• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Lẽ sống
  3. Trang 6

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 5
  • 6
  • 7
  • More pages
  • 12
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 5
  • 6
  • 7
  • More pages
  • 12
  • Sau

Thí nghiệm quyết định

Có một thị trấn nhỏ ở Bavaria tên là Landsberg, cách Munich khoảng năm mươi cây số về phía Tây. Ở phía Nam thị trấn lại có một con đường dẫn đến thị trấn Markt Kaufering, cách đó năm cây số. Vào đầu năm ngoái, khi trời vừa rạng sáng, 280 người đã diễu hành trên con đường này. Một hàng dọc bao gồm những hàng ngang năm người do lính SS hộ tống: đây là một nhóm tù nhân từ trại tập trung ở Kaufering. Họ đang đi đến khu rừng gần đó, tại đây họ phải xây một nhà máy sản xuất vũ khí bí mật với quy mô khổng lồ. Những con người rách rưới, sa cơ thất thế đi dọc con đường. Đi bộ là mô tả không chính xác, họ tập tễnh, lê bước theo nhau, nhiều người còn phải bám và dựa vào nhau; chân họ sưng phồng vì chứng phù nề do nhịn đói, hầu như không thể chống đỡ được cơ thể mà trọng lượng trung bình chỉ khoảng bốn mươi cân; chân họ đau nhức vì bị trầy da, chảy máu, khắp bàn chân toàn là những vết loét, vết cước mưng mủ. Và điều gì đang diễn ra trong trí óc những người này? Họ nghĩ về món xúp được phát vào buổi tối ở trại, bữa ăn duy nhất trong ngày sau khi trở về từ chỗ làm, và tự hỏi liệu buổi tối hôm đó, ngoài món nước lõng bõng ấy, họ có đủ may mắn có thêm được một củ khoai tây trong ấy không. Họ nghĩ về việc mình sẽ được chỉ định vào nhóm nào trong mười lăm phút nữa, khi công việc bắt đầu: liệu họ sẽ rơi vào một nhóm dưới quyền người quản đốc đáng sợ hay một nhóm tương đối dễ chịu. Vậy là, suy nghĩ của những người này chỉ xoay quanh các rắc rối hằng ngày của một tù nhân trong trại tập trung.

Thế nhưng, một người trong số đó cảm thấy rằng những suy nghĩ này quá vô nghĩa. Anh ta cố gắng nghĩ đến những chuyện khác, những mối quan tâm con người hơn, chính đáng hơn. Nhưng anh không hoàn toàn có thể làm được. Sau đó, anh đã sử dụng một thủ thuật: anh cố gắng tách mình khỏi toàn bộ cuộc sống đau khổ này, vượt qua nó bằng cách nhìn vào nó từ một vị trí thuận lợi hơn, hoặc từ góc nhìn của tương lai, theo nghĩa một quan sát có tính lý thuyết về tương lai. Và anh đã làm gì? Anh tưởng tượng rằng mình đang đứng trước bục giảng của một trường cao đẳng giáo dục dành cho người trưởng thành ở Vienna để diễn thuyết và nội dung sẽ là những gì anh đang trải nghiệm trong hiện tại: trong tâm trí anh, anh đã diễn thuyết một bài có tựa đề là “Tâm lý ở trại tập trung”.

Nếu quan sát kỹ hơn người đàn ông trong nhóm đó, bạn sẽ nhận thấy rằng anh đã khâu những mảnh vải lanh nhỏ vào áo khoác và quần, trên đó có thể nhìn thấy số: 119104. Và nếu đã xem qua hồ sơ của trại Dachau, bạn sẽ nhận ra bên cạnh con số này còn có tên của tù nhân: Frankl, Viktor.

Bây giờ, lần đầu tiên, tôi muốn thật sự trình bày bài diễn thuyết đó trong hội trường thực thụ của trường cao đẳng giáo dục dành cho người trưởng thành ở Vienna này, chính bài diễn thuyết mà người đàn ông kia đã hình dung trong tâm trí vào thời điểm đó. Để tôi kể bạn nghe! Bài diễn thuyết đó bắt đầu như thế này: khi xét về tâm lý ở trại tập trung, ta có thể phân biệt một số giai đoạn phản ứng tâm lý của tù nhân đối với cuộc sống trong trại. Giai đoạn đầu là lúc tù nhân nhập trại. Đây là giai đoạn với những đặc trưng có thể được định danh là cú sốc nhập trại. Hãy tưởng tượng một tù nhân được chuyển đến Auschwitz. Nếu cũng tương tự cảnh ngộ ở chuyến tàu của tôi, chuyện sẽ diễn ra như sau: trong trường hợp anh ta thuộc về nhóm đa số, chiếm khoảng 95%, thì con đường anh đi sẽ dẫn thẳng từ ga xe lửa đến phòng hơi ngạt; nhưng nếu anh thuộc về nhóm thiểu số 5% – giống như tôi tình cờ cũng thuộc nhóm này – thì con đường của anh trước tiên sẽ dẫn đến phòng khử trùng, vào một trận gột rửa ra trò. Trước khi có thể vào phòng tắm thật sự, mọi thứ anh mang theo bên mình sẽ bị tước đoạt, anh chỉ được phép giữ lại dây đeo quần hoặc thắt lưng, may mắn hơn thì còn được thêm mắt kính hoặc băng thun. Nhưng không có sợi râu, sợi tóc nào được phép lưu lại trên cơ thể, anh bị cạo trọc hoàn toàn. Đến khi đứng tắm dưới vòi sen thì không có gì thuộc về phần đời trước kia của anh còn sót lại, ngoại trừ sự tồn tại “trần trụi” đúng nghĩa đen.

