Ở Vienna, chiến tranh kết thúc vào ngày 13 tháng Tư, năm 1945. Hai tuần sau đó, ngày giải phóng cũng đã đến với trại tập trung có người tù tên là Viktor Frankl. Nhưng vẫn phải đến tận tháng Tám ông mới có thể trở về Vienna, nơi mà tin tức khủng khiếp nhất đang chờ đón ông. Sự tuyệt vọng và cuộc đấu tranh tìm sức mạnh để tiếp tục sống của ông được thể hiện rõ ràng trong những bức thư bi thảm ông viết cho người thân và bạn bè trong tuần đầu tiên sau khi trở về nhà1.
Chú thích:
1 Viktor Frankl, Say Yes to Life in Spite of Everything và Selected Letters (1945 - 1949), do A. Batthyany, K. H. Biller, E. Fizzotti biên tập, NXB Böhlau, 2005.
Frankl lao đầu vào công việc – cách diễn đạt này hiếm khi lại có thể chính xác được như thế. Ông tiếp quản khoa thần kinh của Bệnh viện Đa khoa Vienna; chỉ trong vài tháng ông đã viết hai cuốn sách; tại trường cao đẳng giáo dục dành cho người trưởng thành ở Ottakring vốn là nơi ông đã gắn bó mật thiết từ những năm 1930, ông tổ chức một loạt buổi diễn thuyết vào mùa Thu năm 1945 có tên Người bệnh tâm thần; ông bình luận các vấn đề hằng ngày liên quan đến chính trị, xã hội và văn hóa trong nhiều bài báo và trong nhiều buổi thảo luận cộng đồng. Trong lúc tinh thần báo chí đang sôi sục, ông đáp ứng được nhu cầu của một nhóm khán giả thiếu thốn tri thức lẫn văn hóa sau nhiều năm chiến tranh sống dưới chế độ phát xít, bị hạn chế về mặt tinh thần. Do đó, trong thời điểm mọi người bị mất phương hướng và thiếu chỉ dẫn, ông đã trở thành một diễn giả được săn đón trong những diễn đàn cộng đồng, cũng như trong giới y khoa lẫn triết học. Chủ đề của ông là về tội lỗi và trách nhiệm – chắc chắn là một chủ đề của thời đại! – bao trùm các vấn đề nỗi sợ cuộc đời, đạo đức hằng ngày, và thường lặp đi lặp lại chủ đề đối mặt với những hệ tư tưởng phi nhân trong các sự kiện quá khứ gần đây. Tuy nhiên, trước nhất và trên hết, Frankl luôn quan tâm đến liệu pháp tâm lý, cả ở cấp độ bệnh nhân cá biệt lẫn cấp độ tập thể. Danh mục chuỗi bài giảng tại trường cao đẳng giáo dục dành cho người trưởng thành ở Ottakring vào học kỳ hè 1946 bao gồm nội dung sau:
Bác sĩ Viktor Frankl: Những vấn đề của thời đại chúng ta và các khó khăn thường ngày nhìn từ góc độ của một bác sĩ tâm thần. Năm bài diễn thuyết (Tự sát – Sự xóa sổ mang tính vũ lực – Thế giới của bệnh tâm thần – Giáo dục giới tính – Trại tập trung). Mỗi 5 - 6 giờ chiều các ngày thứ Bảy. Bắt đầu vào ngày 23 tháng Ba.
Vào ngày chuỗi bài diễn thuyết bắt đầu, Frankl đăng một bài báo trên tờ Vienna và Sức khỏe tâm thần. Ở cuối bài, ông khẳng định:
Nhưng ở Vienna, tinh thần trị liệu tâm lý vẫn còn tồn tại, và dù thế nào, hy vọng rằng càng sớm càng tốt, chúng ta lại có thể thấy Vienna, cái nôi của trị liệu tâm lý, cũng sẽ trở thành khu vực hồi sinh lĩnh vực này. Sự vực dậy của liệu pháp tâm lý cho thấy nhận thức về vai trò của nó trong xã hội – đặc biệt là trong thời điểm có nhiều phiền muộn nội tại và ngoại tại – và vai trò của nó đối với một thế giới còn đang chờ những sự tái thiết cả về tinh thần lẫn vật chất1.
Chú thích:
1 Wiener Kurier, 23 tháng Ba năm 1946.
Dựa trên chuỗi bài diễn thuyết ở Ottakring, Frankl đã viết cuốn sách Say Yes to Life in Spite of Everything. Three Lectures1 mà bạn đọc đang cầm trên tay. Bài diễn thuyết về chủ đề “Tự sát” và “Sự xóa sổ mang tính vũ lực” nằm trong phần “Luận về ý nghĩa và giá trị cuộc đời I + II” và chương về Trại tập trung bây giờ được đổi tên là “Thí nghiệm quyết định”. Thông qua những tiêu đề ngắn gọn này, ta có thể tái khám phá nhiều điều về tư duy và số phận của tác giả. Trước hết, sự khẳng định tuyệt đối về cuộc sống đã xuất hiện, đó là điều mà chính Frankl đã thảo luận trong một bức thư viết vào thời điểm đó. Tháng Chín năm 1945, ông viết cho hai người bạn là Wilhelm và Stepha Börner như sau:
Chú thích:
1 Do Franz Deuticke xuất bản tại Vienna, năm 1946.
“Tôi mệt khôn tả, buồn khôn tả, cô đơn khôn tả… Trong trại tập trung, ta thật sự tin rằng mình đã chạm đáy cuộc đời – ấy vậy mà sau đó, khi quay trở lại, ta bị buộc phải chứng kiến mọi thứ mất đi, bị hủy hoại, những thứ từng là điểm tựa nâng đỡ ta; vào thời điểm mà ta lần nữa là con người, chính lúc ấy ta lại có thể chìm sâu hơn xuống vực thẳm đau khổ tưởng chừng như không đáy. Có lẽ chẳng còn lại gì ta có thể làm ngoài khóc thương một chút, tìm kiếm ý nghĩa nào đó trong những Thánh thi. Có thể anh sẽ cười tôi, có thể anh sẽ giận tôi; nhưng ít nhất tôi không tự mâu thuẫn với chính mình; tôi chẳng rút lại bất cứ điều gì trong lời khẳng định trước đây về cuộc sống kể cả sau khi trải qua những điều tôi đã miêu tả. Ngược lại: nếu tôi không có thái độ sống tích cực vững chắc như thế này, thì tôi sẽ ra sao trong những tuần, mà thật sự là những tháng, ở trại tập trung? Bây giờ tôi đã nhìn nhận mọi thứ ở chiều kích khác. Càng ngày, tôi càng nhận thấy cuộc sống có ý nghĩa bất tận đến độ thậm chí trong đau khổ và thậm chí trong thất bại, chắc chắn vẫn còn tồn tại một ý nghĩa.”
Sự tôn kính sâu sắc này dành cho cuộc đời luôn bao gồm cả cuộc đời của những người khác. Ngay từ năm 1928, khi vẫn còn là một sinh viên y khoa, Frankl đã dành nhiều nỗ lực dấn thân vào việc thành lập các trung tâm tư vấn cho thanh thiếu niên với mục tiêu cao cả nhất là tìm cách ngăn chặn các vụ tự tử ở những người trẻ tuổi. Tự sát trở thành vấn đề đặc biệt diễn ra thường xuyên vào năm ấy khi những báo cáo ban hành ở các trường phổ thông hay đại học cho thấy điều này; trên thực tế, thông qua phong trào “Hành động báo cáo” do ông khởi xướng, không có một học sinh nào tự tử vào mùa hè năm 1931. Và ngay cả ở thời điểm đó, ông đã diễn giải rất thuyết phục vai trò của lẽ sống trong mối quan hệ với các biện pháp phòng ngừa tự tử:
Ngay cả khi nguyên nhân tinh thần dẫn đến những vụ tự sát rất khác nhau, vẫn có chung nền tảng tâm lý là việc thiếu niềm tin vào ý nghĩa cuộc sống. Người tự sát không chỉ thiếu dũng khí sống mà còn thiếu sự khiêm cung trước cuộc đời. Chỉ khi một hệ tư tưởng đạo đức mới thay thế tính khách quan mới của chúng ta, chỉ khi giá trị cuộc sống mỗi con người một lần nữa được công nhận là độc nhất vô nhị, chỉ khi đó nhân loại mới có đủ tinh thần cần thiết để chống chọi với những khủng hoảng tinh thần sắp xảy ra1.
Vậy là hết lần này đến lần khác, luôn có một niềm tin như thế vào ý nghĩa cuộc sống – thậm chí ngay cả khi đối mặt với nỗi đau khổ vốn thật sự thuộc về đời sống con người. Ý nghĩa của đau khổ đã được trình bày trong một ấn phẩm năm 1938, qua đó lần đầu tiên ông nói về ba phạm trù giá trị, đó là giá trị sáng tạo, giá trị trải nghiệm và giá trị ứng xử2. Nhưng chính xác là cái sau cùng – cách đối mặt với đau khổ không thể cứu vãn bằng lòng dũng cảm khiến bao người noi gương – mới là giá trị được ông xếp hạng cao nhất. Vì vậy, ông phát biểu trong bài diễn thuyết đầu tiên là: “Hoặc ta thay đổi số phận khi có thể, hoặc cam lòng chấp nhận nếu cần thiết phải như thế”.
Chú thích:
1 “Ngày Lao động, 14 tháng Bốn 1934”, trích từ Viktor E. Frankl – Frühe Schriften [tạm dịch: Những bài viết thời kỳ đầu] do Gabriele Vesely-Frankl biên tập, NXB Maudrich, 2005.
2 V. E. Frankl, “Zur geistigen Problematik der Psychotherapie” [tạm dịch: Bàn về vấn đề tinh thần của liệu pháp tâm lý]. Zentralblatt für Psychotherapie und ihre Grenzgebiete, 10 (1938), trang 33-45.
