Herodotos thành Halikarnassos2 trình ra đây khảo cứu của mình, để những kỳ tích do con người thực hiện không bị lãng quên theo thời gian, và để những công trình vĩ đại và huy hoàng, một số do người Hy Lạp và một số do các man tộc3 sáng tạo, không mất đi danh tiếng của chúng; và nhất là để lưu lại những nguyên nhân gây ra chiến tranh giữa họ.
1. Những người Ba Tư hiểu biết lịch sử tuyên bố rằng người Phoinike đã gây ra mối bất hòa đầu tiên. Theo lời họ, những người này đi từ nơi có tên là biển Erythra4 đến biển chúng ta; và sau khi định cư ở vùng đất mà họ vẫn tiếp tục cư trú đến nay, họ bắt đầu thực hiện những chuyến hải hành dài. Mang theo hàng hóa của Ai Cập và Assyria, họ đi đến những nơi khác và đến cả Argos; lúc bấy giờ, Argos đứng đầu về mọi mặt trong vùng đất hiện nay được gọi là Hy Lạp. Người Phoinike tới vùng đất Argos này, bắt đầu bày bán hàng hóa chở trên thuyền của mình: và đến ngày thứ năm hay thứ sáu kể từ khi họ tới nơi, khi hàng hóa gần như đã được bán hết, có rất nhiều phụ nữ Argos đi xuống bờ biển, trong đó có con gái của nhà vua; tên nàng (cả người Ba Tư và người Hy Lạp đều nhất trí) là Io con gái của Inakhos. Những phụ nữ này đang đứng gần đuôi tàu, chọn mua những món đồ ưng ý nhất, thì đột nhiên đám người Phoinike, kẻ nọ truyền lệnh kẻ kia, ập tới họ; phần lớn những người phụ nữ kịp chạy thoát thân, song Io và một số người khác bị bắt mang đi. Vậy là đám người Phoinike mang họ lên thuyền, rồi lập tức dong buồm đến Ai Cập.
1. Nữ thần lịch sử theo thần thoại Hy Lạp.
Lưu ý: Trong sách này, hầu hết chú thích đều thuộc về người dịch, trừ những chú thích của người biên tập sẽ được ghi rõ (BT).
2. Đô thị Hy Lạp cổ ở vùng Tiểu Á, nay là thành phố Bodrum thuộc Thổ Nhĩ Kỳ.
3. Nguyên văn: Barbaros, chỉ các sắc dân không phải người Hy Lạp. Từ này vốn không có hàm ý miệt thị theo nghĩa bán khai, man rợ, hiếu chiến. Ở đây chúng tôi mạn phép dịch thành “man tộc”. (BT)
4. Tức Hồng Hải.
2. Theo người Ba Tư thuật lại, nàng Io đã tới Ai Cập như thế, hoàn toàn không thống nhất trong chuyện này với người Hy Lạp, và họ cũng nói rằng đây là khởi đầu cho những hành động sai trái. Sau biến cố này, một số người Hy Lạp (người Ba Tư không thể thuật lại tên của họ) tới thành Tyros tại Phoinike và bắt đi công chúa Europe, con gái nhà vua. Những kẻ đó hẳn là người Krete.
Người Ba Tư cho rằng người Hy Lạp đã đòi được món nợ cho sự xúc phạm trước đó. Tuy nhiên, sau đó người Hy Lạp lại là phía gây ra hành động sai trái thứ hai, vì chính họ đã đi thuyền tới Aia thuộc Kolkhis1, tới sông Phasis2 trên một chiến thuyền, rồi từ đó, sau khi đã đạt được những mục đích khác, họ bắt cóc Medeia, con gái của nhà vua. Vua Kolkhis đã phái sứ giả tới đất Hy Lạp đòi bồi thường cho vụ cưỡng đoạt này và đưa con gái ngài về, song những người Hy Lạp trả lời rằng vì man tộc đã không bồi thường cho việc cưỡng đoạt Io người Argos, cho nên họ cũng sẽ không bồi thường cho man tộc trong việc này.
1. Vùng Nam Kavkaz hiện nay.
2. Nay là sông Rioni ở miền tây Gruzia.
3. Người ta kể rằng vào thế hệ kế tiếp, Alexandros1 con trai Priamos, sau khi biết được những chuyện kể trên, đã mong muốn dùng vũ lực cướp lấy một người vợ từ Hy Lạp, hoàn toàn tin chắc anh ta sẽ không phải bồi thường cho việc sai trái này, cũng như những người Hy Lạp chưa trả giá cho tội lỗi của họ. Vậy là anh ta bắt cóc Helene, để rồi những người Hy Lạp quyết định trước hết phái các sứ giả tới đòi nàng cùng với việc bồi thường cho vụ cưỡng đoạt. Và khi họ đưa ra yêu cầu, phía kia liền nhắc lại với họ vụ bắt cóc Medeia, nói rằng người Hy Lạp giờ đây lại đòi hỏi người khác phải bồi thường cho họ, dù chính họ không chịu phạt và cũng không trả người khi người Ba Tư yêu cầu.
1. Trong sử thi Ilias, vị hoàng tử này được gọi là Paris, tuy nhiên không rõ Herodotos lấy tên Alexandros này từ nguồn nào, có thể đã thất truyền, nên các bản dịch cho tới nay đều giữ nguyên tên Alexandros.
4. Cho tới lúc này, không xảy ra thêm việc gì ngoài những vụ bắt cóc phụ nữ từ cả hai phía. Song sau thời điểm này, người Hy Lạp rất đáng trách cứ vì chính họ đã tạo ra tiền lệ chiến tranh đầu tiên, tiến hành viễn chinh tới châu Á trước khi man tộc tấn công châu Âu. Lúc bấy giờ người Ba Tư cho rằng trong quan điểm của họ, cho dù việc dùng vũ lực bắt phụ nữ đi là một hành động sai trái, song việc khao khát báo thù những vụ cưỡng đoạt đó quả là điên rồ, và cách hành xử khôn ngoan là không bận tâm đến chúng; vì hiển nhiên những người phụ nữ sẽ không bao giờ bị đưa đi nếu bản thân họ không ưng thuận.
Người Ba Tư nói rằng họ, nghĩa là người châu Á, đã không coi chuyện phụ nữ của họ bị cướp đi là điều gì to tát, nhưng người Hy Lạp, vì một phụ nữ Lakedaimon, đã tập hợp một đội quân khổng lồ, đến châu Á và hủy diệt vương quốc của Priamos. Và kể từ thời điểm đó, người Ba Tư luôn coi người Hy Lạp là kẻ thù của họ; vì người Ba Tư tuyên bố châu Á và các man tộc sinh sống tại đó thuộc về họ; còn châu Âu và người Hy Lạp được họ coi là tách biệt với họ.
5. Người Ba Tư cho rằng sự thể đã diễn ra như thế vàcoi mối bất hòa của họ với người Hy Lạp bắt nguồn từ việc đánh chiếm Ilion1. Song liên quan đến Io, người Phoinike bất đồng với cách người Ba Tư thuật lại câu chuyện, vì họ phủ nhận việc đã bắt nàng tới Ai Cập bằng vũ lực. Mặt khác, họ kể rằng khi họ lưu lại Argos, nàng có quan hệ gần gũi với thuyền trưởng của họ, đến khi nhận ra mình đã có thai, nàng thấy hổ thẹn nếu phải thú nhận với cha mẹ, vì thế đã tự nguyện đi theo những người Phoinike do sợ bị phát hiện. Đây là những chuyện được người Ba Tư và người Phoinike thuật lại.
1. Tức thành Troia.
Về những sự kiện này, tôi sẽ không nói rằng chúng đã xảy ra thế này hay thế kia, nhưng sau khi nêu đích danh kẻ đầu tiên mà tôi biết đã bắt đầu xúc phạm người Hy Lạp, tôi sẽ đi xa hơn để tường thuật về các đô thị nhỏ cũng như lớn. Vì những đô thị vĩ đại thời xa xưa đều đã trở nên nhỏ bé, trong khi những đô thị vĩ đại vào thời tôi đang sống lại nhỏ bé trước đây. Vì vậy, vốn đã biết rõ sự thịnh vượng của con người không bao giờ trường tồn, tôi sẽ đề cập đến cả hai một cách công bình.
6. Kroisos, con trai của Alyattes, xuất thân là người Lydia và cai trị các dân tộc phía tây sông Halys1; con sông này chảy về phía bắc giữa Syria và Paphlagonia, và đổ ra biển gọi là Euxeinos2. Kroisos là man nhân đầu tiên chúng ta biết đến đã khuất phục một số người Hy Lạp và buộc họ phải cống nạp, trong khi ông cũng thu phục những người khác và kết giao với họ. Những dân tộc mà ông đã khuất phục gồm có người Ionia, người Aiolis, và người Doris sinh sống tại châu Á, và liên minh với người Lakedaimon. Song trước thời Kroisos trị vì, tất cả người Hy Lạp đều tự do; vì cuộc tiến công của người Kimmerioi3 vào Ionia từ trước thời Kroisos không phải là một cuộc chinh phục các đô thị mà chỉ là một cuộc tập kích cướp phá.
1. Ngày nay là sông Kilizirmak, con sông dài nhất Thổ Nhĩ Kỳ ở Tiểu Á.
2. Ngày nay gọi là Hắc Hải.
3. Một tộc người nay cư trú ở vùng Xanthi, Hy Lạp.
7. Bá quyền từng thuộc về các Herakleidai đã chuyển sang gia tộc Mermnadai của Kroisos như sau: Kandaules, được người Hy Lạp gọi là Myrsilos, là tiếm chúa1 Sardis đồng thời là một hậu duệ của Alkaios, con trai Herakles. Agron con trai Ninos, cháu Belos, và chắt Alkaios, là Herakleides đầu tiên làm vua Sardis, còn Kandaules con trai Myrsos là người cuối cùng.
Các vị vua của vùng đất này trước Agron lại là hậu duệ của Lydos con trai Atys. Để vinh danh Lydos, toàn bộ dân tộc trước đây được gọi là người Maiones giờ được gọi là người Lydia. Các Herakleidai, hậu duệ của Herakles và một nữ nô lệ của Iardanos, đã giành được vương quyền từ dòng dõi kể trên nhờ một dự ngôn giả2. Và họ đã cai trị trong 22 thế hệ, 505 năm, cha truyền con nối cho tới thời của Kandaules, con trai Myrsos.
1. Nguyên văn: tyrannos, chỉ người lên nắm quyền cai trị bằng cách phi chính thống. Trong câu này Herodotos dùng từ tiếm chúa với nghĩa vua. Cách dịch truyền thống là bạo chúa không phản ánh nguyên nghĩa của tyrannos, vì với Herodotos có cả những tiếm chúa tốt lẫn xấu. (BT)
2. Nguyên văn: oracle, là người cho lời khuyên hoặc tiên đoán vận mệnh. Thường là một nữ tư tế, có năng lực giao tiếp với thần linh và truyền đạt câu trả lời của vị thần. Trong văn hóa Hy Lạp, dự ngôn giả khác với nhà tiên tri ở chỗ họ trực tiếp nói chuyện với thần linh, trong khi nhà tiên tri diễn giải thông điệp của thần linh qua các dấu hiệu của chim hoặc nội tạng động vật. Nghĩa rộng hơn của oracle bao gồm thần miếu (ngôi đền nơi dự ngôn giả sinh hoạt và trông nom) hoặc thần dụ (lời phán của thần), và sẽ được dịch tương ứng với văn cảnh. (BT)
8. Kandaules yêu say đắm vợ và cho rằng vợ ông đẹp hơn hẳn những phụ nữ khác. Kandaules có thói quen chia sẻ với Gyges, con trai Daskylos (người ông sủng ái nhất trong tất cả tay giáo của mình) những vấn đề hệ trọng nhất, đặc biệt là ca tụng nhan sắc vợ mình. Không lâu sau, theo định mệnh Kandaules sẽ phải gặp tai họa, nhà vua liền nói với Gyges như sau: “Gyges, ta nghĩ là ngươi không tin khi ta kể cho ngươi nghe về nhan sắc của vợ ta, vì quả thực trăm nghe không bằng một thấy: vậy hãy nghĩ cách để ngươi có thể ngắm nàng khỏa thân”. Nhưng Gyges đã kêu lớn lên và nói: “Chủ nhân, người vừa thốt ra những lời thiếu sáng suốt làm sao, lệnh cho thần nhìn nữ chủ nhân khỏa thân ư? Khi một phụ nữ cởi y phục, nàng cũng trút bỏ luôn cả sự nhu mì của mình. Hơn nữa, tiền nhân đã đúc kết những lời dạy tốt đẹp từ xa xưa để chúng ta học lấy sự sáng suốt; và một trong những lời dạy đó là mỗi người nên tự mình nhìn lấy: song thần thực sự tin nàng là người đẹp nhất trong tất cả phụ nữ, và xin người đừng đòi hỏi thần phải làm điều vô phép”.
9. Gyges đã cự tuyệt với những lời lẽ như thế, sợ rằng sẽ có chuyện xấu xảy đến với mình. Kandaules đáp lại như sau: “Hãy can đảm lên Gyges, và chớ sợ hãi ta, rằng ta đang nói những lời này chỉ để thử ngươi; hay vợ ta, rằng sẽ có điều tai hại xảy đến với ngươi từ nàng. Vì ta sẽ thu xếp để ngay từ đầu nàng sẽ không hề biết nàng đã bị ngươi nhìn thấy. Ta sẽ giấu ngươi vào căn phòng nơi chúng ta ngủ, đằng sau cánh cửa mở sẵn; sau khi ta đã vào phòng, vợ ta cũng sẽ đi vào để nằm ngủ. Có một chiếc ghế ở gần cửa phòng, nàng sẽ để y phục lên đó trong khi cởi ra từng chiếc; và như thế ngươi có thể thỏa thích mà ngắm nhìn nàng. Và khi nàng đi từ chỗ chiếc ghế lại giường, ngươi sẽ ở phía sau lưng nàng, việc của ngươi khi ấy là cẩn thận để nàng không trông thấy khi ngươi đi qua cửa ra ngoài”.
10. Sau đó, vì không thể lẩn tránh, Gyges đành đồng ý. Khi đến giờ đi ngủ, Kandaules liền dẫn Gyges vào phòng, ngay sau đó người phụ nữ cũng xuất hiện, Gyges ngắm nhìn khi bà bước vào và cởi bỏ y phục. Khi bà quay lưng về phía anh ta trong lúc đi đến giường, anh ta liền lẻn khỏi chỗ nấp và thoát ra ngoài. Trong lúc anh ta ra ngoài, bà đã phát hiện được; và khi nhận ra những gì chồng mình đã làm, bà không làm ầm lên dù cảm thấy rất nhục nhã, mà coi như không hề biết và dự định sẽ trả thù Kandaules. Vì với người Lydia, cũng như với phần lớn các man tộc khác, bị nhìn thấy khỏa thân là một nỗi nhục ngay cả với đàn ông.
11. Khi đó, bà giữ im lặng như tôi đã kể, và không để lộ dấu hiệu nào; nhưng ngay khi ngày rạng, bà liền chuẩn bị sẵn sàng những người hầu trung thành nhất với mình, sau đó bà cho triệu Gyges tới. Anh ta cứ nghĩ rằng việc đó chưa bị bà phát hiện, tới theo lời triệu vì trước đó đã quen với việc vào diện kiến mỗi lần được cho gọi. Khi Gyges tới nơi, người phụ nữ liền nói với anh ta những lời sau: “Giờ đây có hai con đường cho ngươi, Gyges, và ta cho ngươi quyền lựa chọn con đường ngươi muốn theo. Ngươi phải giết Kandaules và chiếm hữu cả ta cùng vương quốc Lydia, hoặc ngươi sẽ bị giết tại đây ngay lập tức để ngươi sẽ không nhìn lại thứ ngươi không được phép nhìn khi tuân lệnh Kandaules trong mọi việc. Kẻ đã bày ra mưu này hoặc ngươi, kẻ đã nhìn thấy ta khỏa thân và làm cái việc được coi là trái đạo lý, phải chết”. Một hồi lâu sau, Gyges sững sờ trước những lời này, rồi anh ta khẩn cầu bà đừng buộc anh ta phải đưa ra một lựa chọn như thế. Tuy nhiên, sau khi không thể thuyết phục được bà, đồng thời nhận thấy thực tế đòi hỏi bản thân anh ta hoặc phải giết chủ nhân, hoặc chấp nhận chính mình bị người khác giết, anh ta liền chọn được sống. Anh ta đòi hỏi thêm như sau: “Vì nàng đã buộc ta phải giết chủ nhân trái với ý nguyện của ta, hãy cho ta biết cách chúng ta sẽ hạ thủ nhà vua”. Và bà trả lời: “Vụ mưu sát sẽ diễn ra khi ông ta ngủ, tại chính nơi ông ta đã phô bày thân thể ta cho ngươi”.