Sẽ không ai ngạc nhiên khi biết được suy nghĩ tiếp theo của anh là cách tự sát nào thì hiệu quả nhất. Trên thực tế, tất cả mọi người trong hoàn cảnh này đều rùng mình, dù chỉ trong chốc lát, khi nghĩ đến ý tưởng “chạy về phía dây kẽm gai” để tự sát, đó là phương pháp thường sử dụng nhất ở trong trại: tiếp xúc với hàng rào kẽm gai có điện cao thế. Tuy nhiên, anh từ bỏ ý định ngay lập tức, đơn giản vì điều đó đã ít nhiều trở nên vô nghĩa; bởi lẽ nỗ lực tự sát là dư thừa trong tình huống này – ai cũng có khả năng phải đến phòng hơi ngạt. Ai lại cần chạy về phía dây kẽm gai khi sớm hay muộn cũng phải vào phòng hơi? Anh không cần phải mơ ước “dây kẽm gai” nữa, một khi có “khí ga” khiến anh phải sợ; nhưng anh sẽ không còn sợ “khí ga” nữa, một khi anh mơ ước “dây kẽm gai”…

Khi nói về những chuyện này, tôi luôn kể lại trải nghiệm sau đây: vào buổi sáng đầu tiên chúng tôi ở trại Auschwitz, một đồng nghiệp của tôi đến đây từ vài tuần trước đã tự lẻn vào khu của chúng tôi – vì những người mới đến như chúng tôi sẽ ở chung trong một túp lều tách biệt. Anh muốn an ủi và cảnh báo chúng tôi. Trên hết, anh muốn chúng tôi hiểu rằng hãy nên chú ý thật kỹ tới vẻ ngoài của mình; hãy cố gắng bằng mọi giá tạo ấn tượng là mình đủ khỏe mạnh để làm việc. Thậm chí, kể cả dáng đi khập khiễng có thể chỉ vì một lý do rất vặt vãnh như giày không vừa cũng xem như xong đời: một tay lính SS hễ thấy ai đó đi cà nhắc là chỉ cần đơn giản vẫy tay ra hiệu họ đứng sang một bên, rồi sau đó chuyển họ đến thẳng phòng hơi ngạt. Chỉ những người khỏe mạnh đủ để làm việc mới được xem là đáng sống, tất cả những người còn lại đều bị xếp là không đáng sống, không đáng tồn tại!

Đó là lý do tại sao đồng nghiệp của tôi thúc giục chúng tôi cạo râu mỗi ngày để sau khi cạo da bằng một số dụng cụ ngẫu nhiên tìm thấy, chẳng hạn như mảnh kính vỡ, chúng tôi sẽ trông “hồng hào hơn”, tươi tắn hơn, khỏe mạnh hơn.

Khi đã kiểm tra nhóm xong xuôi để xem liệu tất cả chúng tôi có tạo được ấn tượng tốt về việc có đủ sức khỏe và phù hợp cho công việc hay không, anh nói trấn an: “Bởi các bạn đứng trước mặt tôi bây giờ, các bạn không phải sợ bị chuyển đến phòng hơi ngạt trong lúc này – có lẽ ngoại trừ một người – ngoại trừ anh đấy, Frankl, anh không nổi giận với tôi đâu, đúng không? Nhưng hiện thời anh là người duy nhất có diện mạo dễ bị lọt vào diện được chọn lắm”. (Được chọn là thuật ngữ thường được sử dụng trong trại để chỉ những người sẽ phải đến phòng hơi ngạt vào đợt tới.) Tôi không nổi giận với anh ấy một chút nào, lúc ấy tôi chỉ cảm thấy nhẹ nhõm vì nếu được như thế thì tôi đỡ phải nhọc công tìm cách tự tử.

Sự thờ ơ với số phận một con người sau đó lại còn tiến triển sâu sắc hơn. Chỉ trong vài ngày kể từ khi bị giam vào trại, càng ngày người tù càng trở nên chai sạn hơn về mặt cảm xúc. Những việc diễn ra xung quanh ngày càng ít ảnh hưởng đến anh ta. Trong khi vào những ngày đầu tiên, dồn dập vô số trải nghiệm xấu xa, thù ghét theo đủ mọi khía cạnh gây ra cảm giác kinh hoàng, phẫn nộ và ghê tởm, những cảm giác này cuối cùng giảm dần và cuộc sống nội tâm nói chung bị hạ xuống mức tối thiểu – điều mà một người ngoài cuộc sẽ hoàn toàn không thể tưởng tượng được. Mọi suy tư và nỗ lực khi đó đều bị gói gọn lại trong chuyện làm sao để sống sót thêm một ngày nữa. Tất cả đời sống tinh thần cũng bị giảm xuống để phục vụ riêng cho lợi ích duy nhất này. Trong mối tương quan với mọi thứ khác, linh hồn tự xây cho mình lớp vỏ bảo vệ để những ấn tượng đau lòng, khó chịu không thể chạm tới. Đây là cách linh hồn tự bảo vệ mình, nó cố gắng tạo lớp phòng thủ trước sức mạnh áp đảo đe dọa nuốt chửng mình nhằm duy trì trạng thái cân bằng, chọn cách giải thoát bản thân bằng sự thờ ơ. Qua đó, tù nhân tiến vào giai đoạn thứ hai của phản ứng tâm lý đối với cuộc sống trong trại: giai đoạn có thể gọi tên là giai đoạn lãnh đạm.

Nhưng nếu mối quan tâm độc nhất của bạn bây giờ là tự bảo toàn, bảo toàn mạng sống cho bản thân và một vài người bạn, thì đời sống nội tâm cá nhân gần như chìm xuống cấp độ của một loài động vật. Và nếu xem xét kỹ hơn, ta có thể bổ sung là: cấp độ của một động vật bầy đàn. Để xác minh điều này, người ta sẽ phải quan sát hành vi của các tù nhân trong trại khi họ lập đội hình hàng dọc để di chuyển, khi đó họ chủ yếu quan tâm đến việc xếp vị trí của mình sao cho đứng ngay giữa đoàn và ngay giữa trong một hàng ngang năm người để không bị làm tấm bia hứng chịu những cú đá của lính canh. Những nỗ lực của mỗi người chủ yếu hướng đến việc không thu hút sự chú ý, không nổi bật theo bất kỳ cách nào mà chỉ là hòa lẫn vào số đông. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên nếu sự lặn ngụp vào đám đông này dẫn đến tình trạng “hạ cấp”, suy giảm khía cạnh cá nhân. Trong trại, con người có nguy cơ trở thành sinh vật của quần chúng. Nhìn chung, anh ta trở về căn tính nguyên thủy như một sinh vật quần xã. Toàn bộ động lực của anh ta cũng trở thành sơ khai như một thái độ sản sinh từ sự bức bách. Vì vậy, thật dễ hiểu khi các nhà phân tâm học trong số những đồng nghiệp ở cùng trại tập trung với tôi đã nói theo thuật ngữ của riêng họ rằng đây là một “sự hồi quy”: hồi quy có nghĩa là sự rút lui của tinh thần về các giai đoạn nguyên sơ hơn của thôi thúc có tính động vật.

