.”
Khi cô bật mở cửa tủ lạnh, tôi bước vào trong phòng làm việc. Tôi buông người xuống chiếc ghế bành kêu cót két của mình, bao quanh là 121 trò chơi xếp trên giá. Một ý nghĩ vụt đến với tôi, một suy nghĩ hướng thẳng đến một trong các thân chủ mới đây của tôi"
Cô quá chuẩn xác mà cô không biết đấy, Joanne. Không phải là không thể nào sống hai cuộc đời. Cái chung với cái riêng. Bóng tối với ánh sáng. Điên rồ với thực tế.
Nhưng hành động cân bằng ấy cần phải nỗ lực rất nhiều. Đôi khi hình như phải là siêu nhân mới làm nổi.
Cô phải quyết liệt gạt sang bên từng hồi ức và suy nghĩ về cuộc đời kia của mình, cuộc đời của bạn với những người bạn yêu thương khi chúng chợt đến trong đầu bạn. Bằng không, sự phân tâm có thể trả giá bằng cái chết.
Bạn phải chấp nhận sự cô đơn của một cuộc đời bí mật. Như cuộc sống tôi đã sống bốn hay năm ngày liên tiếp, hoặc nhiều hơn, trên đường, trong các nhà an toàn và tại căn nhà liền kề Alexandria, do chính phủ trợ cấp mà tôi có thể sẵn sàng sử dụng khi cần, gần văn phòng. Ngay cả cho dù nó nằm gần Câu lạc bộ game ưa thích của tôi, ngay cả cho dù nó chứa đầy ắp các trò chơi trong bộ sưu tập của tôi, ngay cả cho dù căn nhà được trang trí các giấy chứng nhận và bằng khen tôi được nhận từ Sở Ngoại giao và từ tổ chức hiện tại đang làm việc, nhưng điều căn bản nó là một căn nhà trống không, toát lên mùi bìa carton và mùi sơn. Nó không phải là nhà.
Và điều khó khăn nhất trong tất cả - nếu bạn muốn sống cuộc sống kép kiểu này - bạn phải dối trá.
Peggy biết tôi làm việc cho chính phủ, nhưng bởi vì bằng cấp toán của tôi, nên cô ấy nghĩ việc này chắc có liên quan tới phân tích khoa học nhằm bảo đảm các trang thiết bị của liên bang trong nước và nước ngoài. Tôi đã bảo cô ấy rằng tôi không thể nói thêm nữa và tôi cam đoan với cô ấy rằng nó không hề nguy hiểm chút nào hết, chỉ là tuyệt mật thôi. Rất nhiều con số nhức hết cả đầu. Rất buồn chán.
Tôi nghĩ cô ấy sẽ hiểu và chấp nhận rằng tôi buộc phải giữ kín miệng.
Và ngược lại, tôi chia sẻ rất ít cuộc sống ở nhà của mình với các đồng nghiệp - tất cả ngoại trừ người thân cận nhất, như Freddy. Tất nhiên, chôn sâu dưới đâu đó trong các phòng nhân sự chính quyền liên bang là các hồ sơ đầy đủ về tôi và về Peggy, hai thằng nhóc. Về mẹ tôi - bà sống tại San Diego - và ba anh trai của tôi, một là CEO của một hãng bảo hiểm và hai người là giáo sư đại học. Những hồ sơ ấy sẽ có liên quan khi có các vấn đề phúc lợi, hưu trí và thụ hưởng theo di chúc phát sinh, nhưng như nhiều chi tiết khác trong cuộc đời mình, tôi đã làm tất cả những gì người ta sẽ làm để bảo đảm các thông tin về tôi dựa trên chính sách bảo mật NTK.
Cần biết…
Với hầu hết mọi người tôi từng gặp trong công việc, tôi là người độc thân, không con cái, một người cư trú tại Thị trấn Alexandria và có khả năng góa vợ với một quá khứ bi kịch (câu chuyện lén lút mà tôi kể cho Maree là đúng sự thật, cho dù nó không có cái kết bi kịch như tôi ngụ ý khi giải thích với người phụ nữ trẻ). Tôi là một nhân viên liên bang cứng nhắc không biết kể chuyện đùa cợt hay mỉm cười nhiều. Tôi thích được gọi bằng cái tên tự phụ, kiêu căng, một âm tiết, “Corte” hơn.
Và tôi vô cùng biết ơn, khi sau lưng tôi vang lên tiếng thét vui sướng của trẻ con nghe muốn điếc tai xua tan đi những ý nghĩ ấy. Tôi đứng dậy, quay người lại và mìm cười.
Đứa con trai út của tôi, Sammy, đã thức giấc và đứng trên bậc cửa.
“Bố, bố về nhà rồi!” Nó đang mặc đồ ngủ SpongbeBob, mái tóc của nó rối tung và trông nó đáng yêu đến vô cùng.
Ngay lập tức tôi bỏ ly rượu xuống. Tôi biết thằng bé này sẽ vừa chạy vừa nhảy bổ về phía tôi. Chào đón tôi theo cái cách mà gần đây đã trở thành truyền thống. Và tôi chắc chắn, với đôi chân trần chạy thình thịch, nó phóng vút về phía tôi, không buồn chú ý đến lời van xin xen lẫn tiếng cười của mẹ nó từ nhà bếp kêu nó cẩn thận.
Nhưng tôi lại khuyến khích nó. “Sammy, lại đây nào, lại đây!” Tôi gọi, và chắc chắn giọng tôi nghe đầy nhiệt tình như tôi cảm thấy. Và khi nó lao lên không trung, tôi lấy tấn thật vững chắc, hoàn toàn chắc chắn thằng bé sẽ hạ cánh an toàn và bình yên trong vòng tay tôi đang đón chờ.
HẾT