12. Vậy là sau khi họ đã chuẩn bị cách ra tay, đêm đến (vì Gyges không được phép rời đi, và không còn đường thoát nào cho anh ta ngoài việc phải giết Kandaules hoặc để mình bị giết), anh ta đi theo người phụ nữ vào phòng ngủ. Bà đưa cho anh ta một con dao găm và giấu anh ta đằng chính sau cánh cửa lúc trước. Sau đó, khi Kandaules đang ngủ, Gyges bí mật đến bên cạnh và giết chết nhà vua, vậy là anh ta giành được cả vợ lẫn vương quốc của Kandaules. Arkhilokhos người Paros, một người đương thời với Gyges, cũng nhắc tới sự kiện này trong những câu thơ đoản-trường tam bộ cách1.
13. Vậy là Gyges giành được vương quốc, và quyền lực của ông được xác nhận bởi một dự ngôn giả từ Delphoi2. Vì khi người Lydia phẫn nộ trước số phận của Kandaules và cầm vũ khí nổi dậy, một hiệp ước giữa những người ủng hộ Gyges và những người Lydia còn lại được thảo ra, theo đó nếu dự ngôn giả phán rằng anh ta sẽ làm vua người Lydia, anh ta sẽ lên ngôi; nếu không, anh ta phải trao lại quyền bính cho các Herakleidai. Dự ngôn giả đã phán như vậy, và theo đó Gyges trở thành vua. Thế nhưng nữ tư tế Pythia cũng phán rằng sự báo thù từ các Herakleidai sẽ giáng xuống hậu duệ đời thứ năm của Gyges. Người Lydia và các vị vua của họ không hề để tâm tới lời tiên tri này cho tới khi nó thành hiện thực.
1. Còn gọi là iambic trimeter, một thể thơ gồm ba bộ (foot), mỗi bộ gồm một âm tiết ngắn và một âm tiết dài. (BT)
2. Một thánh địa thời cổ đại ở Hy Lạp, nơi có các nữ tư tế Pythia đưa ra những lời tiên tri cho người tới hỏi. Delphoi nổi tiếng vì những lời tiên tri chính xác.
14. Vậy là các Mermnadai giành được tiếm chúa quyền sau khi đã đoạt nó từ các Herakleidai; và khi trở thành tiếm chúa, Gyges đã dâng không ít lễ vật tới Delphoi. Trên thực tế, đa số lễ vật bằng bạc tại Delphoi đều do Gyges dâng lên. Bên cạnh bạc, nhà vua cũng dâng vô số lễ vật bằng vàng, và đáng chú ý nhất trong số này là sáu bình pha rượu bằng vàng. Chúng nặng 30 talanta1, và chúng hiện nằm trong bảo khố của người Korinthos2 (dù thực ra bảo khố này không phải tài sản công của người Korinthos, mà thuộc về Kypselos, con trai Aetion). Gyges là man nhân đầu tiên mà chúng ta biết đã từng dâng tiến lễ vật tại Delphoi, sau vua Midas xứ Phrygia, người đã dâng chiếc ngai ông ta thường ngồi khi phán xử làm lễ vật, một vật đáng chiêm ngưỡng. Chiếc ngai giờ đây được đặt cạnh những chiếc bình của Gyges. Những lễ vật bằng vàng và bạc do Gyges dâng tiến được người Delphoi gọi là “của Gyges”, theo tên người đã dâng lễ.
1. Đơn vị khối lượng cổ đại, có giá trị tùy vùng. 1 talanton (sn: talata) tương đương khoảng 26 kg.
2. Thành phố cổ Hy Lạp ở bán đảo Peloponnesos.
Ngay sau khi cầm quyền, Gyges cũng dẫn một đạo quân tấn công Miletos1 và Smyrna2, và chiếm thành Kolophon3. Nhưng ông không có thêm chiến công lớn nào nữa trong thời gian trị vì 38 năm của mình, vì thế tôi sẽ kể tiếp, sau khi đã biên chép nhiều như vậy, đề cập đến con trai ông là Ardys, người kế vị ông.
15. Ardys chiếm Priene4 và xâm lược Miletos, và trong thời gian ông trị vì người Kimmerioi, bị người du mục Skythia xua đuổi khỏi nơi định cư, đã tới châu Á và chiếm Sardis ngoại trừ tòa thành.
16. Sau khi làm vua được 49 năm, con trai Ardys là Sadyattes kế vị; và khi đã cai trị trong 12 năm, Alyattes kế vị ông. Nhà vua gây chiến với Kyaxares (cháu trai Deiokes) và người Media5, đồng thời đẩy lui người Kimmerioi khỏi châu Á. Ông cũng chiếm Smyrna, nơi định cư của người Kolophon, và tấn công Klazomenai6, nơi ông không thành công như mong muốn mà lại chịu tổn thất nặng nề. Nhưng trong thời gian trị vì của mình, ông đã làm được những điều xứng đáng được nhắc tới sau đây.
1. Thành phố cổ Hy Lạp nằm ở bờ biển phía tây Tiểu Á, gần cửa sông Maiandros, nay chỉ còn tàn tích.
2. Nay là cảng Izmir thuộc Thổ Nhĩ Kỳ bên bờ biển Aigaion ở Tiểu Á.
3. Thành phố cổ Hy Lạp ở ven biển Aigaion tại Tiểu Á, nay chỉ còn tàn tích.
4. Thành phố cổ Hy Lạp ở Tiểu Á, di tích ngày nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ.
5. Tộc người Iran cổ, sống tại vùng Media ở tây bắc Iran. Trong tác phẩm này, Herodotos thường xuyên dùng cách gọi người Media để chỉ các dân tộc, tộc người sống ở châu Á, nhất là đế chế Ba Tư.
6. Thành phố cổ Hy Lạp, ngày nay là Urla, nằm trên bờ biển vịnh Izmir, Thổ Nhĩ Kỳ.
17. Kế thừa từ cha cuộc chiến với người Miletos, ông xâm lược và vây hãm đô thị của họ theo cách sau đây. Mỗi khi đến kỳ thu hoạch, nhà vua lại hành quân đến Milesia trong tiếng tiêu, đàn hạc và sáo với âm điệu trầm bổng. Khi tới nơi, ông không phá hủy hay phóng hỏa, hoặc giật tung nhà cửa, mà để chúng nguyên vẹn. Tuy nhiên, tất cả cây cối, mùa màng trên vùng đất này nhà vua đều cho hủy hoại, rồi sau đó rời đi theo đúng như cách ông tới. Vì người Miletos nắm quyền kiểm soát biển, nên một cuộc vây hãm từ quân đội Lydia là điều vô ích. Người Lydia tránh phá sập nhà cửa để người Miletos có thể gieo hạt và cày cấy, và nhờ thành quả lao động của họ, ông sẽ có thứ để cướp bóc khi tấn công.
18. Vận dụng chiến thuật này, ông chiến đấu trong 11 năm; và trong những năm đó, người Miletos phải chịu hai thất bại nặng nề: Một tại Limenaion, và một lần nữa trên đồng bằng Maiandros. Sáu trong 11 năm đó, Sadyattes con trai Ardys cai trị người Lydia và xâm lược lãnh thổ Miletos vào cùng thời điểm mỗi năm. Sadyattes là người đầu tiên khai chiến. Trong năm năm sau, Alyattes con trai Sadyattes (như tôi đã nói, là người kế thừa cuộc xung đột) hăng hái tiến hành cuộc chiến của cha ông. Không người Ionia nào giúp người Miletos trong cuộc chiến này, ngoại trừ người Khios, để đáp lại ân huệ, vì người Miletos trước đó đã hỗ trợ người Khios trong cuộc chiến của họ với người Erythrai1.
1. Một trong 12 thành phố Ionia ở vùng Tiểu Á, tọa lạc trên một bán đảo nhỏ nhô ra vịnh Erythrai.
19. Vào năm thứ 12, khi mùa màng chờ thu hoạch bị quân Lydia đốt, chuyện sau đây xảy ra. Ngay sau khi lương thực bị đốt, ngọn lửa bị một cơn gió dữ dội thổi bùng lên, bén vào đền Athena Assesia và cháy rụi. Khi đó, không có ghi chép nào về biến cố này, nhưng sau đó, khi quân đội đã trở lại Sardis, Alyattes ngã bệnh. Khi bệnh tình không thuyên giảm, nhà vua phái người đến hỏi ý dự ngôn giả tại Delphoi. Có thể nhà vua đã được ai đó khuyên làm như vậy, hoặc có thể chính ông nghĩ tốt nhất nên phái người đi hỏi thần về bệnh tình của mình. Nhưng khi các sứ giả này tới Delphoi, nữ tư tế Pythia nói bà sẽ không cho họ câu trả lời cho tới khi họ đã xây lại ngôi đền nữ thần Athena mà họ đã thiêu rụi tại Assesos trên lãnh thổ Miletos.
20. Đó là những gì tôi biết được từ lời thuật của người Delphoi; song người Miletos nói thêm rằng Periandros con trai Kypselos, vốn là thân hữu của Thrasyboulos – tiếm chúa Miletos lúc ấy – nghe kể về thần dụ được phán cho Alyattes, đã phái một sứ giả tới báo cho Thrasyboulos để ông biết trước và bàn bạc kỹ lưỡng phòng khi hoàn cảnh bắt buộc.
21. Và Alyattes, khi được báo lại câu trả lời, đã phái một sứ giả tới Miletos, bày tỏ muốn đình chiến với Thrasyboulos và người Miletos trong thời gian đủ lâu để ông có thể xây lại ngôi đền. Vị sứ giả sau đó được cử làm phái viên tại Miletos; trong lúc đó Thrasyboulos, biết trước toàn bộ tình hình và biết những gì Alyattes định làm, liền nảy ra mưu kế này: Ông cho tập trung tại khu chợ tất cả lương thực dự trữ có thể tìm thấy trong thành phố, cả kho dự trữ của bản thân ông lẫn thực phẩm của các cá nhân; rồi ông tuyên bố với người Miletos là khi ông ra hiệu lệnh, tất cả họ cần bắt đầu uống rượu và vui vẻ với nhau.
22. Thrasyboulos làm như vậy để sứ giả từ Sardis, khi tận mắt thấy một lượng lớn thực phẩm được tập trung lại một cách bất cẩn và cư dân tiệc tùng, sẽ báo lại chuyện này cho Alyattes. Thực tế đã diễn ra đúng như vậy, vị sứ giả quay về Sardis sau khi chứng kiến cảnh tượng này và tâu lên Thrasyboulos sứ mệnh đã được giao phó, hòa ước được lập, thực hiện hoàn toàn chỉ vì mẹo nhỏ này, như tôi được biết. Với Alyattes, người nghĩ rằng đang có nạn đói lớn ở Miletos và cư dân tại đó đã kiệt quệ tới cảnh khốn cùng, đã nghe được điều ngược lại từ vị sứ giả từ Miletos quay về. Sau đó, hòa bình được thiết lập giữa họ với điều kiện hai vị vua trở thành bằng hữu và đồng minh của nhau, còn Alyattes xây hai ngôi đền cho nữ thần Athena tại Assesos thay vì một, và bản thân nhà vua thì khỏi bệnh. Về cuộc chiến tranh Alyattes phát động chống lại người Miletos và Thrasyboulos, các biến cố đã diễn ra như thế.
23. Về Periandros, người đã báo tin về thần dụ cho Thrasyboulos, người này là con trai Kypselos, tiếm chúa Korinthos. Theo lời kể của người Korinthos (và người Lesbos cũng thống nhất với họ), vào thời ông này sống, đã có một điều kỳ diệu lớn lao xảy ra, cụ thể là việc Arion thành Methymna được đưa vào bờ ở Tainaron1 trên lưng một con cá heo. Người đàn ông này là nghệ sĩ đàn lyra giỏi nhất đương thời, và theo những gì chúng ta biết cho tới nay, là người đầu tiên sáng tác một bài tụng ca tửu thần, đặt tên cho tác phẩm như vậy rồi dạy nó cho một dàn đồng ca tại Korinthos.
24. Người ta thuật lại rằng Arion, người sống phần lớn cuộc đời cùng Periandros, từng khao khát muốn vượt biển tới Italia2 và Sikelia; và sau khi đã kiếm được tại đó những khoản tiền lớn, ông lại mong muốn quay trở lại Korinthos. Vậy là ông khởi hành từ Taras, và thuê một con thuyền với thủy thủ đoàn người Korinthos, vì ông tin tưởng người Korinthos hơn những người khác. Truyện kể lại rằng khi ra tới ngoài khơi, đám thủy thủ này lập mưu ném Arion xuống biển để đoạt lấy tài sản của ông. Biết chuyện, ông liền điều đình với chúng, xin trao cho chúng tất cả của cải ông có, yêu cầu chúng để ông được sống. Tuy nhiên, ông không thể lay chuyển được đám thủy thủ, những kẻ này ra lệnh cho ông tự sát để có thể được chôn cất trên đất liền, hoặc nhảy luôn xuống biển. Vậy là Arion, sau khi bị đưa tới một eo biển, cầu xin đám thủy thủ rằng, vì họ đã quyết như thế, họ cần cho phép ông đứng trên sàn thuyền trong bộ quần áo chỉn chu của người du ca và hát. Ông hứa sẽ tự sát sau khi hát xong. Đám thủy thủ, hân hoan nghĩ chúng cũng nên lắng nghe nghệ sĩ tài hoa nhất thế gian, sau đó lui hết khỏi đuôi thuyền ra giữa thuyền; ông khoác lên người bộ trang phục ca sĩ, cầm cây đàn lyra của mình, rồi đứng trên sàn thuyền trình diễn một giai điệu Orthios. Khi giai điệu kết thúc, ông gieo mình xuống biển, trên người vẫn mặc bộ trang phục của người ca sĩ. Đám thủy thủ tiếp tục đi thuyền tới Korinthos, nhưng còn người nghệ sĩ, người ta kể rằng một con cá heo đã tới đỡ ông lên lưng, đưa ông vào bờ tại Tainaron. Khi cập bờ, ông đi về Korinthos vẫn trong bộ trang phục ca sĩ của mình. Về tới nơi, ông thuật lại tất cả những gì đã xảy ra. Periandros, ngờ vực câu chuyện, đã cho canh gác Arion, không để ông đi đâu, trong khi để mắt theo dõi cẩn thận đám thủy thủ đã chở người nghệ sĩ. Khi đám này tới, Periandros cho triệu họ vào gặp, hỏi họ có gì để thông báo về Arion hay không. Khi đám thủy thủ nói nghệ sĩ đang bình an tại Italia, còn bọn họ đã từ biệt ông hoàn toàn khỏe mạnh ở Taras, Arion đột nhiên xuất hiện trước mặt chúng trong chính bộ trang phục ông mặc khi nhảy khỏi thuyền. Đám thủy thủ sững sờ vì kinh ngạc đã không thể tiếp tục chối cãi khi chúng bị chất vấn. Đây là câu chuyện đã được cả người Korinthos và người Lesbos kể lại, và ở Tainaron vẫn còn một lễ vật khiêm tốn do Arion dâng lên, bức tượng người đàn ông trên lưng cá heo bằng thanh đồng.
1. Mũi đất ở tận cùng bán đảo Mani tại Hy Lạp, nơi có ngôi đền Poseidon nổi tiếng thời cổ đại.
2. Herodotos chỉ dùng tên gọi này cho phần phía nam bán đảo.
25. Alyattes người Lydia sau khi gây chiến với người Miletos, qua đời sau khi đã trị vì 57 năm. Khi khỏi bệnh, vị vua này đã dâng một lễ vật tại Delphoi (và là thành viên thứ hai trong gia tộc của ông làm việc này). Món lễ vật gồm một bình pha rượu lớn bằng bạc, cùng một chân đế sắt được hàn vào nó. Món lễ vật này là một tuyệt phẩm đáng để chiêm ngưỡng hơn tất cả các lễ vật khác tại Delphoi, và là tác phẩm của Glaukos người Khios, người đầu tiên tìm ra kỹ nghệ hàn sắt.
26. Sau khi Alyattes qua đời, con trai là Kroisos thừa kế vương quốc ở tuổi 35. Những người Hy Lạp đầu tiên mà ông tấn công là người Ephesos. Khi bị ông vây hãm, người Ephesos đã dâng thành phố của họ cho nữ thần Artemis và buộc một sợi thừng từ ngôi đền của nữ thần tới tường thành: khoảng cách giữa cổ thành, nơi bị vây hãm lúc đó, và ngôi đền là 7 stadia1. Như tôi đã nói, đây là đô thị Hy Lạp đầu tiên Kroisos tấn công, nhưng sau đó ông tiếp tục với lần lượt từng đô thị khác tại Ionia2 và Aiolis3, viện ra nhiều nguyên nhân trách cứ, đưa ra những lời buộc tội nghiêm trọng với những kẻ mà ông có thể tìm được căn cứ vững chắc, trong khi với một số đối thủ khác nhà vua chỉ đưa ra được những lời buộc tội vặt vãnh.
1. 1 stadion (sn: stadia) tương đương 185 mét. (BT)
2. Một vùng lãnh thổ nằm ở vùng miền trung bờ biển phía Tây bán đảo Tiểu Á, nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ.