Trên thực tế, bằng cách quan sát các giấc mơ điển hình của tù nhân, có thể xác định được những mong muốn ban sơ, thầm kín bên trong họ. Vậy những người trong trại tập trung chủ yếu mơ thấy gì? Luôn là những thứ giống nhau: bánh mì, thuốc lá, cà phê xay tử tế và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, một bồn tắm ấm cúng trang nhã (riêng cá nhân tôi thì luôn mơ về một món bánh quy đặc biệt).

Tuy nhiên, ý kiến từ các đồng nghiệp của tôi – vốn có khuynh hướng phân tâm học phiến diện – là sai về cơ bản. Trải nghiệm trong trại tập trung khiến người ta lâm vào hoàn cảnh khó khăn có tính định mệnh và buộc họ chấp nhận lùi một bước vào bên trong là không đúng. Tôi biết nhiều trường hợp dù là cá biệt nhưng vẫn có giá trị minh chứng cơ bản khi những người liên quan không hề rút lui vào bên trong, đúng hơn là họ đã tiến hành cải tổ bên trong, từ đó vượt lên chính mình và đạt đến tầm vóc vĩ đại thật sự của con người, ngay cả trong trại tập trung và chính là nhờ trải nghiệm ở trại tập trung mà họ được như thế.

Giờ đây, những chuyên gia khác, không phải các nhà phân tâm học, đã có cách diễn giải khác về đời sống tinh thần và tâm thần của những người ở trại tập trung. Giáo sư nhân cách học nổi tiếng [Emil] Utitz, vốn là người đã sống vài năm trong trại tập trung, nghĩ rằng ông quan sát thấy tính cách của các tù nhân trong trại nhìn chung phát triển theo kiểu tâm lý mà Kretschmer1 gọi là triệu chứng rối loạn nhân cách. Triệu chứng này có đặc trưng là người đau khổ dao động giữa một bên là trạng thái thờ ơ và một bên là trạng thái cáu kỉnh, trong khi một dạng khác cũng thuộc vào loại quan trọng nhất thì có đặc trưng là rối loạn lưỡng cực chu kỳ2, một phút trước anh ta còn “hân hoan chốn thiên đường” thì một phút sau đã lại “ở dưới vực sâu tuyệt vọng”3; nói cách khác, anh ta bị cuốn vào một chu kỳ vĩnh viễn giữa vui sướng tột độ và buồn bã tột cùng. Đây không phải là lúc để đi sâu vào thảo luận có tính chuyên môn về góc nhìn bệnh học của triệu chứng này. Tôi muốn giới hạn bản thân trong một số điều cơ bản quan trọng và đây là kết luận tôi đã rút ra được từ cùng nguồn “nguyên liệu” quan sát thực tế, nhưng lại trái ngược với Utitz: cụ thể là một người trong trại tập trung không hề chịu sự thúc ép từ bất kỳ tác nhân bên ngoài nào điều khiển quá trình phát triển nội tại của anh ta về hướng anh trở thành một “KZler4 [tù nhân trại tập trung] điển hình” với những khuynh hướng rối loạn nhân cách (rõ ràng) ấy, thay vào đó anh còn giữ được sự tự do của con người để thích ứng với số phận, hoàn cảnh, bằng cách này hay cách khác – và quả thật là phải có “một cách nào đó”! Chẳng hạn, có những người trong trại tập trung đã vượt qua được sự thờ ơ và kiềm chế thành công cơn cáu kỉnh của bản thân, cuối cùng vấn đề là làm sao để khơi gợi khả năng “hành động khác đi” của họ chứ không đơn thuần chỉ là sự ép buộc phải “làm mọi thứ theo cách này”! Khả năng bên trong ấy, sự tự do thật sự của con người – không thể bị tước đoạt khỏi người tù, ngay cả khi ở trong môi trường này, mọi thứ khác thuộc về anh ta đã bị lột sạch, và trên thực tế là như vậy. Sự tự do này ở lại với anh ta, ngay cả khi chiếc kính mà họ để anh ta giữ bị đập tan tành sau một cú đấm thẳng vào mặt, và kể cả khi một ngày nọ anh buộc phải đổi chiếc thắt lưng lấy một mẩu bánh mì, để rồi rốt cuộc một vài đồ vật sau cùng anh được sở hữu cũng chẳng còn lại gì – nhưng sự tự do đó thì vẫn ngụ bên trong anh và ở lại với anh đến tận hơi thở cuối cùng!

Chú thích:

1 Ernst Kretschmer (1888 - 1964): Bác sĩ tâm thần người Đức, ông đã phân loại con người theo cấu tạo cơ thể rồi liên kết những kiểu người này với các đặc điểm tính cách và bệnh tâm thần.

2 Rối loạn lưỡng cực chu kỳ: Còn được gọi là cyclothymia, là một triệu chứng rối loạn cảm xúc tương tự như (nhưng thường nhẹ hơn) rối loạn lưỡng cực.

3 “Himmelhoch jauchzend, zum Tode betrübt” (hân hoan chốn thiên đường, hoặc ở dưới vực sâu tuyệt vọng) từ vở kịch Egmont (1788) của Goethe đã trở thành một câu nói thông thường của người Đức.

4 Kzler: Viết tắt của cụm từ tiếng Đức “Konzentrationslager für Zivilpersonen”.

Ngay cả khi một người sa vào những hành vi tâm lý thường gặp ở trại tập trung, anh ta vẫn có quyền tự do thoát khỏi sức mạnh và ảnh hưởng của môi trường đó, không bị chi phối bởi những quy tắc mà có thể chống lại, khước từ thay vì tuân theo một cách mù quáng. Nói cách khác, người đó đã từng sở hữu thứ tự do như vậy; nhưng anh ta lại bỏ nó đi, tự nguyện từ bỏ việc sử dụng thứ tự do ấy! Nhưng khi làm như vậy, anh ta đã từ bỏ chính mình, từ bỏ bản ngã của mình, cái cốt lõi nhất trong con người anh. Về mặt tinh thần, anh đã để mình gục ngã.