Những mối quan tâm này chắc chắn không chỉ đơn thuần là trò chơi hàn lâm trong những ngày đó, mà là một mục tiêu cụ thể cho việc sống và tồn tại. Quả thực, ai lại không phải chịu những tổn thất về thể chất và tinh thần sau thảm họa khủng khiếp như thế? Và bản thân Frankl – chẳng phải ông cũng đã đánh mất mọi thứ từng thân thuộc với mình?
Nhưng ông đã tìm được một lối về cuộc sống, về với một cuộc sống mà, bất chấp mọi thứ đã diễn ra, vẫn luôn tràn ngập những khả năng để biến ý nghĩa thành hiện thực. Và với những ấn phẩm cùng các bài diễn thuyết, ông muốn dẫn lối người khác đến con đường này để khuyến khích họ tự tìm lối thoát khỏi những năm khốn khổ đã qua – thậm chí cả khi phải đối mặt với một hiện tại vẫn còn khá bất ổn.
Tiêu đề của bài diễn thuyết thứ ba, “Thí nghiệm quyết định”, chỉ ra thực tế là Frankl không phải mới lần đầu phát triển ý tưởng về việc ý nghĩa cuộc sống chính là động lực trong trại tập trung – như đôi lần ông đã đề cập. Tác phẩm Ärztliche Seelsorge [tiếng Đức, tạm dịch: Chăm sóc mục vụ1 trong y tế] – một cuốn sách mà trong đó ông đã lập ra rất cụ thể học thuyết về định hướng của con người đối với ý nghĩa – thật sự đã tồn tại ở dạng bản thảo từ năm 1941. Thực tế, ông đã mang theo bản thảo này trong thời gian lưu đày, với hy vọng rằng một ngày nào đó sẽ có thể xuất bản nó. Theo như hồi ký ông viết, cuối cùng ông phải vứt bỏ chiếc áo khoác với bản thảo được khâu trong lớp vải lót2. Tuy nhiên, ở trong trại tập trung, ông đã quan sát thấy ngay cả trong những tình huống tồi tệ nhất của sự thiếu thốn cùng cực và suy thoái sâu sắc, tất cả những ý tưởng mà ông đã nhận thức và miêu tả có hệ thống trong công việc của một nhà tư vấn và bác sĩ tâm thần cho thanh thiếu niên vẫn còn nguyên vẹn giá trị. Trên thực tế, hóa ra những tù nhân vẫn nhận thấy hoặc ít nhất có hy vọng vào ý nghĩa cuộc sống là những người có nhiều khả năng tìm thấy sức mạnh nhất để tiếp tục sống hoặc thậm chí sống sót đến cùng. Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, điều đó cũng đúng với bản thân ông: điều giúp ông sống sót chỉ là hy vọng được gặp lại ít nhất một vài người thân yêu và đem bản thảo hoàn chỉnh của cuốn sách đến công chúng.
Chú thích:
1 Chăm sóc mục vụ là công việc chăm lo (chủ yếu liên quan tới) sức khỏe tinh thần và tâm linh cho bệnh nhân giai đoạn cuối đời. Công việc này thường do các giáo sĩ, linh mục thực hiện.
2 Viktor Frankl, Dem Leben Antwort geben. Autobiografie [tiếng Đức, tạm dịch: Hồi ức. Tự truyện] (Beltz, 2017).
Mùa Hè năm 1946, Frankl đã trình bày góc nhìn của người trong cuộc, đưa ra phân tích và gửi lời động viên đến khán giả đang nghe ông diễn thuyết bằng nguồn năng lượng hùng biện dồi dào, sự sắc bén trong khoa học và tính chính đáng của một người đã tự trải nghiệm giá trị lâu dài của những giả thuyết ông đưa ra bằng chính cơ thể và linh hồn mình. Ông đã xuất bản những phần quan trọng nhất và có giá trị phổ quát từ chuỗi bài diễn thuyết dưới dạng sách trong cùng năm. Nhiều cuộc thảo luận và đánh giá chi tiết về tác phẩm ngắn này trên những tờ báo, tạp chí văn hóa, chuyên ngành và trên đài phát thanh1 là minh chứng cho việc ông đã đánh trúng tâm lý thời đại chuẩn xác như thế nào.
Tiến sĩ Franz Vesely
Vienna, mùa Hè 2019
Chú thích:
1 Hơn 30 bài bình luận đã được đăng tải trong 10 năm sau lần xuất bản đầu tiên của cuốn sách trên nhiều tạp chí và tờ báo ở Áo, bao gồm Wiener Zeitung, Die Österreicherin và Österreichische Ärztezeitung.
Tiến sĩ Franz Vesely là Giáo sư đại học ngành vật lý. Sau khi cha vợ ông là Viktor Frankl qua đời, ông quản lý tác quyền của Frankl. Là Giám đốc Viện Lưu trữ Viktor Frankl, ông quản lý di sản khổng lồ của Frankl. Ông còn là đồng sáng lập và thành viên hội đồng quản trị của Viện Viktor Frankl – một tổ chức khoa học.