3. Vùng lãnh thổ ở miền bắc bờ biển phía Tây bán đảo Tiểu Á, ở ngay phía trên vùng Ionia.
27. Sau đó, khi người Hy Lạp ở châu Á đã bị chinh phục và buộc phải cống nạp, nhà vua quyết định tiếp theo sẽ đóng thuyền cho mình và áp đặt sự thống trị lên đảo dân. Đến khi tất cả đã sẵn sàng cho việc đóng thuyền, người ta kể rằng Bias thành Priene (hay theo một nguồn khác là Pittakos thành Mytilene) tới Sardis, và sau khi được Kroisos hỏi liệu có diễn biến gì mới tại Hy Lạp hay không, đã chấm dứt việc đóng thuyền của nhà vua bằng những lời nói sau: “Tâu bệ hạ”, ông nói, “đám đảo dân đang thuê một đội quân với 10.000 kỵ mã, với đội quân này, họ dự định hành quân đến Sardis và tấn công ngài”. Và Kroisos, cho rằng những gì Bias nói lại là đúng, liền nói: “Cầu cho các vị thần gieo vào tâm trí đám đảo dân ý tưởng dùng kỵ binh chống lại các con trai xứ Lydia!” Và Bias trả lời: “Tâu bệ hạ, thần nhận thấy người thực sự mong muốn bắt đám người trên đảo khi bọn họ đang cưỡi ngựa trên đất liền; và đó không phải là một mong muốn vô lý. Tuy nhiên, bệ hạ thử nghĩ xem đám đảo dân sẽ mong muốn và cầu khẩn điều gì khi họ biết tin ngài chuẩn bị đóng thuyền để tấn công họ hơn việc họ có thể đánh úp người Lydia trên biển để báo thù ngài cho những người Hy Lạp sống trên đất liền đã bị ngài nô dịch?” Người ta kể rằng Kroisos đã rất hài lòng với kết luận này, và làm theo lời khuyên của Bias, vì nhà vua cho rằng những lời đó rất có lý, Kroisos cho dừng việc đóng thuyền, và kể từ đó nhà vua kết giao với người Ionia sống trên các đảo.
28. Thời gian trôi qua, gần như tất cả các dân tộc phía tây sông Halys đã bị chinh phục. Ngoại trừ người Kilikia và người Lykia, Kroisos đã nô dịch các dân tộc sau: Người Lydia, Phrygia, Mysia, Mariandynoi, Khalybes, Paphlagonia, Thraike (cả người Thynoi và Bithynia), Karia, Ionia, Doris, Aiolis và Pamphylia.
29. Như tôi vừa nói, khi các dân tộc này bị khuất phục, và trong khi Kroisos đang tiếp tục sáp nhập các vùng đất mới vào lãnh thổ Lydia của mình, tất cả các nhà hiền triết của Hy Lạp sống vào thời đó đã tìm tới Sardis, lúc đó đang đỉnh thịnh, vào nhiều dịp khác nhau. Một trong số họ là Solon người Athenai, người sau khi định ra pháp luật cho người Athenai theo lời thỉnh cầu của họ đã rời khỏi bản quán trong 10 năm, lên thuyền ra đi sau khi nói ông muốn tới thăm các vùng đất khác để không bị ép buộc phải bãi bỏ bất cứ điều luật nào ông đã đề ra. Vì bản thân người Athenai sẽ không thể làm được điều đó sau khi đã bị ràng buộc bởi lời thề thiêng liêng sẽ tuân thủ trong 10 năm những điều luật Solon đề ra cho họ.
30. Vậy là Solon, sau khi rời khỏi quê hương vì lý do kể trên và để thưởng ngoạn thế giới, tới gặp Amasis tại Ai Cập, và cũng tới gặp Kroisos tại Sardis. Khi tới đây, nhà hiền triết được Kroisos khoản đãi trong hoàng cung. Đến ngày thứ ba hay thứ tư, theo lệnh Kroisos, người hầu của nhà vua dẫn Solon đi xem các kho báu của nhà vua. Họ cho ông xem mọi thứ, chỉ cho ông thấy chúng đồ sộ, lộng lẫy ra sao. Sau khi vị khách đã được chiêm ngưỡng, xem xét tất cả chúng, Kroisos đã hỏi vị khách như sau: “Hỡi vị khách Athenai, ta đã được nghe nói nhiều về ông, cả về sự thông tuệ lẫn những chuyến du hành của ông, cũng như việc để tìm kiếm trí tuệ, ông đã đi qua rất nhiều vùng đất để tận mắt thấy chúng. Vì thế, lúc này ta muốn hỏi liệu ông đã từng thấy ai mà ông cho là người hạnh phúc nhất trong tất cả mọi người chăng”. Kroisos đưa ra câu hỏi này, đoán rằng nhà vua chính là người hạnh phúc nhất. Nhưng Solon, không tán tụng mà chỉ nói sự thật, đã nói: “Tâu bệ hạ, đó là Tellos người Athenai”. Và Kroisos, ngỡ ngàng trước những lời của nhà hiền triết, liền sốt sắng hỏi ông: “Về mặt nào ông lại cho rằng Tellos là người hạnh phúc nhất?” Và vị khách đáp: “Tellos, trước hết, đã sinh sống khi thành bang ông thịnh vượng, có những đứa con trai đẹp đẽ, chính trực và chứng kiến tất cả những đứa cháu mình ra đời và trưởng thành. Thứ hai, ông sở hữu thứ mà chúng tôi coi là giàu có, ông có một kết cục vinh quang nhất cho cuộc đời ông. Vì khi một trận đánh diễn ra giữa người Athenai với những láng giềng tại Eleusis, ông đã đem viện binh tới, đánh tan kẻ thù và anh dũng hi sinh. Người Athenai đã chôn cất ông trọng thể tại nơi ông ngã xuống, và họ tôn vinh ông thật lẫy lừng”.
31. Vậy là khi Solon đã khiến Kroisos dò hỏi thêm về câu chuyện của Tellos và thuật lại những lý do khiến người đàn ông này hạnh phúc, nhà vua lại hỏi nhà hiền triết xem ai trong số những người ông từng biết xứng đáng xếp sau Tellos, đoán rằng mình chắc chắn được xếp thứ hai. Song nhà hiền triết lại đáp: “Kleobis và Biton. Xuất thân là người Argos, họ đủ sung túc và tráng kiện như tôi sẽ kể sau đây. Cả hai đều từng đoạt giải thưởng trong các kỳ thi tài, và hơn thế nữa, câu chuyện sau đây về họ đã được thuật lại: Có một lễ hội dành cho nữ thần Hera của người Argos, và mẹ của họ nhất thiết cần được đưa bằng xe tới ngôi đền. Nhưng vì lũ bò thiến của họ không thể được dắt từ ngoài đồng về kịp, hai chàng trai trẻ, không còn cách nào khác vì thiếu thời gian, đã tự đóng mình vào ách và kéo xe đưa mẹ họ tới đền. Bằng cách này, họ đã kéo xe đi hơn 45 stadia để tới đền. Sau khi làm việc này và được cả đám đông có mặt chứng kiến, cuộc đời họ cũng kết thúc theo cách hoàn hảo nhất. Và trong chuyện này một vị thần đã phán rằng với con người chết tốt hơn là tiếp tục sống. Vì đám đàn ông Argos đang đứng xung quanh ca ngợi sức mạnh của hai chàng trai trẻ, trong khi những phụ nữ Argos ca tụng bà mẹ đã được số phận ban cho những người con trai như thế. Bà mẹ, quá vui mừng trước chính hành động của các con cũng như danh tiếng hành động ấy mang lại, đã đứng trước tượng nữ thần và cầu xin nữ thần hãy ban cho các con trai bà, Kleobis và Biton, những đứa con kính trọng bà hết mực, món quà quý giá nhất con người có thể nhận được. Sau lời khẩn cầu đó, khi họ đã làm lễ hiến sinh và tiệc tùng, hai chàng trai trẻ nằm xuống ngủ ngay bên trong ngôi đền và không bao giờ tỉnh dậy nữa, mà cứ nằm nguyên như thế trong đoạn kết cuối cùng. Người Argos dựng tượng họ, rồi dâng những bức tượng đó làm lễ vật tại Delphoi vì cho rằng hai chàng trai đã chứng tỏ họ là những người xuất chúng nhất”.
32. Solon giành vị trí thứ hai về hạnh phúc cho hai chàng trai này, còn Kroisos nổi giận và nói: “Hỡi vị khách Athenai, chẳng lẽ ngươi đã gạt sang bên hạnh phúc của ta như thể chúng không hề có giá trị gì, và thậm chí ngươi còn đánh giá ta không bằng thường dân?” Và nhà hiền triết trả lời: “Hỡi Kroisos, ngài đang hỏi về vận hội con người từ một người biết rõ các vị thần luôn đầy đố kỵ và hay làm xáo trộn số phận chúng ta. Vì theo tiến trình của thời gian, một người có thể thấy nhiều thứ anh ta không muốn thấy, phải chịu đựng nhiều điều anh ta không muốn chịu đựng. Thần cho giới hạn của đời người là 70 năm. Và 70 năm này có 25.200 ngày, chưa kể tới bất cứ tháng nhuận nào. Vậy nếu cứ hai năm lại có thêm một tháng để các mùa tới đúng thời điểm trong năm, sẽ có thêm 35 tháng nhuận bên cạnh 70 năm. Và trong những tháng nhuận đó có 1.050 ngày. Trong số ngày này, tổng cộng là 26.250, chia đều trong 70 năm, mỗi ngày đều chẳng đem đến điều gì giống hoàn toàn với một ngày khác. Chính vì thế, hỡi Kroisos, con người hoàn toàn là một tạo vật của sự tình cờ. Về phần ngài, tôi thấy ngài vừa giàu có vô cùng vừa là vua của muôn vạn thần dân, nhưng tôi chưa thể gọi ngài là người như ngài đòi hỏi cho tới khi tôi được biết ngài đã sống hết cuộc đời với một kết thúc tốt đẹp. Vì người rất giàu vẫn chưa thể được coi là hạnh phúc hơn người chỉ đủ sống qua ngày, trừ khi vận mệnh cũng ban cho anh ta được kết thúc cuộc đời êm đẹp, vẫn có trong tay mọi thứ tốt lành. Vì có nhiều người rất giàu có lại không hạnh phúc, trong khi nhiều người chỉ có cuộc sống khiêm nhường lại thật may mắn, và trên thực tế người rất giàu mà không hạnh phúc chỉ có hai lợi thế so với một người nghèo nhưng may mắn, trong khi người sau lại có nhiều điều hơn so với người giàu bất hạnh. Người giàu có thể đáp ứng ham muốn của anh ta tốt hơn, và cũng có thể cam chịu tai họa lớn nếu nó giáng xuống đầu anh ta. Trong khi đó, người kia lại có lợi thế so với anh ta trong những điều sau đây: Người nghèo hơn quả thực không thể có được khả năng ngang bằng với người giàu khi cam chịu một tai họa hay thỏa mãn ham muốn của bản thân, song vận may đã giữ những thứ này tránh xa khỏi người này, trong khi anh ta có tay chân khỏe mạnh, không bệnh tật, không khổ ải, là cha của những đứa con đẹp đẽ và bản thân anh ta cũng ưa nhìn. Nếu thêm vào đó, anh ta lại kết thúc cuộc đời thật đẹp đẽ, thì anh ta xứng đáng được gọi là kẻ như ngài tìm kiếm, một người hạnh phúc. Nhưng trước khi anh ta đi hết cuộc đời, tốt nhất nên từ tốn và đừng gọi anh ta là người hạnh phúc, mà chỉ là may mắn thôi. Và sở hữu tất cả những điều kể trên vào lúc này là không thể với một người trần thế bình thường, cũng như không có vùng đất nào có thể tự cung tự cấp đầy đủ mọi thứ, mà luôn có thứ này song lại thiếu thứ khác, và vùng đất sở hữu số lượng yếu tố cần thiết lớn nhất là vùng đất tốt nhất. Cũng như vậy trong trường hợp một con người, không có ai là hoàn hảo, vì anh ta có thứ này song lại thiếu thứ khác. Song người nào cho tới tận cuối đời sở hữu số lượng nhiều nhất những thứ này và có một đoạn kết huy hoàng cho cuộc đời, với tôi người đó xứng đáng được coi là hạnh phúc, tâu bệ hạ. Với tất cả mọi thứ, chúng ta nhất thiết phải xem xét đoạn kết để biết chúng sẽ ra sao, vì với rất nhiều người, các vị thần chỉ cho thấy một tia hạnh phúc thoáng qua rồi nhổ bật rễ những mầm hạnh phúc đó và lật ngược chúng”.
33. Nói như thế, nhà hiền triết từ chối nhìn nhận Kroisos là người hạnh phúc, nhà vua cho người tiễn vị khách đi khuất mắt mình, không hề đánh giá cao nhà hiền triết, nghĩ rằng ông hoàn toàn vô lý khi bỏ qua những điều tốt đẹp hiện tại và kêu gọi người ta nhìn vào tận cùng của mọi vấn đề.
34. Sau khi Solon đi khỏi, một sự trừng phạt ghê gớm từ các vị thần trút xuống Kroisos, có lẽ vì nhà vua đã tự cho mình là người hạnh phúc nhất trong mọi người. Đầu tiên, nhà vua nằm mơ thấy một giấc mơ cho hay về tai họa sắp ập đến con trai ông. Kroisos vốn có hai hoàng tử, một người tàn tật, điếc và câm, người kia lại vượt xa bạn bè đồng trang lứa về mọi mặt. Người con trai thứ hai này tên là Atys. Trong giấc mơ, Kroisos được báo trước ông sẽ mất Atys vì cú đâm của một mũi giáo sắt. Khi bừng tỉnh và ngẫm lại, nhà vua vô cùng kinh hãi về giấc mơ. Vậy là trước hết ông cưới vợ cho con trai, và trong khi trước đó Atys đã quen chỉ huy các đạo quân của Lydia, giờ đây nhà vua không cử con trai làm những việc như vậy nữa. Tất cả lao, giáo và mọi thứ binh khí những người đàn ông dùng để chiến đấu đều bị nhà vua cho dọn khỏi các khu phòng nam giới và chất đống trong khu phòng ngủ hậu cung, để đề phòng món vũ khí nào đó có thể rơi xuống người hoàng tử.
35. Sau đó, trong khi Kroisos đang chuẩn bị cho lễ cưới của con trai, một người đang gặp vận rủi và có đôi bàn tay dính máu đến Sardis, một người Phrygia có dòng máu hoàng tộc. Người đàn ông này tìm đến nhà Kroisos, và theo phong tục ở vùng đất đó, yêu cầu được thanh tẩy. Kroisos cho vị khách được thanh tẩy, và cách thanh tẩy của người Lydia cũng gần giống với người Hy Lạp. Khi Kroisos đã thanh tẩy xong theo phong tục, ông hỏi vị khách là ai và từ đâu tới bằng những lời như sau: “Ngươi là ai, và ngươi từ miền nào của đất Phrygia tới đây ngồi dưới mái nhà ta? Và ngươi đã giết người đàn ông hay phụ nữ nào?” Vị khách trả lời: “Tâu bệ hạ, thần là con trai Gordias, và Midas là ông nội thần. Thần tên là Adrastos. Thần đã vô tình giết anh trai của thần, vì thế thần ở đây sau khi bị cha thần xua đuổi và tước bỏ tất cả những gì thần có”. Và Kroisos trả lời thế này: “Thật tình cờ ngươi lại là thân thích của bằng hữu của ta, và ngươi đã tới chỗ của những người bạn, ở giữa họ ngươi sẽ không phải thiếu thốn gì chừng nào ngươi còn lưu lại nơi đây, và ngươi sẽ thấy tốt nhất là ngươi nên cam chịu vận rủi này một cách nhẹ nhàng nhất có thể”.
36. Vậy là vị khách lưu lại cùng Kroisos. Vào thời gian đó, trên núi Olympos1 ở vùng Mysia xuất hiện một con lợn lòi khổng lồ. Con vật từ ngọn núi này đi xuống tàn phá các cánh đồng của người dân Mysia, và cho dù người Mysia thường xuyên chống lại nó, không tài nào làm nó bị thương, mà ngược lại còn hứng chịu nhiều tổn thất. Cuối cùng, sứ giả từ người Mysia tới gặp Kroisos và bẩm báo: “Tâu bệ hạ, trên vùng đất của chúng tôi xuất hiện một con lợn lòi khổng lồ đang tàn phá các cánh đồng. Chúng tôi, dù rất mong muốn trừ khử nó, đã không thể làm được gì. Vì vậy chúng tôi khẩn cầu bệ hạ cử con trai của người tới giúp chúng tôi cùng một toán thanh niên được lựa chọn chu đáo và chó săn, để chúng tôi có thể tiêu diệt con quái vật khỏi vùng đất của mình”. Người Mysia đã khẩn cầu như thế, còn Kroisos, nhớ lại những lời nghe thấy trong giấc mơ, đã nói với họ thế này: “Về con trai ta, không được nhắc đến nó nữa trong chuyện này vì ta sẽ không phái nó tới chỗ các người, vì hoàng tử mới kết hôn và hiện đang bận bịu với cuộc hôn nhân. Song ta sẽ cử tới các người những dũng sĩ được tuyển chọn của Lydia cùng toàn bộ số chó săn của ta. Đồng thời ta sẽ lệnh cho những người được cử đi phải nỗ lực hết sức trong việc giúp đỡ các người trừ khử con thú hoang đó khỏi vùng đất các người sinh sống”. Nhà vua đã trả lời như vậy.