Nhưng bây giờ chúng ta cần phải đặt câu hỏi rằng sự suy thoái này bắt đầu từ khi nào, khi nào người này cho phép mình sa sút về mặt tinh thần, và câu trả lời của chúng ta hẳn là: khi anh ta đã mất đi điểm tựa nội tại – ngay khi anh ta không còn một nội tại để làm điểm tựa nữa! Điểm tựa có thể tồn tại dưới hai hình thức: hoặc là điểm tựa tương lai hoặc là điểm tựa vĩnh cửu. Cái gọi là điểm tựa vĩnh cửu là trường hợp áp dụng với tất cả những người mộ đạo thực thụ; họ thậm chí chẳng cần điểm tựa tương lai, tương lai của họ ở ngoài kia, trong thế giới tự do, sau khi họ được giải phóng – những người này có thể duy trì sự chính trực, bất chấp họ có dự đoán được định mệnh tương lai hay không, hoặc kể cả khi phải trải qua một tương lai sống trong trại tập trung. Tuy nhiên, những người khác lại bị buộc phải tìm kiếm một điểm tựa cho cuộc sống tương lai, cho sự mãn nguyện về cuộc sống của họ trong tương lai. Nhưng thật khó để họ nghĩ về tương lai khi không thể tìm thấy điểm tham chiếu, điểm kết thúc, – một điểm kết thúc, vốn là thứ không thể thấy trước. Đối với chúng tôi, một tên tội phạm nguy hiểm biết được chính xác hắn phải thụ án mười năm là việc đáng đố kỵ biết bao, hắn có thể đếm bao nhiêu ngày còn lại cho đến thời hạn được thả ra… thật là một người đàn ông may mắn! Bởi vì tất cả chúng tôi trong trại đều không có và không biết “ngày phóng thích” và không một ai trong chúng tôi biết khi nào hồi kết sẽ đến. Theo ý kiến thống nhất của các bạn tù, đây có lẽ là một trong những thực tế chán chường nhất về đời sống tinh thần trong trại! Và những tin đồn lặp đi lặp lại về một kết thúc gần kề của cuộc chiến tranh chỉ làm tăng thêm nỗi day dứt đợi chờ. Bởi hết lần này đến lần khác, thời hạn cuối lại bị trì hoãn. Nhưng ai có thể tin tưởng một cách mê đắm vào những tin tức như thế? Trong suốt ba năm tôi cứ nghe đi nghe lại: trong vòng sáu tuần nữa cuộc chiến sẽ kết thúc, tối đa là trong sáu tuần nữa chúng ta sẽ được về nhà. Sự thất vọng trở nên cay đắng hơn và sâu sắc hơn, nỗi trông mong trở nên đáng sợ hơn bao giờ hết. Và Kinh Thánh nói gì trong trường hợp này? “Sự hy vọng bị trì hoãn khiến trái tim lâm bệnh1”. Quả nhiên, trái tim đã mắc bệnh, bệnh nặng đến nỗi cuối cùng phải ngừng đập. Bạn sẽ hiểu được chuyện này khi nghe câu chuyện sau đây: vào đầu tháng Ba năm ngoái, một người lớn tuổi hơn ở trong phân khu cũ của tôi, một nhà soạn nhạc tango ở Budapest làm công việc viết lời cho những vở opera quy mô nhỏ, đã kể với tôi rằng ông có một giấc mơ kỳ lạ: “Vào giữa tháng Hai tôi đã nằm mơ”, ông nói, “có một giọng nói cất lời và bảo rằng tôi có thể ước một điều, hoặc hỏi điều gì đó tôi muốn biết; giọng nói sẽ có thể trả lời câu hỏi, có thể dự đoán tương lai của tôi. Thế là tôi hỏi: ‘khi nào trận chiến sẽ kết thúc với tôi, ngài có biết không? Khi nào quân đội Mỹ sẽ tiến tới giải phóng chúng tôi?’. Thế là giọng nói đó hướng về phía tôi, thì thầm bí mật bên tai tôi: ‘Ngày 30 tháng Ba!’”. Vào giữa tháng Ba, tôi được chuyển vào bệnh xá vì bị sốt phát ban. Đến ngày 1 tháng Tư tôi mới ra khỏi đó và quay về túp lều đất quen thuộc: “Ông già ở khu này đâu rồi?” – tôi tự hỏi, và rồi phát hiện ra điều gì? Đến cuối tháng Ba, khi cái ngày mà giọng nói trong giấc mơ của ông dự báo đến gần hơn bao giờ hết mà tình hình quân đội dường như vẫn chẳng thay đổi, người đàn ông có tuổi trong phân khu của chúng tôi trở nên ngày càng tuyệt vọng. Ngày 29 tháng Ba, ông bắt đầu sốt cao. Ngày 30 tháng Ba là ngày trận chiến kết thúc “với ông”, ông mất ý thức. Ngày 31 tháng Ba, ông qua đời. Ông đã chết vì bệnh sốt phát ban.

Chú thích:

1 Châm ngôn, 13:12.

Vậy là, bạn có thể thấy rằng sự sa sút về tinh thần do mất đi điểm tựa bên trong của một người, đặc biệt là do mất đi điểm tựa trong tương lai, cũng dẫn đến sự sa sút về thể chất. Bây giờ ta hãy hỏi bản thân liệu có bất cứ một phương pháp chữa trị nào cho hiện tượng sa sút về mặt tâm thần, tinh thần và thể chất này hay không: liệu người ta có thể làm bất kỳ điều gì để thay đổi không và nếu có thì đó là gì?

Tôi chỉ có thể đưa cho bạn câu trả lời này: có một liệu pháp, nhưng rõ ràng là ngay từ đầu ta đã giới hạn trong phạm vi tâm lý học, vậy nên nó chỉ có thể là một liệu pháp tâm lý. Và trong liệu pháp tâm lý như thế này, tất nhiên vấn đề chủ yếu là cung cấp một điểm tựa về mặt tinh thần khiến người bệnh cảm thấy cuộc sống thoải mái. Hãy xem xét lời của Nietzsche, ông đã từng nói: “Bất cứ ai có được một lý do phải sống thì có thể chịu đựng hầu như bất kỳ hoàn cảnh nào” – một “lý do” – đây là một phần của sự thỏa nguyện trong cuộc sống; và “hoàn cảnh nào” – đây là những điều kiện sống đã khiến cho cuộc sống trong trại tập trung trở nên khó khăn đến nỗi chỉ có thể chịu đựng được khi có một “lý do”, một cái cớ. Vì thế, nếu không có gì khác ngoài liệu pháp tâm lý có thể kích hoạt được khả năng chịu đựng của con người trong trại tập trung, thì liệu pháp tâm lý này cũng đã được xác định theo một nghĩa nhất định, bởi vì nó cần nỗ lực thuyết phục người bị tra vấn phải cố gắng gom góp ý chí sinh tồn, rằng việc sinh tồn này là có ý nghĩa. Ngoài ra, nhiệm vụ trị liệu tâm lý trong trại thật sự là nhiệm vụ chăm sóc tâm hồn cho tù nhân, vốn càng trở nên khó khăn hơn vì chúng ta đang đối mặt với những người không còn niềm tin vào việc sống sót! Bạn có thể nói gì với họ? Người ta lẽ ra nên nói với họ điều gì đó đặc biệt. Do đó, tình huống này trở thành một thí nghiệm quyết định1 đối với liệu pháp tâm lý ấy.