1. Nay là núi Uludağ ở Thổ Nhĩ Kỳ.
37. Dù người Mysia hài lòng với lời hồi đáp này, con trai của Kroisos cũng đi vào cung điện sau khi biết được lời thỉnh cầu của người Mysia. Khi Kroisos nói ông sẽ không phái con trai đi cùng họ, chàng thanh niên liền nói: “Thưa cha, trước đây những việc đẹp đẽ và cao quý nhất đều được giao phó cho con, liên tục xuất trận, đi săn và nhờ đó con có được tiếng tăm. Nhưng giờ cha lại ngăn cản con làm cả hai việc đó, cho dù cha đã không hề thấy ở con bất cứ biểu hiện hèn nhát hay sợ sệt nào. Rồi đây con biết để bộ mặt đi đâu khi ra khu chợ hay từ đó về? Thần dân của cha sẽ coi con là loại người nào, và người vợ mới cưới của con, nàng sẽ nghĩ nàng đã kết duyên với loại chồng nào? Thế nên cha hãy để con đi săn, hoặc hãy thuyết phục con bằng cách đưa ra lý lẽ rằng hiện nay có những việc khác tốt hơn con nên làm”.
38. Và Kroisos trả lời thế này: “Con trai, ta hành động như thế không phải vì ta thấy ở con bất cứ biểu hiện nào của hèn nhát hay phẩm chất đáng hổ thẹn nào khác, mà vì một bóng hình đã tới trong mơ, đến bên ta trong lúc ta ngủ, nói với ta rằng con sẽ yểu mệnh, và con sẽ chết bởi một mũi giáo sắt. Vì nghĩ tới giấc mơ này mà ta đã gấp gáp tổ chức hôn lễ cho con, và giờ đây ta từ chối để con tham gia cuộc săn sắp tiến hành, ta bảo vệ con để hy vọng ta có thể đoạt lại con khỏi định mệnh, ít nhất trong thời gian ta còn sống trên đời, bằng bất cứ cách nào có thể. Vì định mệnh đã quyết định rằng con là con trai duy nhất của ta. Đứa còn lại ta không coi là con trai ta vì nó bị tật không thể nghe được”.
39. Chàng trai trẻ trả lời như sau: “Thưa cha, có thể lượng thứ cho người vì người đã lo lắng che chở cho con sau khi gặp phải một giấc mơ như vậy; song có điều cha đã không hiểu, cũng là phần ý nghĩa của giấc mơ cha đã để sót, và con cần giải thích cho cha thấy rõ cũng là điều hợp lẽ. Cha nói giấc mơ dự báo rằng con sẽ kết thúc cuộc đời bởi một mũi giáo sắt; nhưng liệu một con lợn lòi thì có cánh tay nào, hay mũi giáo nào đây để cha phải e sợ? Nếu giấc mơ đã dự báo con phải chết vì một cái nanh lợn lòi hay bất cứ thứ gì khác giống như thế, thì hiển nhiên cha đã đúng khi làm những gì người đang làm. Nhưng giấc mơ đã dự báo là ‘bởi một mũi giáo’. Vì chúng ta sẽ không phải chiến đấu với con người, giờ cha hãy để con đi”.
40. Kroisos trả lời: “Con trai ta, con đã phần nào thuyết phục được ta khi đưa ra lời giải thích của con về giấc mơ. Vì thế, sau khi được con thuyết phục, ta quyết định đổi ý và cho phép con tham gia cuộc săn”.
41. Nói xong, Kroisos triệu Adrastos người Phrygia tới. Khi anh ta tới, nhà vua nói thế này: “Adrastos, khi ngươi gặp phải vận rủi nghiêm trọng (và ta cũng không trách cứ ngươi về chuyện đó), ta đã thanh tẩy cho ngươi, đón nhận ngươi vào nhà ta, chu cấp mọi thứ cho ngươi. Vì thế, giờ đây, sau khi đã nhận lòng tốt từ ta, ngươi có bổn phận báo đáp ta bằng lòng tốt. Ta yêu cầu ngươi làm người bảo vệ con trai ta, người sắp lên đường đi săn, để phòng lỡ có đám đạo tặc xấu xa nào hãm hại các người. Và ngoài ra, ngươi cũng phải có mặt ở những nơi ngươi có thể nổi danh nhờ các chiến công của mình, ngươi gánh vác một di sản từ cha ông đòi hỏi ngươi phải làm như thế, và hơn nữa ngươi lại có đủ sức mạnh để làm vậy”.
42. Adrastos trả lời: “Tâu bệ hạ, nếu không vì dịp này, thần đáng lẽ không nên tham gia vào bất cứ cuộc đua tranh lòng dũng cảm nào như thế. Vì trước hết, sẽ là không thích hợp cho một người đang phải chịu đựng một bất hạnh lớn lao như thần đi tìm kiếm sự đồng hành của những người đang thịnh vượng, và thứ hai là thần không hề mong muốn nó. Và vì rất nhiều lý do, thần đáng lẽ đã tránh xa. Nhưng giờ đây, vì bệ hạ đã hối thúc, và thần nhất định phải phục tùng bệ hạ (vì thần có bổn phận báo đáp bệ hạ bằng lòng tốt), thần sẵn sàng làm việc này. Vì vậy bệ hạ hãy trông đợi hoàng tử, người bệ hạ ra lệnh cho thần bảo vệ, sẽ trở về với bệ hạ bình an, chừng nào người bảo vệ này có thể giữ cho hoàng tử an toàn”.
43. Sau khi Adrastos đã trả lời Kroisos bằng những lời lẽ như vậy, đoàn đi săn lên đường với các chàng trai trẻ được lựa chọn cùng đàn chó săn. Khi tới núi Olympos, họ lần theo dấu vết con vật. Sau khi tìm ra dấu vết của nó và đứng thành một vòng tròn, họ phóng giáo về phía con lợn lòi. Thế rồi cây giáo của vị khách có tên Adrastos, người đã được thanh tẩy tội ngộ sát, khi phóng đi đã phóng trượt con lợn và trúng vào người con trai của Kroisos. Vậy là hoàng tử trúng một mũi giáo sắt, đúng như điềm báo trong giấc mơ. Và một người chạy về báo tin cho nhà vua. Khi sứ giả đến Sardis, Kroisos được nghe kể về cuộc chạm trán lợn lòi và số phận con trai ông.
44. Kroisos vô cùng choáng váng trước cái chết của con trai, và càng khổ sở hơn vì con trai ông chết dưới tay người đã được chính ông thanh tẩy tội ngộ sát. Bị giày vò trước nỗi bất hạnh, nhà vua khẩn cầu Zeus Karthasios (Đấng thanh tẩy), phản đối với thần là ông đã phải chịu đau khổ từ vị khách của mình. Rồi thêm nữa, nhà vua khẩn cầu Zeus Epistios (Người trông coi bếp lửa) và Zeus Hetaireios (Người bảo vệ bằng hữu), vẫn là các danh xưng khác của cùng vị thần này. Nhà vua đã khẩn cầu thần như Epistios vì khi đón nhận vị khách vào nhà, ông đã vô tình dung dưỡng kẻ giết con mình, và như Hetaireios vì khi đã phái vị khách đi làm người bảo vệ con trai, nhà vua lại phải thấy anh ta hóa ra là kẻ thù tệ hại nhất.
45. Sau đó, người Lydia mang thi thể tới, và theo sau là kẻ sát nhân. Anh ta đứng trước xác nạn nhân, nộp mình cho Kroisos, chìa hai bàn tay ra và khẩn cầu nhà vua hãy giết mình ngay trước thi thể, kể về nỗi bất hạnh trước đây của mình và nói rằng bên cạnh đó, giờ đây anh ta còn trở thành kẻ hủy hoại người đã thanh tẩy anh ta khỏi tội lỗi đó, và rằng cuộc đời với anh ta giờ đây không còn đáng sống nữa. Song Kroisos, sau khi nghe tất cả, đã thương hại Adrastos, cho dù chính nhà vua cũng đang phải chịu nỗi đau khổ khôn cùng, và nói với anh ta: “Vị khách lạ, ta đã nhận được từ ngươi tất cả sự trả giá xứng đáng, khi ta thấy ngươi kết án chính mình tội chết. Và không phải mình ngươi là nguyên nhân gây ra tai họa này, ngoại trừ việc ngươi là công cụ gây ra nó ngoài ý muốn của ngươi, mà ta đoán một vị thần nào đó đã từ lâu nhắc nhở ta về chuyện rồi sẽ xảy ra”. Thế rồi Kroisos an táng con trai một cách xứng đáng, nhưng Adrastos con trai Gordias, cháu trai Midas, người đã giết chính anh trai mình, đồng thời cũng hủy hoại người đã thanh tẩy cho anh ta, chợt nhận ra khi im lặng bao trùm lên tất cả mọi người có mặt quanh nấm mồ, anh ta đã bị nỗi bất hạnh đè nặng hơn bất cứ ai anh ta từng biết, và anh ta tự sát ngay trên nấm mộ.
46. Trong hai năm sau đó, Kroisos lặng lẽ để tang, vì nhà vua đã bị tước đi đứa con trai. Nhưng sau thời gian này, việc Kyros cướp ngôi của Astyages, cũng như việc người Ba Tư đang lớn mạnh đã khiến Kroisos thôi than khóc và chú tâm vào việc chấm dứt sức mạnh của người Ba Tư bằng bất cứ cách nào ông có thể trong khi đối thủ này còn đang ở giai đoạn phát triển, và trước khi họ trở nên hùng mạnh. Hạ quyết tâm như vậy, nhà vua bắt đầu việc thử thách các dự ngôn giả tại Hy Lạp và một dự ngôn giả tại Libya1, phái sứ giả đi khắp nơi, một số tới Delphoi, một số khác tới Abai thuộc Phokis, một số khác nữa tới Dodona. Một số người được phái tới Amphiaraos cũng như Trophonios, số khác tới Brankhidai tại Miletos. Trên đây là những dự ngôn giả Hy Lạp mà Kroisos dự định hỏi ý. Ông cử các sứ giả khác tới hỏi ý Ammon tại Libya. Mục đích của ông là thử thách các dự ngôn giả, để nếu kết quả cho thấy họ có năng lực biết trước thực tế, ông có thể phái người tới hỏi họ lần hai, liệu ông có nên gây chiến với người Ba Tư không.
1. Libya được Herodotos dùng để chỉ không chỉ vùng lãnh thổ Libya ngày nay mà toàn bộ các vùng lãnh thổ châu Phi nằm về phía tây Ai Cập.
47. Với các sứ giả người Lydia, nhà vua ra lệnh như sau: Kể từ ngày họ rời Sardis, các sứ giả cần đếm số ngày trôi qua, và đến ngày thứ 100, họ cần đến hỏi ý các dự ngôn giả, hỏi xem Kroisos vua Lydia, con trai Alyattes đang làm gì lúc đó.
Cho dù các dự ngôn giả có trả lời thế nào đi nữa, các sứ giả cũng phải ghi lại và mang câu trả lời về cho nhà vua. Những gì các dự ngôn giả khác dự đoán không còn được lưu lại tới ngày nay, song tại Delphoi, ngay khi sứ đoàn Lydia bước vào thánh điện của ngôi đền để tham vấn các vị thần và hỏi điều họ được lệnh phải hỏi, nữ tư tế Pythia đã nói những câu thơ lục bộ cách1 sau:
1. Còn gọi là hexameter, một thể thơ gồm sáu bộ (foot), mỗi bộ gồm hai âm tiết dài hoặc một âm tiết dài và hai âm tiết ngắn. (BT)
Ta đếm số hạt cát và số giọt nước trong đại dương;
Ta nghe thấy kẻ câm và lắng nghe kẻ im lặng;
Ta ngửi được mùi một con rùa mai cứng
Bị luộc cùng với thịt một con cừu trong thanh đồng;
Chiếc nồi bằng thanh đồng, và nắp cũng bằng thanh đồng.
48. Khi nữ tư tế Pythia đã phán xong, sứ đoàn Lydia liền ghi lại, rồi lập tức quay về Sardis. Và khi các sứ đoàn còn lại được phái đi cũng đã quay về đem theo câu trả lời của các dự ngôn giả, Kroisos liền mở lần lượt từng bản ghi chép và đọc qua chúng. Thoạt đầu, không câu trả lời nào làm nhà vua hài lòng, song khi biết được câu trả lời từ Delphoi, ông lập tức cầu nguyện tạ ơn vị thần và chấp nhận câu trả lời, đồng thời cho rằng dự ngôn giả tại Delphoi chân thật nhất, vì đã nói đúng điều chính nhà vua đã làm. Vì sau khi đã phái sứ giả tới một số dự ngôn giả, đồng thời ghi nhớ rõ ngày hẹn, nhà vua đã nghĩ ra kế như sau: Ông nghĩ tới một thứ không thể khám phá hay hình dung, sau khi cắt một con rùa và một con cừu thành từng mảnh, tự tay nhà vua luộc chúng cùng nhau trong một chiếc vạc thanh đồng, đậy một chiếc vung thanh đồng lên trên.
49. Và đây cũng chính là câu trả lời dành cho Kroisos từ Delphoi; về phần câu trả lời của dự ngôn giả Amphiaraos, tôi không thểnói rõ câu trả lời ra sao với sứ đoàn Lydia sau khi họ đã thực hiện những thủ tục cần thiết trong đền, vì không còn bản ghi chép nào về câu trả lời này cũng như các câu trả lời khác, ngoại trừ việc Kroisos nghĩ Amphiaraos cũng sở hữu một dự ngôn giả chân thật.
50. Sau cuộc thử thách, nhà vua dùng đến những lễ hiến sinh lớn để giành lấy sự ưu ái của vị thần tại Delphoi: 3.000 loại súc vật dùng để hiến sinh, và ông dâng hàng đống trường kỷ khảm vàng và khảm bạc, những chiếc cốc vàng, những chiếc áo choàng tía, chất thành một giàn thiêu lớn, rồi đốt cháy tất cả lễ vật, hy vọng giành thêm sự ưu ái của các vị thần cho phía Lydia. Và nhà vua tuyên cáo với toàn dân Lydia rằng tất cả họ cần làm lễ hiến sinh bằng những gì mỗi người có. Khi nhà vua kết thúc hiến sinh, ông cho nấu chảy một lượng lớn vàng, và dùng chúng đúc thành từng thỏi nửa hình vuông dài 6 palaistai1, rộng 3 palaistai và dày 1 palaiste; có tất cả 117 thỏi. Trong số này có bốn thỏi vàng nguyên chất, mỗi thỏi nặng 2,5 talanta, còn lại là những thỏi vàng pha bạc nặng 2 talanta. Nhà vua cũng ra lệnh đúc một bức tượng sư tử bằng vàng ròng nặng 10 talanta; khi ngôi đền ở Delphoi bị đốt trụi, bức tượng sư tử này đã rơi khỏi đế đặt của nó, và hiện tại đang được cất trong bảo khố thành Korinthos, còn nặng 6,5 talanta, vì 3,5 talanta đã bị đun chảy và lấy đi khỏi bức tượng.
1. 1 palaiste (sn: palaistai) tương đương khoảng 7,6 cm.
51. Sau khi làm xong những việc kể trên, Kroisos đưa chúng tới Delphoi cùng các lễ vật sau đây: Hai bình pha rượu cỡ lớn, một bằng vàng và một bằng bạc trong đó chiếc bình vàng được đặt bên phải khi người ta bước vào đền, còn chiếc bình bạc nằm bên trái, song vị trí của những chiếc bình này cũng thay đổi sau khi ngôi đền bị cháy trụi, và chiếc bình vàng hiện nay nằm trong bảo khố của người Klazomenai, nặng hơn 8.5 talanta và 12 mnai1. Còn chiếc bình bạc được đặt trong góc tiền sảnh và đựng được 600 vò (được người Delphoi đổ đầy rượu vang vào dịp lễ Theophania). Người Delphoi kể rằng chiếc bình này là tác phẩm của Theodoros người Samos, và theo như tôi nghĩ thì đúng là vậy, vì với tôi rõ ràng cách chế tác không phải kiểu tầm thường. Thêm vào đó, Kroisos dâng bốn hũ đựng rượu vang bằng bạc, hiện đang nằm trong bảo khố thành Korinthos; hai chậu đựng nước thánh, một bằng vàng và một bằng bạc, trên chậu vàng có ghi “từ người Lakedaimon” cho biết đây là lễ vật của họ. Thế nhưng ở đây họ đã nói không đúng, vì lễ vật này của Kroisos, song một người Delphoi đã ghi dòng chữ lên đó, mong muốn lấy lòng người Lakedaimon. Tôi biết tên người này song sẽ không nhắc đến. Cậu bé làm nhiệm vụ rót nước thánh là người Lakedaimon, song cả hai cái chậu đựng nước thánh đều không phải của người Lakedaimon. Cùng những thứ này, Kroisos đã gửi đi rất nhiều lễ vật khác, không đặc biệt nổi bật, trong đó có những chiếc bình tròn bằng bạc, một bức tượng phụ nữ bằng vàng cao 3 pekhes2 mà người Delphoi nói là tượng người thợ làm bánh của Kroisos. Thêm vào đó, Kroisos còn dâng lễ cả những món đồ trang sức đeo trên cổ và thắt lưng của vợ mình.
1. 1 mna (sn: mnai) tương đương 0,5 kg.
2. 1 pekhys (sn: pekhes) Hy Lạp tương đương khoảng 46 cm, về quy ước là chiều dài cẳng tay từ đầu ngón giữa tới khuỷu tay.
52. Đó là những lễ vật nhà vua gửi tới Delphoi. Còn với đền Amphiaraos, đã nghe nói tới sự can đảm và số phận bi thảm của vị anh hùng này, nhà vua dâng một chiếc khiên làm toàn bằng vàng, một cây giáo bằng vàng khối, cả cán cũng như hai đầu, và những lễ vật này đều còn lưu lại đến tận thời của tôi tại Thebai, trong ngôi đền Apollon Ismenios.
53. Với sứ đoàn Lydia làm nhiệm vụ mang lễ vật tới các ngôiđền, Kroisos ra lệnh cho họ cũng phải hỏi các dự ngôn giả liệu ông có nên tấn công người Ba Tư hay không, và nếu có thì liệu ông có nên liên minh với bất cứ đội quân nào không. Và khi các sứ đoàn Lydia tới nơi và đã dâng lễ vật, họ hỏi ý các dự ngôn giả rằng: “Kroisos, vua của người Lydia và các dân tộc khác, coi đây là những dự ngôn giả chân thật duy nhất trên đời, dâng tặng lên các vị những lễ vật xứng đáng với lời tiên tri của các vị, và giờ đây lại xin hỏi các vị liệu ngài có nên tấn công người Ba Tư hay không, và nếu có, liệu ngài có nên liên minh với bất cứ đội quân nào không”. Các sứ giả đưa ra câu hỏi như vậy, và câu trả lời từ cả hai dự ngôn giả đều thống nhất, phán rằng nếu Kroisos tấn công người Ba Tư, nhà vua sẽ tiêu diệt một đế quốc vĩ đại. Họ cũng khuyên ông tìm ra những người Hy Lạp mạnh nhất và liên minh với họ.
54. Thế nên khi các câu trả lời được mang về cho Kroisos, nhà vua rất phấn khích, và tự tin mình chắc chắn sẽ tiêu diệt vương quốc của Kyros, ông lại phái người tới Delphoi, sau khi đã tìm hiểu chắc chắn về dân số, và đảm bảo mỗi công dân được ban cho hai đồng stateres1 vàng. Đổi lại, người Delphoi dành cho Kroisos và người Lydia quyền ưu tiên khi hỏi ý dự ngôn giả và được miễn thuế, cũng như quyền được ngồi hàng ghế đầu trong các cuộc thi đấu, và quyền công dân Delphoi vĩnh viễn cho bất cứ người Lydia nào nếu muốn.
1. Đơn vị tiền tệ bằng vàng hoặc bạc thời Hy Lạp cổ, ban đầu dưới dạng thỏi, sau đó đúc thành tiền xu, ngoài ra stateres cũng là đơn vị khối lượng tương đương 16,8 g.
55. Sau khi đã tặng quà người Delphoi, Kroisos hỏi ý dự ngôn giả lần thứ ba, vì từ lần biết được sự thật từ dự ngôn giả, ông đã nhiều lần viện đến việc này. Ở lần tham vấn tiếp theo, nhà vua hỏi liệu vương triều của ông có tồn tại trong một thời gian dài hay không. Và nữ tư tế Pythia trả lời ông như sau:
Khi một con la làm vua người Media
Lúc đó, hỡi người Lydia chân mềm, hãy chạy đến bờ cát sông Hermos1
Và chớ nán lại, cũng chớ khinh việc đóng vai kẻ hèn nhát.
1. Tên một dòng sông ở Tiểu Á.
56. Khi những lời này đến tai nhà vua, Kroisos còn vui mừng hơn khi nhận được những thứ còn lại, vì ông cho rằng một con la sẽ không bao giờ có thể trở thành vua người Media thay vì một con người, và như thế ông và những người thừa kế của ông sẽ cai trị mãi mãi. Sau đó, nhà vua nghĩ đến việc nên liên minh với thành bang Hy Lạp nào. Và qua tìm hiểu, nhà vua biết người Lakedaimon1 và người Athenai có địa vị nổi bật nhất, cộng đồng thứ nhất thuộc nòi giống Doris2, cộng đồng thứ hai thuộc nòi giống Ionia3. Đây là những nòi giống vốn hùng mạnh từ thời xa xưa, nhóm thứ hai là người Pelasgoi, còn nhóm thứ nhất là người cổ Hy Lạp; cộng đồng thứ hai chưa bao giờ di cư khỏi nơi phát tích của họ theo bất cứ hướng nào, trong khi cộng đồng thứ nhất lại di chuyển rất nhiều.
1. Hay Lakonia, vùng cực nam bán đảo Peloponnesos tại Hy Lạp, có thủ đô là Sparta.
2. Một trong bốn sắc tộc chính của người Hy Lạp cổ đại (cùng các sắc tộc Aiolis, Akhaia và Ionia). Các thành bang theo sắc tộc Doris được đặc trưng bởi khẩu âm Dorike cùng các đặc trưng xã hội, lịch sử. Nổi tiếng nhất trong cộng đồng Doris là các thành bang Korinthos và Sparta.
3. Một trong bốn sắc tộc chính của người Hy Lạp cổ đại, trong đó Ionia và Doris là hai nhóm sắc tộc mạnh nhất. Nổi bật nhất trong các thành bang Ionia là Athenai, với các thành tựu triết học, nghệ thuật, dân chủ và khoái lạc, trong khi người Doris, điển hình là Sparta, lại khắc khổ và nổi tiếng về quân sự. Xung đột giữa hai cộng đồng này đã dẫn tới chiến tranh Peloponnesos.
Vì dưới thời Deukalion, dân tộc Hy Lạp đã cư trú tại Phthiotis, rồi đến thời của Doros con trai Hellen, họ lại sống dưới chân núi Ossa và Olympos, được gọi là vùng Histiaiotis. Khi bị các Kadmeioi xua đuổi, họ định cư gần núi Pindos và được gọi là người Makedonia; rồi từ đó, họ di cư tới Dryopis, và từ Dryopis cuối cùng họ tới Peloponnesos, và bắt đầu được gọi là người Doris.
57. Tuy nhiên, tôi không thể nói chắc được người Pelasgoi từng sử dụng ngôn ngữ nào. Song nếu cần đưa ra phán đoán dựa vào những người Pelasgoi còn lại cư trú ở thành Kreston phía trên người Tyrrhenoi, những người từng là láng giềng của tộc người hiện nay được gọi là người Doris, khi đó cư ngụ ở vùng đất ngày nay mang tên Thessaliotis, cũng như dựa vào những người Pelasgoi còn lại định cư tại Plakia và Skylake ở Hellespontos, những người trước đó từng định cư cùng người Athenai, và từ cư dân bản địa của nhiều đô thị khác có nguồn gốc Pelasgoi thực thụ, cho dù họ đã đánh mất tên gọi – nếu cần đưa ra phán quyết dựa vào những đầu mối này, thì người Pelasgoi từng nói một thứ man ngữ. Như thế có nghĩa là nếu tất cả các tộc người Pelasgoi đều như vậy, thì người Attika, vốn có nguồn gốc Pelasgoi, đã đánh mất bản ngữ của mình trong cùng thời gian họ thay đổi và trở thành một tộc người Hy Lạp. Vì người Kreston không nói cùng ngôn ngữ với bất cứ dân tộc nào cư trú quanh họ, và người Plakia cũng thế, mà hai dân tộc này lại nói cùng một ngôn ngữ: như vậy có thể chứng minh họ vẫn giữ y nguyên thứ ngôn ngữ họ mang theo khi di cư tới những nơi này.
58. Về chủng tộc Hy Lạp, họ vẫn luôn sử dụng cùng một ngôn ngữ từ khi hình thành, như tôi nhận thấy rất rõ ràng; kể từ thời kỳ chủng tộc này tách khỏi người Pelasgoi một cách yếu ớt, để rồi từ một khởi đầu khiêm tốn phát triển thành một số lượng đông đảo các tộc người như chúng ta thấy, và chủ yếu vì rất nhiều man tộc đã gia nhập cùng họ. Và thêm nữa, theo tôi nghĩ, điều này cũng đúng với người Pelasgoi, chừng nào còn là một man tộc, họ sẽ không bao giờ phát triển mạnh mẽ.
59. Trong hai nòi giống này, Kroisos được cho biết rằng người Athenai bị chia rẽ thành các phe phái và chịu sự cai trị của Peisistratos con trai Hippokrates, người khi đó là tiếm chúa của Athenai. Với Hippokrates, khi ông này tới xem các hội thi Olympia với tư cách một công dân, có một điều kỳ diệu lớn lao đã xảy ra. Sau khi ông dâng lễ hiến tế, những chiếc vạc để trên bếp, đầy ắp thịt và nước, đã sôi sùng sục mà không hề có lửa đun bên dưới và trào ra ngoài. Khilon người Lakedaimon tình cờ có mặt và chứng kiến cảnh tượng kỳ lạ, đã khuyên Hippokrates: Thứ nhất không được mang về nhà một người vợ để sinh con cho ông ta, và thứ hai, nếu tình cờ ông ta đã có vợ, hãy bỏ người vợ đó, và nếu tình cờ ông đã có con trai, hãy từ bỏ đứa con này. Người ta kể rằng khi Khilon đưa ra lời khuyên như vậy, Hippokrates không sẵn sàng nghe theo, vì thế về sau ông có đứa con trai Peisistratos này; khi người Athenai sống ở vùng bờ biển xung đột với người Athenai vùng đồng bằng, trong đó Megakles con trai Alkmaion là thủ lĩnh phái thứ nhất, và Lykourgos con trai Aristoleides là thủ lĩnh phái đồng bằng, đứa con trai của Hippokrates nhắm tới việc giành tiếm chúa quyền cho chính mình và tập hợp một phái thứ ba. Tiếp theo, sau khi đã tập hợp những người ủng hộ và tự phong là thủ lĩnh của những người vùng núi, Peisistratos nghĩ ra một mưu kế như sau: Ông ta gây thương tích cho mình và những con la của mình, rồi sau đó đánh xe tới chợ như thể vừa thoát khỏi các đối thủ của mình, những người mà ông cáo buộc muốn giết ông khi ông ta đang đánh xe ra vùng nông thôn. Rồi Peistrastos yêu cầu giới bình dân cho ông một đội cận vệ, vì trước khi chuyện này xảy ra, ông ta đã tạo lập được danh tiếng khi chỉ huy quân đội chống lại người Megara, trong cuộc chiến này Peisistratos đã chiếm được Nisaia và lập được nhiều công trạng khác. Nhân dân Athenai đã bị lừa giao cho ông ta sử dụng những người được lựa chọn từ các công dân, những người này trở thành, không phải các tay giáo, mà các tay gậy của Peisistratos; vì bọn họ theo sau ông ta với gậy gỗ trong tay. Rồi những người này cùng Peisistratos làm chính biến và chiếm Akropolis. Sau đó Peisistratos cai trị Athenai, không làm xáo trộn các chức vụ đang tồn tại hay sửa luật; ngược lại, ông ta cai quản đô thị theo những định chế đã được thiết lập, thực hiện việc này một cách công bình và tốt đẹp.
60. Tuy nhiên, không lâu sau biến cố kể trên, những người ủng hộ Megakles và Lykourgos liên minh với nhau và đánh đuổi ông ta. Peisistratos đã giành lấy quyền cai trị Athenai lần đầu tiên và đã đánh mất quyền lực như vậy, trước khi ông ta kịp củng cố thế lực. Nhưng những người đã đánh đuổi Peisistratos sau đó lại mâu thuẫn với nhau. Và Megakles, bị phiền toái bởi bất hòa phe phái, gửi một thông điệp tới Peisistratos hỏi xem ông có sẵn lòng cưới con gái ông ta làm vợ không để đổi lấy việc trở thành tiếm chúa. Sau khi Peisistratos chấp nhận lời đề xuất và lập một thỏa thuận dựa trên những điều khoản này, để nhằm đưa ông trở về, họ nghĩ ra một mưu kế, theo như tôi nghĩ, là mưu kế đơn giản nhất từng được thực hiện, ít nhất nếu cân nhắc tới việc nó được thực hiện vào thời điểm người Hy Lạp đã từ lâu nổi bật hơn hẳn so với man tộc về sự khôn khéo và thoát khỏi sự ngu dại, và trong hàng ngũ người Hy Lạp, người Athenai vốn được đánh giá hàng đầu về năng lực. Tại làng Paionia có một phụ nữ tên là Phya, thiếu 3 daktyloi1 nữa thì cao đúng 4 pekhes, và có thân hình rất đẹp. Họ mặc giáp trụ đầy đủ cho người phụ nữ này, đưa cô ta leo lên một chiếc mã chiến xa và chỉ cho cô ta cách cư xử để thể hiện tốt nhất vai của mình, rồi họ đánh xe vào thành phố, sau khi đã cử các tín sứ đi trước, những người này, khi tới thành phố, thông báo những gì họ được lệnh phải làm, và nói như sau: “Hỡi người Athenai, hãy nhiệt liệt hoan nghênh Peisistratos, kẻ được chính Athena ưu ái hơn tất thảy người trần, đưa về Akropolis của người”. Thế là các tín sứ đi hết chỗ này chỗ kia thông báo như vậy, và lập tức từ khắp các ngôi làng lan truyền tin tức nữ thần Athena đang đưa Peisistratos trở lại. Và thị dân, tin tưởng người phụ nữ kia chính là nữ thần, đã cầu nguyện trước cô ta và hoan nghênh Peisistratos đã trở lại.
1. 1 daktylos (sn: daktyloi) tương đương 1,9 cm. (BT)
61. Sau khi giành lại tiếm chúa quyền theo cách kể trên, tuân theo thỏa thuận với Megakles, Peisistratos đã cưới con gái Megakles; nhưng vì ông đã có các con trai trưởng thành, đồng thời hậu duệ của Alkmaion lại được cho là phải chịu một lời nguyền, vậy nên Peisistratos không muốn có thêm con từ người vợ mới cưới, và đã không quan hệ với người phụ nữ theo cách thông thường. Ban đầu, người vợ giữ bí mật việc này, nhưng sau đó cô kể với mẹ mình, có phải để trả lời những câu dò hỏi của bà mẹ hay không thì tôi không thể nói chắc; và bà mẹ nói với chồng, Megakles. Ông này rất phẫn nộ vì bị Peisistratos sỉ nhục như vậy; và trong cơn giận dữ, Megakles lập tức hòa giải với phe đối lập. Và khi Peisistratos biết được những gì đang được thực hiện chống lại mình, ông rời khỏi vùng và tới Eretria, nơi ông ta cùng các con trai bàn bạc, và lời khuyên của Hippias thuyết phục được tất cả, theo đó họ cần nỗ lực giành lại tiếm chúa quyền, và họ bắt đầu gom góp tiền từ các thành bang đã mắc nợ họ vì những lợi ích nhận được; và rất nhiều nơi đóng góp các khoản tiền lớn, song góp tiền nhiều hơn cả là người Thebai. Sau đó, để không kể lể dài dòng, thời gian trôi qua và cuối cùng mọi thứ đã sẵn sàng cho cuộc hồi hương. Từ Peloponnesos, một số người Argos đã tới để làm lính đánh thuê, và một người Naxos, có tên là Lygdamis, đã tự tìm đến với họ, và tỏ ra rất nhiệt thành trong việc cung cấp cả tiền lẫn người.
62. Sau 11 năm lưu vong, họ ra khơi từ Eretria và hồi hương. Và tại Attika, nơi đầu tiên họ chiếm giữ là Marathon. Trong khi họ đóng trại ở đó, những người ủng hộ từ trong thành phố tìm đến với cha con Peisistratos, cũng như các dân làng, họ mong muốn tiếm chúa chế hơn tự do.
Vậy là những người này tập hợp lại, song người Athenai ở trong thành phố, trong suốt thời gian cha con Peisistratos tích cóp tiền, rồi sau đó, khi ông ta chiếm cứ Marathon, đều không để tâm tới những biến cố này; nhưng khi họ hay tin ông ta đang từ Marathon hành quân về Athenai, họ liền tập hợp lại để đối phó với ông ta. Những người này dồn toàn lực để chiến đấu chống lại những kẻ lưu vong muốn trở về, và lực lượng dưới quyền Peisistratos, trên đường từ Marathon tiến về thành phố đã chạm trán với họ ngay khi họ tới chỗ đền Athena Pallenis, và cắm trại đối diện với họ. Thế rồi, theo sự chỉ dẫn của các vị thần, có một người tìm đến gặp Peisistratos, đó là Amphilytos, một thầy bói người Akarnania, ông đến gặp Peisistratos để phán lời tiên tri bằng câu thơ lục bộ cách sau:
Lưới đã được quăng và mắt lưới trải rộng,
Lũ cá ngừ sẽ lao xuyên màn đêm sáng trăng.