Chú thích:

1 Experimentum crucis hay crucial experiment là một thí nghiệm để chứng minh rằng một giả thuyết cụ thể là đúng đồng thời loại bỏ mọi giả thuyết còn lại.

Tôi đã từng nói trong bài giảng trước rằng không chỉ bản thân cuộc sống mà cả những đau khổ liên quan cũng đều có ý nghĩa, và thực tế là ý nghĩa này tuyệt đối đến nỗi nó vẫn được trọn vẹn cả trong những trường hợp đau khổ không dẫn đến kết quả thành công bên ngoài, trong những trường hợp mà đau khổ dường như hóa vô ích. Phần lớn những đau khổ như thế là thứ ta phải đối mặt trong trại tập trung; nhưng tôi phải nói điều gì với những người nằm bên cạnh mình trong trại, những người biết khá chính xác rằng họ sẽ chết và sẽ chết sớm chừng nào? Họ cũng biết rõ như tôi rằng không có cuộc đời nào, không con người nào và không có nhiệm vụ nào (hãy nhớ hai trường hợp mà tôi đã kể với bạn trong bài giảng đầu tiên1) chờ đợi họ, hoặc đó sẽ là sự chờ đợi vô vọng… Vậy là, cũng giống như ý nghĩa của cuộc sống, của sinh tồn, việc chỉ ra ý nghĩa của sự đau khổ và đau khổ trong vô vọng cũng quan trọng – rõ ràng là còn quan trọng nhiều hơn: thậm chí qua đó ta còn có thể khám phá ra ý nghĩa ngầm ẩn trong cái chết! Tất nhiên, một cái chết có thể mang nhiều ý nghĩa hơn khi nhìn qua lăng kính từ câu châm ngôn của Rilke mà chúng ta đã đề cập đến ở bài diễn thuyết trước đó, câu châm ngôn nói rằng mỗi người nên chết theo cách của riêng mình. Điều cốt lõi là chúng ta nên lìa đời bằng cái chết của chính mình, không phải là cái chết mà lính SS áp đặt lên ta! Ta đảm trách nhiệm vụ này cũng giống như việc ta chịu trách nhiệm đối với nhiệm vụ cuộc đời. Trách nhiệm? Với ai, với người nào có thẩm quyền cao hơn? Và ai có quyền trả lời câu hỏi này cho người khác? Phải chăng mỗi người phải tự quyết định về câu hỏi tối hậu này? Sẽ ra sao nếu một người trong trại cảm thấy có trách nhiệm với lương tâm của mình và người khác cảm thấy có trách nhiệm với Chúa của anh ta, người khác nữa thì lại cảm thấy có trách nhiệm với một người giờ đã ở nơi rất xa? Mỗi người trong số họ đều biết rằng bằng cách nào đó, ở một nơi nào đó, một ai đó đang ở đấy, vô hình, dõi theo anh ta, yêu cầu anh hãy “xứng đáng với những khổ đau của anh”, như Dostoevsky đã từng thổ lộ và trông mong rằng ông nên “chết theo cách của riêng mình”. Mỗi chúng ta đều cảm nhận được kỳ vọng đó vào thời khắc cái chết cận kề và ta càng cảm nhận được điều đó thì ta càng ít cảm thấy rằng bản thân vẫn còn có thể mong đợi bất cứ điều gì từ cuộc sống, rằng ai đó hoặc điều gì đó vẫn đang chờ đợi ta, và rằng ta vẫn mong được tồn tại.

Chú thích:

1 Xem trang 34.

Nhiều người trong số các bạn chưa từng sống trong trại tập trung sẽ kinh ngạc hỏi tôi rằng làm sao một người có thể chịu đựng tất thảy những chuyện tôi đang đề cập. Tôi bảo đảm với các bạn, chính người đã vượt qua và sống sót sau tất cả những trải nghiệm đó thậm chí còn thấy kinh ngạc hơn! Nhưng đừng quên điều này: tâm lý con người hành động theo cơ chế có phần tương tự một mái vòm uốn cong: một vòng cung đang dần xiêu vẹo lại có thể cứng cáp bằng cách chất thêm gánh nặng bên trên. Tâm lý con người dường như cũng thêm vững chãi thông qua gánh nặng họ phải chịu đựng (tối thiểu ở một mức độ cụ thể và trong những giới hạn nhất định). Đó là quá trình đã diễn ra, và đó cũng là cơ chế duy nhất ta có thể hiểu được, nhiều người yếu đuối đã có thể rời khỏi trại tập trung trong một tâm thế vững vàng hơn, mạnh mẽ hơn chính con người họ trước khi vào trại. Tuy nhiên giờ đây chúng ta đồng thời hiểu rằng việc trả tự do, phóng thích khỏi trại, việc đột ngột giải phóng áp lực dữ dội mà người tù phải chịu đựng trong suốt thời gian qua, hóa ra lại gây nguy hiểm cho tinh thần của anh ta. Tôi sử dụng bệnh khí ép, hay còn gọi là bệnh giảm áp, để so sánh trong ngữ cảnh này. Căn bệnh này tác động đến những thợ lặn làm việc dưới nước, phải chịu áp suất không khí cao, họ không bao giờ được đột ngột quay trở lại áp suất không khí bình thường, mà chỉ có thể từ từ chuyển đổi, bởi vì nếu không họ sẽ phải chịu đựng những hậu quả nghiêm trọng nhất về thể chất.