63. Amphilytos tuyên bố như vậy nhờ linh cảm, và Peisistratos, sau khi hiểu và nói ông ta chấp nhận lời tiên tri đã được đưa ra, liền dẫn quân đội của mình tấn công kẻ thù.
Đúng vào thời điểm đó, những người Athenai tới từ thành phố còn đang ăn sáng, và một số người sau bữa ăn đang chơi xúc xắc hay ngủ; vậy là đội quân của Peisistratos ập tới và khiến họ phải tháo chạy. Trong khi những người này bỏ chạy, Peisistratos nảy ra một mưu mẹo rất khôn khéo để khiến những người này không thể tập hợp thành một khối thống nhất nữa mà tiếp tục bị phân tán ở bên ngoài. Ông ta cho các con trai của mình cưỡi lên lưng ngựa và cử các con đi trước mình; và khi bắt kịp những kẻ đào tẩu, họ liền nói lại những gì Peisistratos đã ra lệnh cho họ, trấn an từng người và hối thúc họ trở về nhà.
64. Người Athenai làm đúng như vậy, và thế là Peisistratos chiếm Athenai lần thứ ba, và ông củng cố vững chắc tiếm chúa quyền của mình nhờ lính đánh thuê đông đảo và nguồn tiền dồi dào, xuất phát một phần từ chính lãnh thổ này, một phần từ vùng sông Strymon, và cũng từ việc bắt làm con tin con trai của những người Athenai còn ở lại không lập tức chạy trốn rồi giao họ vào tay người Naxos; nơi này cũng bị ông chinh phục bằng chiến tranh và giao cho Lygdamis cai quản. Thêm vào đó, ông đã thanh tẩy đảo Delos theo chỉ dẫn của dự ngôn giả; việc thanh tẩy được ông thực hiện như sau: Cho tới hết tầm mắt khi nhìn ra từ ngôi đền, ông cho khai quật tất cả các thi thể được chôn ở phần đất này lên và chuyển tới một khu vực khác trên đảo Delos. Vậy là Peisistratos cai trị Athenai, dù một số công dân đã ngã xuống khi chiến đấu, và một số khác tháo chạy khỏi vùng cùng các Alkmaionidai.
65. Đó là tình hình của người Athenai mà Kroisos biết được vào lúc đó. Về người Lakedaimon, ông được biết họ đã thoát khỏi những tai họa lớn lao và lúc này đã giành phần thắng trước người Tegea trong chiến tranh.
Khi Leon và Hegesikles là vua của Sparta, người Lakedaimon, vốn rất thành công trong tất cả các cuộc chiến khác của họ, đã bại trận liên tiếp dưới tay người Tegea. Hơn thế, vào thời kỳ trước, họ là dân tộc được cai quản tệ nhất tại Hy Lạp, cả trong các vấn đề nội bộ và trong quan hệ với những người bên ngoài vốn bị họ xa lánh. Và họ đã chuyển đổi sang một thành bang có trật tự tốt theo cách sau.
Khi Lykourgos, một người Sparta có tiếng tăm, ghé thăm dự ngôn giả tại Delphoi, nữ tư tế Pythia đã nói những lời này ngay khi ông bước vào thánh địa:
Ngươi đã đến ngôi đền trù phú của ta, Lykourgos,
Kẻ được Zeus và các vị thần linh cư trú trên Olympos yêu quý.
Ta không biết liệu nên phán ngươi là thần hay người.
Nhưng ta thiên về việc tin ngươi là một vị thần, Lykourgos.
Một số người nói thêm là nữ tư tế Pythia còn bày cho ông cách thiết lập các trật tự vẫn tồn tại ngày nay ở Sparta; song bản thân người Lakedaimon nói Lykourgos, sau khi trở thành người nhiếp chính cho đứa cháu Leobotes, vua của Sparta, đã mang những luật lệ này về từ Krete. Vì ngay khi nhiếp chính, ông đã thay đổi tất cả các luật lệ sẵn có, áp dụng các biện pháp để chúng không vi phạm tới các định chế của ông; rồi sau đó Lykourgos thiết lập các định chế liên quan tới chiến tranh, cụ thể là enomotiai1, triekades2 và syssitia3, và thêm vào đó còn có các ephoroi (giám sát quan) và nguyên lão.
1. enomotia (sn: enomotiai): Đơn vị của quân đội Sparta. Mỗi enomotia gồm từ 25 đến 36 người.
2. triekas (sn: triekades): Đơn vị của quân đội Sparta. Mỗi triekas gồm 30 người. (BT)
3. Nhóm người ăn chung. (BT)
66. Sau khi thay đổi như vậy, người Sparta có pháp luật tốt, và với Lykourgos, sau khi ông mất, họ dựng một ngôi đền và thờ cúng ông rất trang trọng. Rồi sau đó, như hoàn toàn có thể đoán được, với một vùng đất màu mỡ và cư dân đông đảo, họ lập tức vươn lên và trở nên sung túc; với họ, ở yên một chỗ không còn làm họ hài lòng nữa; cho rằng mình mạnh hơn người Arkadia, họ hỏi ý dự ngôn giả Delphoi về việc chinh phục toàn bộ Arkadia; và nữ tư tế Pythia trả lời như sau:
Đòi ta Arkadia ư? Các ngươi đòi hỏi quá nhiều. Ta từ chối.
Có rất nhiều người tại Arkadia, tất cả đều ăn hạt sồi,
Chúng sẽ cản đường các ngươi. Nhưng ta không hận các ngươi.
Ta sẽ ban Tegea làm nơi lai vãng cho các ngươi, một đồng bằng đẹp đẽ
Để nhảy múa và đo đạc bằng dây.
Khi người Lakedaimon được hồi đáp, họ liền để mặc vùng Arkadia và tiến quân tới Tegea với những chiếc xiềng trên tay, tin tưởng vào một dự ngôn giả bịp bợm và trông đợi sẽ nô dịch được người Tegea. Nhưng họ bại trận, và những người bị bắt làm tù binh buộc phải đeo những chiếc xiềng mà họ đã mang theo, và phải “đo đạc bằng dây” đồng bằng Tegea. Những bộ xiềng họ mang theo thậm chí còn được lưu giữ đến tận thời của tôi tại Tegea, treo trong đền Athena Alea.
67. Như tôi đã nói, trong cuộc chiến tranh trước đây, người Lakedaimon đã chiến đấu với người Tegea và liên tục gặp bất lợi; song đến thời của Kroisos, khi Anaxandridas cùng Ariston trị vì ở Lakedaimon, họ cuối cùng cũng giành ưu thế theo cách sau.
Khi họ tiếp tục bị người Tegea đánh bại trong chiến tranh, họ phái các sứ giả tới Delphoi và hỏi họ cần khẩn cầu vị thần nào để chiến thắng. Nữ tư tế Pythia trả lời họ rằng họ cần mang hài cốt của Orestes, con trai Agamemnon, về Sparta. Sau đó, vì không thể tìm thấy mộ Orestes, họ lại cử người tới thỉnh cầu thần linh để hỏi vị trí Orestes được an táng, và các sứ giả nhận được câu trả lời này:
Tại Tegea thuộc Arkadia, trên mặt đất bằng phẳng,
Nơi hai luồng gió phải thổi,
Cú đánh đáp lại cú phản đòn, và thống khổ chồng chất thống khổ.
Tại đó mặt đất ban sự sống nắm giữ con trai Agamemnon;
Hãy đưa người về nhà, và các ngươi sẽ làm chủ Tegea.
Khi người Lakedaimon nghe được câu trả lời, họ vẫn không tài nào tìm ra ngôi mộ cho dù đã tìm kiếm khắp nơi, cho tới khi Likhas, một trong những người Sparta được gọi là Agathoergoi (Ân nhân) phát hiện ra nó. Agathoergoi gồm năm người già nhất rời khỏi hàng ngũ kỵ binh mỗi năm; sau khi giải ngũ, họ được phái đi bất cứ nơi nào được yêu cầu và tích cực phụng sự thành bang.
68. Likhas, một trong những người này, đã phát hiện ra ngôi mộ ở Tegea nhờ vào cả vận may và năng lực. Vì lúc đó đang có thỏa ước đình chiến với người Tegea, ông này đã đến một lò rèn ở đó và đang theo dõi quá trình rèn sắt; và ông rất kinh ngạc khi chứng kiến những gì được làm. Vì thế, người thợ rèn, nhận thấy vị khách ngỡ ngàng, liền dừng tay và nói: “Hỡi người lạ Lakedaimon, hẳn nếu ông từng thấy điều tôi đã thấy một lần, ông sẽ vô cùng kinh ngạc, vì lúc này ông có vẻ rất ngỡ ngàng với quá trình rèn mẫu sắt này; vì tôi đây, vào lúc muốn đào một cái giếng trong khuôn viên này, đã đào phải một chiếc quan tài dài tới 7 pekhes; vì không tin được từng có những người cao lớn hơn con người ngày nay, tôi liền mở quan tài ra, và thấy rằng cái xác bên trong cũng dài bằng quan tài; rồi sau khi đã đo xong, tôi liền lấp lại đất lên quan tài”. Người thợ rèn đã kể lại những gì trông thấy cho vị khách như vậy; còn Likhas, sau khi ngẫm nghĩ về những gì nghe được, liền phỏng đoán cái xác kia là Orestes theo lời dự ngôn giả, và đi đến phỏng đoán của ông như sau: Khi Likhas thấy người thợ rèn có hai cặp bễ, ông kết luận rằng đó là hai luồng gió, còn đe và búa chính là cú đánh và cú phản đòn, còn thỏi sắt đang rèn chính là “thống khổ chồng chất thống khổ”, vì rằng sắt đã gây ra sự đau thương của nhân loại. Sau khi suy đoán như vậy, ông ta trở về Sparta và báo lại toàn bộ vấn đề với các công dân. Người Lakedaimon sau đó vu cáo và trục xuất ông.
Trở lại Tegea, Likhas kể cho người thợ rèn biết vận rủi của mình, đồng thời thuyết phục người thợ rèn cho ông ta thuê khuôn viên. Thoạt đầu, người thợ rèn không đồng ý, song cuối cùng Likhas cũng thuyết phục được ông này, và ông ta lưu lại đó, rồi đào ngôi mộ lên và thu nhặt tất cả hài cốt, sau đó mang chúng trở về Sparta. Từ đó trở đi, bất cứ khi nào người Lakedaimon và người Tegea giao chiến, người Lakedaimon lại có lợi thế. Cho tới giờ họ đã khuất phục được phần lớn Peloponnesos.
69. Kroisos, sau khi được thuật lại tất cả những việc này, đã phái sứ giả mang theo tặng phẩm tới Sparta để đề nghị liên minh, lệnh cho các sứ giả phải nói chính xác những gì mình đã dặn dò. Và các sứ giả này, khi tới nơi, đã nói: “Hỡi người Lakedaimon, vị thần qua một dự ngôn giả đã lệnh cho ta liên minh với người Hy Lạp, vì thế, do ta được biết các vị là thủ lĩnh của Hy Lạp, ta kêu gọi các vị liên minh theo thần dụ, mong muốn trở thành bằng hữu và đồng minh của các vị, không có mọi thủ đoạn và lừa gạt”.
Kroisos đã tuyên bố như vậy với người Lakedaimon qua các sứ giả của mình, và người Lakedaimon, vốn cũng đã biết thần dụ ban cho Kroisos, rất vui mừng trước sự xuất hiện của sứ đoàn Lydia và trao đổi với họ lời thề của tình bằng hữu và đồng minh; vì họ cũng bị ràng buộc với Kroisos bởi một số việc nhà vua đã làm cho họ từ trước thời gian này; vì người Lakedaimon từng tìm tới Sardis và mua vàng tại đó để dùng tạc tượng Apollon hiện đang được để trên Thornax tại Lakonia, và Kroisos đã tặng vàng cho họ.
70. Vì lý do này, người Lakedaimon chấp nhận liên minh, và cũng vì ông đã chọn họ thay cho những người Hy Lạp khác. Và không chỉ họ đã sẵn sàng khi Kroisos đưa ra lời đề nghị, mà người Lakedaimon còn cho đúc một chiếc bình pha rượu bằng thanh đồng, bên ngoài thành bình phủ kín những hình trang trí, lớn tới mức đựng được 300 vò, và nói với sứ đoàn muốn tặng làm quà cho Kroisos.
Chiếc bình này không bao giờ tới được Sardis vì những lý do đã được thuật lại theo hai nguồn như sau. Người Lakedaimon kể rằng khi chiếc bình đang trên đường tới Sardis qua đảo Samos, người Samos, khi hay tin, liền đưa chiến thuyền ra khơi và đánh cắp nó. Tuy nhiên, người Samos kể rằng những người Lakedaimon được giao chuyên chở chiếc bình, khi biết họ đã đến quá muộn và hay tin Sardis thất thủ, còn Kroisos bị bắt làm tù binh, đã bán chiếc bình tại Samos, một vài người đã mua chiếc bình rồi dâng nó làm lễ vật tại đền Hera. Nhiều khả năng những kẻ đã bán chiếc bình khi trở về Sparta đã kể lại rằng người Samos đã cướp mất nó từ tay bọn họ. Đó là số phận của chiếc bình.
71. Kroisos, trong khi đó, hiểu lầm ý nghĩa của thần dụ,đã dẫn quân tiến tới Kappadokia, trông đợi sẽ đả bại Kyros và tiêu diệt đế quốc của người Ba Tư. Trong lúc Kroisos chuẩn bị, một người Lydia, người thậm chí từ trước thời điểm này đã được coi là một nhà hiền triết, và do đó có tiếng tăm rất lớn về sự thông tuệ trong những người Lydia, đã khuyên Kroisos như sau (tên ông là Sandanis): “Tâu bệ hạ, ngài đang chuẩn bị hành quân chống lại những người mặc quần bằng da, và phần trang phục còn lại của họ cũng bằng da; họ ăn những thức ăn không phải như họ ưa thích mà là những gì họ có thể lấy được, sống tại một vùng đất gồ ghề; và hơn nữa, họ không dùng rượu vang mà uống nước; họ cũng không có trái vả nào để tráng miệng, hay bất cứ món ngon nào khác. Thế nên, nếu bệ hạ đánh bại họ, ngài sẽ cướp được gì của họ, khi họ vốn đã chẳng có gì? Mặt khác, nếu bệ hạ bị đánh bại, thử nghĩ xem ngài sẽ mất bao nhiêu thứ tốt đẹp; vì một khi đã nếm qua các món ngon của chúng ta, họ sẽ bám chặt lấy và sẽ không thể nào đuổi họ đi được. Về phần mình, thần biết ơn các vị thần vì họ đã không gieo vào đầu người Ba Tư ý nghĩ tấn công người Lydia”. Nhà hiền triết đã nói như vậy và không thuyết phục được Kroisos: vì đúng là người Ba Tư quả thực không hề có bất cứ sự xa xỉ hay món ngon nào trước khi họ chinh phục được người Lydia.
72. Người Kappadokia1 được người Hy Lạp gọi là người Syria. Trước khi quyền lực Ba Tư trỗi dậy, họ thần phục người Media, song vào thời gian này họ là thần dân của Kyros. Biên giới giữa vương quốc Media và Lydia là sông Halys; con sông này chảy từ vùng sơn cước Armenia qua người Kilikia, rồi sau đó, khi dòng sông chảy tiếp, bên phải nó là người Matienoi và bên trái là người Phrygia; sau đó, dòng sông ra khỏi vùng đất của các tộc người này rồi chảy ngược về phía Gió Bắc, ở phía đông là người Syria thuộc Kappadokia, còn phía tây là người Paphlagonia. Như vậy, sông Halys tách biên giới của gần như toàn bộ Tiểu Á khỏi biển chúng ta đối diện với Kyros về phía biển Euxeinos. Nơi này là yết hầu của cả bán đảo, chiều dài của nó khiến một người đàn ông mất năm ngày để đi hết.
1. Khu vực ngày nay ở miền trung Thổ Nhĩ Kỳ.
73. Và Kroisos tiến quân vào Kappadokia vì các lý do sau đây: Thứ nhất, vì nhà vua muốn chiếm vùng đất này để thêm vào lãnh thổ của mình, và sau đó đặc biệt là vì ông tin tưởng vào dự ngôn giả và muốn báo thù Kyros vì Astyages. Vì Astyages, con trai Kyaxares và vua người Media, là em rể Kroisos và đã bị Kyros phế truất. Mối quan hệ hình thành trong hoàn cảnh dưới đây.
Một đám người du mục Skythia xung đột với các bộ lạc khác đã rút lui và di cư đến Media. Khi đó người Media được cai trị bởi Kyaxares, con trai Phraortes và cháu Deiokes. Lúc đầu Kyaxares đối xử tốt với người Skythia, vì họ đã cầu xin sự che chở của nhà vua; và vì đánh giá họ rất cao, nhà vua đã đưa các bé trai tới chỗ họ để học ngôn ngữ và cung thuật. Thế rồi thời gian trôi qua, và người Skythia thường liên tục đi săn và luôn mang về thành quả nào đó. Cho đến một lần họ không săn được gì, và khi họ trở về tay không, Kyaxares (vốn không mấy quảng đại, như nhà vua đã chứng tỏ trong dịp này) đã đối xử với họ rất tàn tệ và sỉ nhục họ. Còn những người du mục, khi bị Kyaxares đối xử như vậy, cho rằng họ đã bị làm nhục, và lập mưu giết một trong những cậu bé đang được dạy dỗ ở chỗ họ rồi chặt xác ra từng khúc, tẩm ướp thịt như họ vẫn hay tẩm ướp thịt thú hoang, mang dâng lên Kyaxares, giả bộ đó là con mồi săn được. Sau khi đã làm vậy, ý định của họ là sẽ nhanh chóng chạy tới chỗ Alyattes con trai Sadyattes tại Sardis. Cuộc bỏ trốn sau đó được thực hiện; còn Kyaxares và tất cả thực khách của ông phải nếm qua món thịt kia, trong khi những người Skythia trở thành những người cầu xin sự che chở của Alyattes.
74. Sau chuyện này, vì Alyattes không chịu giao nộp người Skythia khi Kyaxares yêu cầu, chiến tranh đã nổ ra giữa người Lydia và người Media, kéo dài suốt năm năm, trong thời gian đó người Media có lúc đánh bại người Lydia và người Lydia có lúc đánh bại người Media (trong những lần giao tranh họ có cả một trận đánh vào ban đêm). Sau năm năm bất phân thắng bại, một trận chiến diễn ra và trong thời gian đó đột nhiên ngày biến thành đêm. Và sự thay đổi của ngày này đã được Thales người Miletos tiên đoán với người Ionia, và thậm chí còn nói rõ cả năm hiện tượng này xảy ra. Tuy nhiên, người Lydia và người Media, khi họ thấy ngày chuyển thành đêm, đã dừng giao chiến, và cả hai bên đều mong muốn thiết lập hòa bình. Những người làm trung gian đem lại hòa bình giữa hai phe là Syennesis người Kilikia và Labynetos người Babylon. Chính họ đã hối thúc việc tuyên thệhòa giải, và đưa đến một cuộc trao đổi hôn nhân. Họ quyết định rằng Alyattes cần gả con gái Aryenis cho Astyages, con trai Kyaxares, vì họ lường trước rằng nếu không có sự ràng buộc của một mối liên hệ chặt chẽ, các thỏa ước thường khó bền vững. Những dân tộc này cũng thực hiện cùng các nghi lễ tuyên thệ như người Hy Lạp, và thêm vào đó, họ còn cứa lên cánh tay mình, rồi sau đó liếm máu của nhau.
75. Astyages là ông ngoại của Kyros, đã bị Kyros tấn công và đả bại vì một lý do tôi sẽ nói rõ trong phần sau của câu chuyện này. Đây cũng là việc khiến Kroisos bất bình với Kyros khi ông phái sứ giả tới gặp dự ngôn giả để hỏi xem ông có nên tấn công người Ba Tư hay không; và khi nhận được một câu trả lời dễ gây hiểu nhầm, nhà vua liền dẫn quân vào lãnh thổ người Ba Tư, cho rằng câu trả lời có lợi cho mình.
Khi Kroisos tới sông Halys, theo lời kể tôi có được, ông cho quân vượt sông bằng những cây cầu có tại đó; nhưng theo giai thoại lưu truyền rộng rãi trong người Hy Lạp, chính Thales người Miletos đã giúp nhà vua đưa quân đội vượt sông. Vì, theo lời họ kể, khi Kroisos không biết làm cách nào để quân đội của mình có thể vượt sông (vì, họ kể thêm, vào thời điểm đó chưa hề có cây cầu nào ở các vị trí của chúng hiện nay), lúc ấy Thales có mặt trong đội quân đã khiến cho dòng sông, vốn đang chảy ở bên trái đạo quân, chảy sang một phần ở bên phải, và ông đã làm việc này như sau: Bắt đầu từ phía trên doanh trại, ông cho đào một con kênh sâu, tạo thành hình lưỡi liềm để dòng sông có thể chảy vòng qua đằng sau doanh trại theo lối này sau khi đã bị nắn khỏi dòng chảy cũ của nó bởi con kênh, rồi sau khi chảy qua sau doanh trại, dòng nước sẽ nhập trở lại vào dòng chảy cũ. Nhờ thế, ngay khi dòng sông bị tách làm đôi, cả hai nhánh đều trở nên có thể lội qua được; và một số người thậm chí còn kể là dòng chảy cũ của con sông bị khô cạn hoàn toàn. Song tôi không thừa nhận câu chuyện này là đúng, vì nếu thế làm cách nào đoàn quân này có thể vượt sông được khi họ quay trở về?
76. Khi Kroisos cùng đạo quân của mình vượt sông, ông đến vùng của Kappadokia có tên là Pteria (ngày nay Pteria là nơi mạnh nhất ở vùng này, và tọa lạc đâu đó trên cùng một đường với Sinope bên bờ biển Euxeinos). Tại đây, nhà vua cắm trại và tàn phá đồng ruộng của người Syria. Thêm vào đó, ông chiếm thành Pteria, đem dân ở đó bán làm nô lệ, rồi chiếm cả các đô thị quanh vùng. Người Syria, vốn không làm gì sai, đã bị nhà vua ép buộc phải rời bỏ nhà cửa của họ.
Trong khi đó, Kyros, sau khi tập hợp lực lượng của mình cùng với tất cả binh lực trong vùng ở giữa, đang tiến đến gặp Kroisos. Tuy nhiên, trước khi dẫn quân đội của mình xuất phát, ông đã phái các sứ giả tới chỗ người Ionia và tìm cách xúi giục họ nổi dậy chống lại Kroisos; song người Ionia không chịu làm như ông muốn. Sau đó, khi Kyros tới nơi và hạ trại đối diện với Kroisos, hai vị vua liền thử sức binh lực của nhau. Và sau trận đánh dữ dội, với nhiều người ngã xuống ở cả hai phía, cuối cùng màn đêm cũng buông xuống, hai đối thủ đành lui quân mà không bên nào giành được chiến thắng.
77. Kroisos không mấy hài lòng về quân số của mình (vì lực lượng liên hợp của ông bị đạo quân của Kyros áp đảo); đồng thời Kyros lại không tìm cách tấn công ông vào ngày hôm sau, Kroisos hành quân về Sardis với ý định kêu gọi người Ai Cập tới trợ giúp ông theo tuyên thệ (vì Kroisos đã liên minh với Amasis, vua Ai Cập, trước khi liên minh với người Lakedaimon), và cũng để kêu gọi cả người Babylon (vì Kroisos cũng liên minh với họ, và khi đó Labynetos là vua Babylon), rồi thêm nữa gửi thông điệp tới người Lakedaimon, yêu cầu họ tới hội quân vào một thời gian ấn định trước. Sau khi đã có tất cả các đồng minh này và đã tập hợp xong quân đội của chính mình, Kroisos định sẽ chờ qua mùa đông và tấn công Ba Tư khi xuân sang. Với những ý nghĩ này trong đầu, ngay khi về tới Sardis, ông lập tức phái các tín sứ tới những đồng minh để ước định với họ rằng họ cần hội quântại Sardis vào tháng thứ tư kể từ lúc đó. Nhưng đội quân đánh thuê Kroisos đang có bên mình và từng chiến đấu chống lại quân Ba Tư lại bị ông giải tán hoàn toàn, vì ông không hề trông đợi Kyros, sau khi đã chạm trán ông với vận hội ngang ngửa, lại có thể hành quân về Sardis.
78. Khi Kroisos đang có những kế hoạch trong đầu, ngoại ô thành phố bỗng đột nhiên tràn ngập rắn; và khi lũ rắn này xuất hiện, những con ngựa được thả cho ăn cỏ ngoài bãi lập tức xông tới và ngấu nghiến chúng. Khi Kroisos trông thấy cảnh này, nhà vua cho rằng đó là một điềm gở, và quả thực là như vậy. Ông lập tức phái các sứ giả tới nơi cư ngụ của người Telmessos biết diễn giải các điềm báo. Và các sứ giả này biết được từ người Telmessos ý nghĩa của điềm báo, nhưng họ không thể báo lại cho Kroisos, vì trước khi sứ đoàn dong buồm về Sardis, Kroisos đã bị bắt làm tù binh. Người Telmessos đã luận giải điềm báo như sau: Kroisos cần đề phòng một đạo quân ngoại bang sẽ xâm lược lãnh thổ của ông, và khi đạo quân này tới, nó sẽ khuất phục cư dân bản địa; vì họ nói rắn là sinh vật được sinh ra từ đất, trong khi ngựa là một kẻ thù xa lạ. Những người Telmessos đã trả lời Kroisos như vậy sau khi nhà vua bị bắt làm tù binh, song họ vẫn chưa hề biết gì về những chuyện xảy ra tại Sardis cũng như với chính Kroisos.
79. Khi Kroisos rút lui sau trận giao chiến tại Pteria, Kyros biết rằng sau khi rút lui về, Kroisos định giải tán đạo quân của mình. Kyros liền tự cân nhắc và đi đến kết luận tốt nhất ông nên hành quân nhanh nhất có thể đến Sardis, trước khi người Lydia kịp tập hợp lực lượng trở lại. Sau khi hạ quyết tâm, ông thực hiện ngay không chần chừ. Kyros dẫn đạo quân của mình tiến vào Lydia nhanh tới mức chính ông là người đầu tiên báo sự xuất hiện của mình với Kroisos. Sau đó Kroisos, dù lâm vào cảnh nguy nan, vì những gì ông dự định đều xảy ra trái ngược với kỳ vọng của ông, vẫn chỉ huy người Lydia ra trận. Vào thời gian này, không có dân tộc nào ở châu Á lại can trường và kiên cường trên chiến trường hơn người Lydia; họ chiến đấu trên lưng ngựa với những cây giáo dài, và là những kỵ sĩ xuất sắc.
80. Vậy là khi hai đạo quân gặp nhau tại vùng đồng bằng nằm trước Sardis – một đồng bằng rộng, trống trải, có những con sông chảy qua (nhất là sông Hyllos), tất cả đều chảy xuôi để hợp vào con sông lớn nhất mang tên Hermos bắt nguồn từ ngọn núi thiêng của nữ thần Dindymene, rồi đổ ra biển cạnh thành Phokaia.
Khi Kyros thấy người Lydia dàn trận, vì e ngại kỵ binh của họ, đã làm theo đề xuất của Harpagos, một người Media, như sau: Tất cả lạc đà đi theo đoàn quân của ông để chuyên chở lương thực và đồ đạc được nhà vua cho tập trung lại, dỡ hàng khỏi lưng rồi cho người ngồi lên lưng chúng, trang bị với khí giới của kỵ binh. Sau khi đã trang bị cho những người lính này như vậy, Kyros điều họ đi trước phần còn lại của quân đội tiến tới phía kỵ binh của Kroisos. Và đằng sau đội quân cưỡi lạc đà, ông bố trí toàn bộ lực lượng kỵ binh của mình. Thế rồi sau khi đã bố trí xong toàn bộ binh lực, Kyros lệnh cho họ không được tha mạng bất cứ người Lydia nào khác, giết tất cả những ai họ bắt gặp trên chiến trường, nhưng bản thân Kroisos thì không được giết, dù ông có chống cự khi bị bắt. Đó là mệnh lệnh của vua Ba Tư, và ông bố trí lạc đà đối diện với kỵ binh địch vì lý do này: vì ngựa sợ lạc đà và không chịu nổi khi phải nhìn thấy hình dáng hay ngửi phải mùi loài vật này. Cũng vì lý do này mưu kế đã được nghĩ ra, nhằm vô hiệu hóa kỵ binh của Kroisos, lực lượng vua Lydia trông cậy nhiều nhất trong trận đánh. Và khi hai đạo quân giáp chiến, ngay khi lũ ngựa ngửi thấy mùi lạc đà và thấy những con vật này, chúng liền quay đầu bỏ chạy, và mọi hy vọng của Kroisos lập tức tan thành mây khói. Tuy nhiên, về phần mình, các chiến binh Lydia đã không vì thế mà hành động một cách hèn nhát, khi nhận thấy điều đang xảy ra, họ liền xuống ngựa và chiến đấu trên bộ với người Ba Tư. Tuy nhiên, cuối cùng, sau khi đã có rất nhiều chiến binh ngã xuống ở cả hai bên, người Lydia quay đầu tháo chạy; và sau khi bị đẩy lùi vào trong các bức tường thành của mình, họ bị người Ba Tư bao vây.
81. Khi đó, cuộc vây hãm đã diễn ra. Nhưng Kroisos, cho rằng cuộc hãm thành sẽ kéo dài, liền cử các tín sứ từ trong thành tới gặp các đồng minh của mình. Những sứ giả trước được phái đi để thông báo với các đồng minh rằng họ cần hội quân tại Sardis trong bốn tháng, nhưng với các tín sứ này, nhà vua phái đi để yêu cầu đồng minh tới trợ giúp ông ngay lập tức, vì Kroisos đang bị vây hãm.
82. Vậy là khi cầu viện các đồng minh, ông cũng phái người tới Lakedaimon. Nhưng người Sparta, vào đúng thời điểm đó cũng đang bất hòa với người Argos về một vùng tên Thyrea, một nơi thuộc Argolis, song đã bị người Lakedaimon chia cắt và chiếm đóng. Ngày nay, toàn bộ vùng đất nằm về phía tây trải dài tới tận Malea thời ấy đều thuộc về người Argos, gồm đảo Kythera cùng những hòn đảo lân cận khác. Và khi người Argos kéo tới ứng cứu để tránh cho lãnh thổ của họ khỏi bị chia cắt, hai bên thương thảo với nhau và nhất trí rằng mỗi phía sẽ cử ra 300 người chiến đấu, và bên nào thắng trong trận chiến sẽ giành được vùng đất tranh chấp. Ngoài ra, họ còn nhất trí rằng quân chủ lực của cả hai phía cần rút về nước, không ở lại trong khi trận chiến diễn ra vì e rằng nếu hai đạo quân ở lại, khi một bên chứng kiến đồng bào của họ thất thế có thể sẽ tới ứng cứu. Sau khi thỏa thuận xong, hai bên cùng rút quân, và những người được chọn ở mỗi bên được để lại để chiến đấu với nhau. Vậy là họ chiến đấu và chứng tỏ mình là những đối thủ ngang sức ngang tài. Cuối cùng, trong 600 người chỉ còn lại ba người, phía Argos là Alkanor và Khromios, còn bên phía Lakedaimon chỉ có Othryades. Những người này còn sống sót khi màn đêm buông xuống. Sau đó, hai người Argos, cho rằng họ là những người chiến thắng, liền chạy về Argos, nhưng Othryades người Lakedaimon, sau khi đã lột vũ khí trên xác những người Argos và mang về trại bên mình, vẫn trở lại vị trí của anh. Ngày hôm sau, cả hai bên quay lại chiến trường để xem kết quả, và trong một hồi cả hai bên đều tuyên bố phần thắng thuộc về mình, một bên nói họ có nhiều người còn sống hơn, bên kia tuyên bố những người đó đã bỏ chạy, trong khi người của bên họ đã trụ lại vị trí và lột khí giới trên xác kẻ thù. Cuối cùng, vì cuộc tranh cãi này, hai bên xông vào nhau và bắt đầu giao chiến. Rồi sau khi rất nhiều người đã ngã xuống ở cả hai bên, người Lakedaimon giành phần thắng. Người Argos sau đó đã cắt tóc ngắn, trong khi trước đây họ bị luật bắt buộc phải để tóc dài, và họ lập ra một đạo luật với một lời nguyền kèm theo, quy định rằng từ đó trở đi không người đàn ông Argos nào được nuôi tóc dài, và phụ nữ của họ cũng không được đeo đồ trang sức bằng vàng, cho tới khi họ đã giành lại được Thyrea. Về phần mình, người Lakedaimon lại lập ra cho mình một đạo luật ngược lại, nghĩa là từ lúc đó trở đi họ sẽ để tóc dài, trong khi trước đây thì không. Và người ta kể rằng người chiến binh duy nhất còn sống sót trong số 300 người, tức Othryades, thấy hổ thẹn nếu trở về Sparta trong khi tất cả chiến hữu điều đã tử trận, đã tự sát ngay tại Thyrea.
83. Đó là tình hình đang diễn ra tại Sparta khi tín sứ từ Sardis tới yêu cầu họ trợ giúp Kroisos, người đang bị vây hãm. Bất chấp những khó khăn của chính mình, ngay khi biết tin từ tín sứ, họ đã hăng hái sẵn sàng đi trợ giúp vị vua đồng minh. Nhưng khi họ đã chuẩn bị xong và thuyền của họ đã sẵn sàng, thì tin thứ hai cho hay thành của người Lydia đã bị chiếm, và Kroisos đã bị bắt làm tù binh. Lúc đó họ mới dừng các nỗ lực của mình, buồn phiền trước biến cố này, coi nó như một tai họa lớn lao.