Tuy nhiên, điều này cũng đã được dự đoán trước trong thảo luận của chúng ta về giai đoạn thứ ba – cũng là giai đoạn cuối cùng – trong tâm lý ở trại tập trung, giai đoạn tâm lý khi người tù được trả tự do. Điều quan trọng nhất mà tôi muốn nói liên quan đến người tù sẽ là một điều chắc chắn khiến các bạn hết sức kinh ngạc: sự thật là người được trả tự do phải mất nhiều ngày mới có thể tận hưởng cảm giác tự do. Anh ta phải thật sự học lại cách cảm nhận hạnh phúc theo đúng nghĩa đen. Đôi lúc, anh phải gấp rút học điều ấy, bởi vì thông thường anh sẽ lại cần sớm quên đi điều đã học và phải học cách chịu đựng lần nữa. Bây giờ, tôi muốn nói một chút về trạng thái ấy.

Hãy hình dung một người được phóng thích khỏi trại tập trung và trở về nhà. Lúc ấy, anh có thể bắt gặp vài cái nhún vai. Nhưng trên hết, anh sẽ luôn phải nghe những người khác nói hai câu quen thuộc như sau: “Chúng tôi không biết gì về việc đó” và “Chúng tôi cũng đã phải chịu đựng”. Chúng ta hãy bắt đầu từ câu tuyên bố thứ hai và trước hết hãy hỏi bản thân rằng liệu sự đau khổ của con người có thể được đo lường hay định giá theo cách so sánh với sự đau khổ của người khác hay không. Và tôi muốn nói rằng sự đau khổ của con người là không thể so sánh được! Nỗi đau đích thực khiến một con người trở nên trọn vẹn, lấp đầy toàn bộ bản thể của người ấy.

Tôi đã từng nói chuyện với một người bạn về những trải nghiệm của tôi trong trại tập trung; bản thân anh ấy chưa từng ở trại, khi đó anh “chỉ đơn thuần” đang chiến đấu ở Stalingrad. Và anh ấy nói cảm thấy có chút gì đó xấu hổ khi so sánh với tôi. Anh ấy không cần phải cảm thấy như thế. Quả là có sự khác biệt cốt lõi giữa trải nghiệm của một người ở chiến trường và một người trong trại tập trung. Trên chiến trường, anh đối mặt với hư vô, trực diện nhìn thẳng vào cái chết; nhưng trong trại tập trung, bản thân chúng tôi lại là hư vô, chúng tôi đã chết khi còn đang sống. Chúng tôi chẳng có giá trị gì. Chúng tôi không chỉ nhìn thấy cái hư vô, mà chính bản chất chúng tôi là hư vô. Chẳng hề có vầng hào quang nào, dù chỉ là trong ý niệm, xung quanh cái chết của chúng tôi. Đó chỉ là sự ra đi của một cái hư vô bé mọn vào cái hư vô bất tận. Cái chết này hầu như cũng không hề được chú ý. Chúng tôi đã “thôi sống” từ trước đó rất lâu rồi!

Và điều gì sẽ xảy ra nếu tôi chết trong trại? Trên sân tập trung vào sáng hôm sau, một người nào đó trong hàng năm người, đứng bất động như thường lệ khi vùi đầu vào cổ áo choàng được banh rộng ra để chống lại cái giá rét, hai vai co rúm – anh ta lầm bầm với người đứng bên cạnh: “Frankl đã chết ngày hôm qua”; và cùng lắm thì người đó cũng chỉ thì thầm đáp lại bằng một tiếng ừ hử.

Dù sao thì cũng không có nỗi đau khổ nào của con người có thể so sánh được với nỗi đau khổ của bất kỳ ai khác, bởi vì một phần bản chất của đau khổ là thuộc về một con người cụ thể, đó là đau khổ của riêng anh ấy hay cô ấy – mà “trọng lượng” của nỗi đau chỉ phụ thuộc vào chính người đang đau khổ, đó là vấn đề của người ấy; nỗi đau khổ đơn độc của một người cũng có tính độc nhất và cá nhân như chính mỗi con người.

Do đó, nếu nói về sự khác biệt trong mức độ nghiêm trọng của nỗi đau khổ thì thật vô nghĩa; điều thật sự quan trọng là khác biệt giữa nỗi đau khổ có ý nghĩa và nỗi đau khổ vô nghĩa. Tuy nhiên, tôi nghĩ các bạn đã hiểu vấn đề này đủ cặn kẽ từ những bài diễn thuyết trước – sự khác biệt này phụ thuộc hoàn toàn vào cá nhân mỗi con người: chỉ mỗi cá nhân đó quyết định được rằng liệu đau khổ của mình là có ý nghĩa hay không. Vậy thì nỗi đau khổ của những con người đã tuyên bố rất hùng hồn rằng họ “cũng chịu đau khổ” và họ đã “không biết gì” là như thế nào? Theo ý kiến của tôi, chính khẳng định không biết gì đã khiến cho thực tế chịu đựng đau khổ thành ra vô nghĩa. Tại sao? Bởi vì nó xuất phát từ ngộ nhận về mặt đạo đức của tình huống. Một ngộ nhận mà bây giờ ta sẽ chỉ ra, không phải vì tôi muốn đưa chính trị thời nay vào cuộc tranh luận, mà bởi vì tôi nghĩ rằng cần phải bổ sung cho “cái siêu hình của cuộc sống thường nhật” mà đến nay ta vẫn quan tâm, bằng cách thêm vào một tiêu chuẩn “đạo đức của cuộc sống thường nhật”.

Trước đó, ta đã nói về lý do của việc không biết, và cho rằng đó là do ngộ nhận; nhưng nếu ta tự vấn về nguyên nhân của sự ngộ nhận này, ta có thể phát hiện rằng việc “không biết” ấy thực tế là “không muốn biết”. Lý do ẩn đằng sau là cảm giác muốn trốn tránh trách nhiệm. Tuy nhiên, thực tế là ngày nay người bình thường đang bị dồn vào thế phải trốn tránh trách nhiệm. Điều thúc đẩy anh ta chọn cách chạy trốn là nỗi sợ phải thừa nhận tội lỗi tập thể. Anh ta sẽ bị khép mọi tội danh, bị cho là đồng lõa với những việc chính anh không làm; quả thực, nhiều trường hợp cho thấy, anh ta thật sự “không biết” nhiều chuyện trong số đó. Liệu người tử tế có thật sự phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của người khác, ngay cả khi người phạm tội thuộc cùng một quốc gia? Liệu chẳng phải chính người tử tế ấy cũng là nạn nhân của một hành vi tội lỗi, đối tượng của một vụ khủng bố do tầng lớp cai trị, lãnh đạo của chính dân tộc anh thực hiện mà anh không thể đứng lên chống lại? Chẳng phải chính anh cũng đang tự chịu đau khổ đó sao? Liệu việc hình thành mặc cảm tập thể có phải là sự phát lại chính xác thế giới quan mà chúng ta muốn chống lại? Cái thế giới quan kết tội một cá nhân bởi vì những người khác tình cờ thuộc cùng một nhóm với anh ta bị cáo buộc (hay thật sự) phạm phải một hành vi tội lỗi nào đó. Và, sau cùng, quan điểm này có vẻ lố bịch làm sao với chúng ta của hiện tại! Với chúng ta ngày nay, bắt một người phải giải trình chỉ vì quốc tịch, bản ngữ, hay quê quán của họ dường như cũng nhảm nhí như bắt họ chịu trách nhiệm vì chiều cao của mình. Nếu một tên tội phạm cao 1,64 mét bị bắt giữ, chẳng lẽ tôi cũng phải bị treo cổ chỉ vì tình cờ có chiều cao giống như thế?

Nhưng ở đây có một khác biệt quan trọng mà ta phải phân định giữa tội lỗi tập thể và trách nhiệm tập thể. Nếu tôi minh họa bằng một ví dụ ngụ ngôn bạn sẽ hiểu ngay lập tức. Giả sử, tôi đột nhiên bị viêm ruột thừa, đó có phải là lỗi của tôi không? Chắc chắn không, tuy nhiên, tôi phải phẫu thuật, và sau đó? Tôi phải trả phí cho bác sĩ đã phẫu thuật giúp tôi. Vậy là, tôi phải “chịu trách nhiệm” thanh toán hóa đơn của bác sĩ. Vì vậy, chắc chắn có tồn tại trường hợp “trách nhiệm không phát sinh từ tội lỗi”. Tập thể cộng đồng được giải thoát sau một cuộc khủng bố cũng là tình huống tương tự. Họ không thể tự giải phóng chính mình; những tập thể khác, những quốc gia yêu tự do khác phải xông vào, tham chiến và hy sinh những người tuổi trẻ, ưu tú nhất của họ để giải phóng một quốc gia không có quyền lực chống lại chính sách lãnh đạo từ những nhà cầm quyền. Sự bất lực này không liên quan gì đến tội lỗi. Nhưng liệu có bất công, phi lý không khi phải trả giá cho sự giải thoát này bằng một hy sinh nào đó và cảm thấy mình phải chịu trách nhiệm liên đới, ngay cả khi bạn không đồng lõa và biết mình không có tội?

Nếu bạn muốn hiểu giai đoạn cuối cùng của tiến trình tâm lý này, bạn phải đi cùng tôi vào buổi hoàng hôn của một chiều ngày xuân năm ngoái, sau khi trại tập trung Türkheim được giải phóng, lúc ấy tôi đi một mình vào khu rừng gần trại. Ở đó, những đồng đội đã chết trong trại được chôn cất theo mệnh lệnh cực kỳ bất hợp pháp từ người chỉ huy trại của chúng tôi (người chỉ huy là lính SS mà tôi từng đề cập trong bài diễn thuyết đầu tiên, ông đã tự rút hầu bao trả tiền thuốc men cho các tù nhân trong trại “của ông”). Trái với mệnh lệnh mà người đàn ông này đã nhận được, trong quá trình chôn cất, ông không hề cẩu thả mà luôn đảm bảo rằng tên của những người đã chết được viết một cách kín đáo, dẫu vội vàng – khi loại bỏ lớp vỏ màu xám khô trên thân linh sam non mảnh mai đứng đằng sau khu mộ tập thể sẽ thấy tên của những người đã chết được khắc thành đường nét không thể bôi xóa được. Nếu ở cùng tôi lúc đó, bạn hẳn sẽ phải tuyên thệ cùng tôi rằng cuộc sống tiếp diễn của những người sống sót như chúng tôi sẽ xóa bỏ tội lỗi của tất cả chúng ta – phải, tội lỗi của tất cả chúng ta! Bởi vì những người sống sót biết rất rõ rằng những người ưu tú nhất trong số chúng ta đã không thể thoát khỏi trại, chính những người ưu tú nhất đã không thể trở về! Vì vậy, ta phải thấy rằng sự sống sót của mình chỉ là thứ ân huệ không xứng đáng được hưởng chứ chẳng phải bất kỳ điều gì khác hơn. Việc ta hồi tưởng lại để rồi nhận ra mình có thứ ân huệ này và thấy chỉ xứng đáng với ân huệ ấy một cách nửa vời khiến ta cảm giác mắc nợ những đồng đội quá cố. Dường như chỉ có thể làm dịu cảm giác tội lỗi này bằng cách lay chuyển và không ngừng cảnh giác cho lương tâm của người khác cũng như của chính chúng ta.

Thực tế chứng minh rằng khi người đàn ông tự do trở về nhà sau một trải nghiệm như thế, anh ta thường quên đi lời thề đó. Tuy nhiên, có những khoảnh khắc anh thực hiện những điều đã từng hứa với chính mình, và đó là những khoảnh khắc vô cùng quan trọng: cảm tạ mẩu bánh mì nhỏ nhoi, cảm tạ việc có thể ngủ trên giường mà không phải đứng điểm danh hay sống trong mối đe dọa thường trực của cái chết. Mọi thứ trở nên có tính tương đối với anh, kể cả bất hạnh. Như chúng ta đã từng nói, một người trở thành con số không sẽ cảm thấy tái sinh theo nghĩa chính xác của từ này, nhưng không phải tái sinh về con người cũ mà tái sinh thành bản chất cốt lõi của anh ấy. Trong bài diễn thuyết đầu tiên, tôi đã chỉ ra rằng mọi thứ xa lạ với con người anh ấy đều bị “nung chảy”. Không còn nhiều tham vọng của anh còn sót lại. Những gì còn tồn tại có lẽ cùng lắm chỉ là một khao khát hoàn thiện con người: đây là một hình thức khao khát cao hơn nhiều, là thôi thúc thấu tỏ và hoàn thiện bản thân – chỉ là nó nằm trong hình thái cơ bản nhất.

Không nghi ngờ gì nữa, có lẽ các bạn đã nhận thấy rằng chúng ta đã đi đến đích cuối cùng cũng như đến giới hạn của chủ đề thảo luận này. Không một phát ngôn, không một bài diễn thuyết nào có thể giúp ta đi xa hơn nữa – chỉ còn lại duy nhất một việc ta phải làm: đó là hành động, cụ thể là hành động trong cuộc sống thường nhật.

Chúng ta đang nói về cuộc sống thường nhật, thật vậy, ngay cả khi cụm từ “cái siêu hình của cuộc sống thường nhật” lập tức bật ra trong đầu. Tôi hy vọng rằng bây giờ bạn đã hiểu đúng cách diễn đạt này: nó không đủ để làm sáng tỏ những điều diễn ra hằng ngày – thứ dường như chỉ mang màu xám, tầm thường và vô vị – để ta có thể từ đó nhìn vào cái vĩnh hằng; nhưng trong phân tích cuối cùng, cần phải chỉ ra rằng cái vĩnh hằng lại gợi nhắc về tính hữu hạn – tính hữu hạn, tính thường nhật và điểm giao không ngừng vận động giữa cái hữu hạn và cái vô hạn. Những gì ta tạo ra, trải nghiệm và chịu đựng trong kiếp này, ta cũng tạo ra, trải nghiệm và chịu đựng trong muôn kiếp. Chừng nào ta chịu trách nhiệm cho một sự kiện nào đó, chừng nào nó là “lịch sử”, chừng đó trách nhiệm của chúng ta sẽ trở nên nặng nề bởi thực tế rằng một khi điều gì đó đã xảy ra thì không thể “biến mất khỏi thế giới”.

Tuy nhiên, đồng thời, một yêu cầu bức bách cũng từ đó mà hình thành cho trách nhiệm của chúng ta – cụ thể là khiến những điều chưa từng xảy ra được bước vào thế giới này! Và mỗi chúng ta phải làm điều này giống như một phần công việc hằng ngày, một phần đời sống hằng ngày của mình. Và đời sống hằng ngày lại trở thành hiện thực của chính nó, thứ hiện thực này trở thành tiềm năng cho hành động. Vậy là cụm từ “cái siêu hình của cuộc sống thường nhật” vốn dĩ lúc đầu chỉ hướng ta ra khỏi cuộc sống thường nhật, nhưng rồi sau đó lại cố ý và đầy tính trách nhiệm hướng ta quay về cuộc sống thường nhật.

Điều khiến ta hướng về phía trước và trợ giúp ta trong suốt quãng đường, điều đã từng và vẫn đang dẫn lối cho ta, chính là niềm vui nhận lãnh trách nhiệm. Nhưng một người bình thường sẽ hạnh phúc khi nhận lãnh trách nhiệm đến mức độ nào?

Trách nhiệm là một điều gì đó mà người ta vừa bị “thu hút” vừa muốn “trốn tránh”. Sự minh triết trong cách diễn đạt này ngụ ý rằng có những lực chống đối trong con người ngăn cản họ nhận trách nhiệm. Và quả thực, nói về trách nhiệm, có điều gì đó khó thông thấu: ta càng dành nhiều thời gian xem xét kỹ lưỡng thì càng nhận thức rõ về nó, cho đến khi cuối cùng một cảm giác gần như choáng váng chiếm lĩnh ta; nếu đào sâu vào bản chất của trách nhiệm con người, ta giật mình nhận ra rằng: trách nhiệm của một người là thứ gì đó vừa khủng khiếp đồng thời vừa vinh quang!

Thật khủng khiếp khi biết rằng trong mọi khoảnh khắc tôi đều chịu trách nhiệm cho khoảnh khắc tiếp theo; rằng từng quyết định, từ nhỏ nhất cho đến lớn nhất, đều là một quyết định “muôn đời”; rằng trong từng khoảnh khắc tôi đều có thể hiện thực hóa khả năng của khoảnh khắc cá biệt hoặc đánh mất nó. Từng khoảnh khắc đơn lẻ đều dung chứa hàng ngàn khả năng mà tôi thì chỉ có thể lựa chọn một trong số đó để hiện thực hóa. Nhưng bằng việc đưa ra quyết định, tôi đã kết án những khả năng còn lại với hình phạt “không bao giờ được tồn tại”, thậm chí bản án này còn là mãi mãi! Nhưng thật tuyệt vời khi biết rằng tương lai, tương lai của chính tôi và cùng với đó là tương lai của những điều, những người xung quanh tôi, bằng cách nào đó – dù ở một mức độ rất nhỏ – phụ thuộc vào quyết định của tôi trong từng khoảnh khắc. Mọi thứ tôi biến thành hiện thực, hoặc “đem vào thế giới”, như ta đã nói, tôi đều lưu vào hiện thực và nhờ vậy mà bảo vệ tất thảy tránh khỏi tính nhất thời.

Nhưng nói chung, mọi người đều quá chậm chạp trong việc nhận lãnh trách nhiệm. Đó là điểm khởi nguồn cho giáo dục về trách nhiệm. Gánh nặng chắc chắn không vừa. Thật khó khăn khi ta không chỉ dừng lại ở việc nhận thức trách nhiệm mà còn phải có sự dấn thân để luôn nói có với trách nhiệm và với cuộc đời. Nhưng đã có những người nói có bất chấp mọi khó khăn. Khi những tù nhân ở trại tập trung Buchenwald cất vang bài hát yêu thích, We still want to say yes to life (tạm dịch: Chúng tôi vẫn tin yêu cuộc đời), họ không chỉ hát về điều ấy, họ còn đạt được điều ấy rất nhiều lần – họ và nhiều người trong số chúng tôi ở những trại khác cũng như thế. Và họ đã đạt được điều đó dưới những hoàn cảnh không thốt nổi nên lời, những hoàn cảnh ngoại tại và nội tại mà chúng ta đã nói quá đủ trong ngày hôm nay. Vậy tại sao tất cả chúng ta không thể đạt được điều đó vào ngày nay, dù rằng ta đang ở trong hoàn cảnh êm ái không gì sánh được? Việc tin yêu cuộc sống không chỉ có ý nghĩa trong mọi hoàn cảnh – bởi vì chính cuộc sống đã có ý nghĩa – mà còn khả thi trong mọi hoàn cảnh.

Và cuối cùng, toàn bộ mục đích của ba bài diễn thuyết này là để cho các bạn thấy rằng con người – mặc cho những thử thách cam go và cái chết (bài diễn thuyết đầu tiên), mặc cho nỗi đau khổ từ bệnh thể chất hay tinh thần (bài diễn thuyết thứ hai) hoặc dưới tác động của số phận trong trại tập trung (bài diễn thuyết thứ ba) – vẫn có thể tin yêu cuộc sống, dẫu có thế nào.