84. Việc thành Sardis bị chiếm đã diễn ra như sau: Đến ngày thứ 14 kể từ khi Kroisos bắt đầu bị vây hãm, Kyros ra tuyên bố với quân đội của ông sau khi điều kị binh tới các cánh quân khác nhau rằng ông sẽ thưởng cho người đầu tiên leo lên tường thành. Sau đó, đội quân của ông đã thử công thành, và khi đợt tấn công thất bại, khi tất cả những người khác đã dừng tấn công, một người Mardos tên là Hyroiades đã tìm cách tiếp cận tường thành ở nơi không có lính canh nào được bố trí, vì người trong thành không hề lo sợ thành có thể bị thất thủ từ phía đó, vì đây là nơi tường thành dốc đứng và không thể tấn công được. Và cũng chỉ có phần tường thành này là Meles, vua trước đây của Sardis, đã không mang con sư tử mà phi tần đẻ cho ông đi qua, trong khi người Telmessos đã đưa ra phán quyết là nếu con sư tử được mang đi một vòng quanh các tường thành, Sardis sẽ không bao giờ bị chiếm: và Meles đã mang con sư tử đi qua khắp những phần tường thành còn lại, nghĩa là những nơi tòa thành dễ bị tấn công, và bỏ qua phần dốc đứng không thể tấn công được này. Ngày nay, đó là phần tường thành quay về phía Tmolos. Khi đó, Hyroiades người Mardos này vốn hôm trước đã nhìn thấy một người Lydia làm cách nào leo xuống theo bức tường thành đó để tìm chiếc mũ chiến anh ta đánh rơi từ trên thành, đã ghi nhận lại điều này, suy nghĩ và ghi nhớ sự việc. Sau đó, đích thân anh ta leo lên tường thành đầu tiên, theo sau người chiến binh là các binh lính Ba Tư khác, và sau khi rất nhiều người vào thành theo cách này, Sardis cuối cùng đã bị chiếm, và cả thành phố bị cướp phá.
85. Trong khi đó, chuyện xảy đến với Kroisos diễn ra như sau: Như tôi đã nói trước đây, nhà vua có một con trai, hình thể cũng không đến nỗi nào song lại bị câm. Trước đây, vào thời còn hưng thịnh, Kroisos đã làm tất cả những gì có thể cho đứa trẻ, và bên cạnh những điều chính nhà vua nghĩ ra, ông cũng phái sứ giả tới Delphoi để hỏi về con trai mình. Và nữ tư tế Pythia đã trả lời ông như sau:
Hậu duệ của Lydia, vua của muôn người, hỡi Kroisos khờ khạo,
Chớ mong nghe thấy trong sảnh âm thanh mà ngươi đã khẩn cầu bao năm,
Giọng nói của con trai ngươi. Điều ngược lại tốt hơn cho ngươi.
Vì ngươi sẽ nghe được nó trước tiên vào ngày tàn của ngươi.
Khi thành bị chiếm, một chiến binh Ba Tư sắp sửa giết Kroisos vì tưởng nhầm nhà vua là người khác; và Kroisos, về phần mình, khi thấy anh ta xông tới, không hề bận tâm tới việc này vì tai họa đã ập xuống đầu nhà vua. Với ông, dù có bị giết bởi đòn tấn công cũng chẳng có gì khác biệt. Nhưng đứa con trai câm của nhà vua, khi thấy người lính Ba Tư xông tới, vì kinh hoàng và lòng hiếu thảo đã phá tan vòng kiềm tỏa tiếng nói của mình và hét lên: “Tên kia, không được giết Kroisos”. Anh ta, như tôi vừa kể, đã cất tiếng nói đầu tiên vào lúc đó, và tiếp tục nói được trong suốt phần đời còn lại.
86. Người Ba Tư chiếm được Sardis và bắt Kroisos làm tù binh, sau khi ông đã trị vì 14 năm và bị vây hãm trong 14 ngày, và như vậy thần dụ phán rằng nhà vua sẽ kết liễu đế quốc vĩ đại của chính mình, đã hoàn thành. Quân Ba Tư giải ông tới trước mặt Kyros. Vua Ba Tư cho dựng một giàn thiêu lớn, buộc Kroisos leo lên đó trong xiềng xích, và cùng với ông là 14 chàng trai Lydia, có thể Kyros định hiến tế lễ vật này như quả ngọt đầu tiên từ chiến thắng của ông lên một vị thần nào đó, hoặc có thể nhà vua định hoàn tất một lời thề, hoặc do ông từng nghe nói Kroisos là một người kính sợ các vị thần và do vậy buộc tù nhân phải bước lên giàn thiêu vì Kyros muốn biết liệu có vị thần nào có thể cứu được Kroisos khỏi bị thiêu sống hay không. Dù thế nào đi nữa, người ta kể lại Kyros đã làm vậy. Về phần Kroisos, khi ông đứng trên giàn hỏa, cho dù đang trong tình thế thật thê thảm, ông vẫn chợt nhớ tới những lời của Solon, và nhận ra nhà hiền triết đã nói với sự linh cảm rằng không ai khi còn sống có thể được gọi là người hạnh phúc. Khi ý nghĩ này lướt qua trong tâm trí Kroisos, người ta kể lại ông đã thở dài ngao ngán và than lớn tiếng sau một hồi lâu im lặng, và đã thốt ra tên Solon ba lần. Nghe thấy thế, Kyros lệnh cho phiên dịch hỏi Kroisos xem nhân vật người tù vừa gọi tên là ai. Những người phiên dịch liền lại gần và hỏi. Và người ta kể rằng Kroisos giữ im lặng một hồi khi được hỏi điều này, nhưng sau đó, khi bị thúc ép, ông nói: “Một người mà tôi ao ước được trò chuyện cùng còn hơn cả sự giàu có của tất cả các bậc quân vương”. Vì những lời ông nói có vẻ khó hiểu, các phiên dịch lại hỏi ông đã nói gì; vàvì họ rất gắt gao với Kroisos và không để cho người tù yên thân, ông liền kể lại việc từng có lần Solon, một người Athenai đã tới triều kiến ông, và sau khi chứng kiến tất cả sự giàu có của Kroisos đã coi nhẹ chúng, với những lời như thế và như thế; cũng như việc tất cả đã diễn ra trên thực tế với Kroisos đúng như những gì Solon đã nói, nếu nhìn nhận không chỉ riêng với bản thân Kroisos, mà với cả loài người, và nhất là những ai dường như tự thấy họ là người hạnh phúc.
Trong khi Kroisos thuật lại những điều này, giàn thiêu đã được châm lửa và phần rìa bắt đầu cháy. Sau đó, người ta kể lại rằng Kyros, nghe lại từ các phiên dịch những gì Kroisos đã nói, liền đổi ý và ngẫm tới việc chính nhà vua cũng chỉ là một con người, và đang đẩy một con người khác, từng không hề kém ông về vận hạnh, vào cảnh bị thiêu sống; càng nghĩ, Kyros càng sợ sự báo ứng, và càng nhận thức rõ không có gì con người sở hữu là chắc chắn cả; vì thế, như lời kể lại, Kyros ra lệnh cho thuộc hạ dập tắt lửa nhanh nhất có thể và đưa Kroisos cùng những người khác xuống khỏi giàn thiêu. Và khi đó người ta đã dùng những cách thức giờ đây không còn sẵn có để kiểm soát ngọn lửa.
87. Sau đó, người Lydia kể lại rằng Kroisos, biết được Kyros đã đổi ý như thế nào, đồng thời cũng thấy tất cả mọi người đang cố gắng dập lửa nhưng không thể kiểm soát được ngọn lửa, liền lớn tiếng khẩn cầu thần Apollon rằng, nếu từng có bất kỳ món lễ vật nào ông dâng tiến được thần chấp nhận, mong thần hãy tới giúp ông và cứu ông khỏi tai họa đang cận kề. Kroisos đã ứa nước mắt khẩn cầu thần như vậy, và người ta kể rằng đột nhiên, giữa trời quang mây tạnh, những đám mây tụ lại và một cơn bão kéo tới, trời mưa dữ dội, và giàn thiêu bị dập tắt. Sau đó Kyros, tận mắt chứng kiến Kroisos là một người được các vị thần sủng ái và là một người tốt, ra lệnh đưa ông xuống giàn thiêu và hỏi ông như sau: “Kroisos, hãy nói cho ta biết ai đã thuyết phục ngươi tiến quân vào lãnh thổ của ta và vì thế trở thành kẻ thù của ta thay vì một người bạn?” và Kroisos đáp: “Tâu bệ hạ, thần làm vậy cho hạnh vận của bệ hạ và sự bất hạnh của chính mình, và nguyên do dẫn tới điều đó là vị thần của người Hy Lạp, người đã thúc giục thần tấn công với quân đội của mình. Vì không ai lại mất trí tới mức tự mình đi chọn chiến tranh thay cho hòa bình, vì trong hòa bình những người con trai chôn cất cha của họ, nhưng trong chiến tranh những người cha phải chôn cất con trai của họ. Nhưng thần đoán là để làm vui lòng các vị thần mà những chuyện này cần phải diễn ra như thế”.
88. Ông đã nói như vậy, và Kyros cởi trói cho ông, đỡ ông tới ngồi cạnh mình và đối xử với Kroisos rất trân trọng, và cả chính nhà vua lẫn tất cả những người ở gần ông có thể nhìn thấy Kroisos đều không khỏi ngỡ ngàng về điều đó. Còn Kroisos, đắm mình trong suy tư, vẫn giữ im lặng. Nhưng sau một hồi, khi nhìn quanh và chứng kiến quân Ba Tư đang cướp phá thành phố của người Lydia, ông nói: “Tâu bệ hạ, liệu thần có nên nói với người những gì thần tình cờ đang nghĩ tới, hay thần nên giữ im lặng trong vận mệnh hiện tại của mình?” Kyros liền lệnh cho ông hãy can đảm mà nói ra bất cứ điều gì ông muốn. Kroisos liền hỏi: “Đám đông này đang làm gì hăng hái vậy?” và nhà vua đáp: “Họ đang cướp phá thành phố của ngươi và mang đi sự giàu có của ngươi”. Và Kroisos trả lời: “Nơi họ đang cướp phá không còn là thành phố của thần, và họ cũng không phải đang mang đi sự giàu có của thần, vì thần không còn chút quyền sở hữu nào trong những thứ này nữa. Song chính là sự giàu có của bệ hạ đang bị đám lính kia cướp đoạt và mang đi”.
89. Kyros không khỏi băn khoăn trước những lời Kroisos đã nói, nhà vua lệnh cho tất cả thuộc hạ lui ra rồi hỏi Kroisos xem nhà vua nên làm gì trước những gì đã xảy ra, và Kroisos đáp: “Vì các vị thần đã giao thần vào tay bệ hạ làm nô lệ, cũng là hợp lẽ nếu thần chỉ ra cho bệ hạ điều có lợi với bệ hạ rõ ràng hơn những người khác. Những người Ba Tư, vốn bản chất bất trị, không có trong tay tài sản gì. Vì thế, nếu bệ hạ chấp nhận để họ cướp phá mang đi những tài sản lớn và sở hữu chúng, khi đó bệ hạ sẽ phải sẵn sàng đón nhận kết quả này, đó là bất cứ kẻ nào chiếm được phần lớn nhất sẽ nổi loạn chống lại người. Vì thế, nếu những lời thần nói hợp ý bệ hạ, bây giờ xin bệ hạ hãy làm như sau: Hãy phái các tay giáo trong đội cận vệ của người tới canh gác tất cả các cổng thành, và lệnh cho những người này giữ lại của cải, đồng thời nói với những kẻ đã muốn mang chúng rời khỏi thành phố rằng trước hết của cải phải được dâng một phần mười lên Zeus đã. Bằng cách đó, một mặt bệ hạ sẽ không bị bọn họ căm ghét vì đã dùng vũ lực tước đi của cải, mặt khác bọn họ sẽ ngoan ngoãn chấp nhận bị thu lại chúng trong khi vẫn thừa nhận giữa bọn họ với nhau là bệ hạ đã làm điều đúng đắn”.
90. Nghe tới đây, Kyros vô cùng hài lòng, vì nhà vua nghĩ Kroisos đã đưa ra lời khuyên khôn ngoan. Và ông ban thưởng hào phóng cho Kroisos rồi lệnh cho các tay giáo trong đội cận vệ của mình thực hiện điều Kroisos đã khuyên. Sau đó, nhà vua đã nói với Kroisos thế này: “Kroisos, vì ngươi luôn sẵn sàng làm những điều tốt lành và nói ra những lời sáng suốt, giống như vị vua ngươi từng là, nên hãy xin ta một món quà, bất cứ điều gì ngươi muốn sẽ được ban cho ngươi”. Và Kroisos nói: “Hỡi chủ nhân, bệ hạ sẽ làm thần vui sướng nhất nếu người cho phép thần gửi tới vị thần của người Hy Lạp, vị thần mà thần đã tôn thờ nhất trong mọi vị thần, những xiềng xích này để hỏi xem vị thần có thấy việc lừa dối những người đã cư xử tốt với mình là đúng đắn hay không”. Sau đó, Kyros hỏi vị vua thất thế rằng ông có lời buộc tội nào đối với thần linh mà lại yêu cầu như thế. Và Kroisos kể lại cho vua Ba Tư tất cả những gì chất chứa trong tâm trí, cũng như câu trả lời của các dự ngôn giả, và đặc biệt là những lễ vật hào phóng, cũng như việc ông đã bị một dự ngôn giả khuyến khích tấn công người Ba Tư ra sao. Kể xong, Kroisos trở lại với lời khẩn cầu cho phép mình được thể hiện sự trách cứ này với thần linh. Kyros liền bật cười và nói: “Ngươi không chỉ nhận được điều này từ ta, Kroisos, mà bất cứ điều gì ngươi có thể muốn cầu xin ta vào bất cứ lúc nào”. Nghe được những lời này, Kroisos liền phái vài người Lydia tới Delphoi, căn dặn họ hãy đặt xiềng xích lên ngưỡng cửa ngôi đền và hỏi thần xem liệu thần có thấy hổ thẹn không khi bằng những lời tiên tri đã thôi thúc Kroisos tấn công người Ba Tư, thuyết phục rằng ông sẽ tiêu diệt đế quốc của Kyros, đồng thời dâng lên thần đống xiềng xích, chiến quả duy nhất ông nhận được từ cuộc chiến ấy. Họ cần hỏi như vậy, và thêm nữa cần hỏi thêm liệu các vị thần của người Hy Lạp có đúng không khi xử sự vô ơn đến thế.
91. Khi người Lydia tới nơi và nhắc lại đúng những gì họ được yêu cầu, người ta kể lại nữ tư tế Pythia đã phán như sau: “Ngay cả một vị thần cũng không thể thoát khỏi số phận định mệnh đã an bài. Và Kroisos phải trả món nợ tương xứng với tội lỗi của tổ tiên năm đời trước của y, kẻ vốn là tay giáo phụng sự cho các Herakleidai nhưng đã nghe theo mưu mô phản trắc của một người đàn bà và sát hại chủ nhân của mình để chiếm đoạt địa vị hoàng gia vốn không thuộc về hắn ta một cách hợp pháp. Và cho dù Apollon đã vô cùng mong mỏi tai họa ở Sardis có thể giáng xuống đầu các con trai Kroisos chứ không phải bản thân Kroisos, nhưng ngài không thể kéo định mệnh đi chệch khỏi con đường của nó, nhưng ngài cũng đã làm rất nhiều điều, và ban phát chúng như một món quà dành cho Kroisos. Vì thần đã đẩy lùi lại ba năm thời điểm Sardis thất thủ, và đảm bảo để Kroisos bị bắt làm tù binh chậm hơn cũng từng ấy năm so với thời gian trong định mệnh. Hơn nữa, thần đã trợ giúp cho nhà vua khi ông ta sắp sửa bị thiêu sống. Còn về câu trả lời của dự ngôn giả, Kroisos phải tự thấy mình có lỗi. Vì Apollon đã cảnh báo trước với nhà vua là nếu ông tấn công người Ba Tư, nhà vua sẽ tiêu diệt một đế quốc vĩ đại. Và đáng lẽ khi nghe được lời phán truyền này, nếu muốn nhận được lời khuyên xác đáng, nhà vua phải cử người tới hỏi cho rõ hơn liệu thần linh muốn nói tới đế quốc của chính ông ta hay đế quốc của Kyros. Nhưng vì Kroisos không hiểu những gì được phán truyền và không hỏi lại, nhà vua hãy nên tự coi mình là nguyên nhân của những gì xảy ra sau đó. Và lỗi cũng là của Kroisos khi không hiểu ý của Apollon về con la. Vì Kyros kỳ thực chính là con la đó, nếu xét tới việc vua Ba Tư được sinh ra từ bố mẹ thuộc hai dòng giống khác nhau, mẹ ông có nguồn gốc cao quý hơn, còn bố ông ít quý phái hơn, vì mẹ của Kyros là một phụ nữ Media, con gái Astyages, vua Media, trong khi cha của Kyros lại là một người Ba Tư, một tộc người nằm dưới quyền cai trị của người Media, và là một người xuất thân thấp kém hơn về mọi mặt, ông trở thành chồng của vị công chúa thành viên hoàng tộc cai trị mình”.
Nữ tư tế Pythia đã trả lời người Lydia như thế, và họ mang câu trả lời ấy về Sardis thuật lại cho Kroisos nghe. Và khi nghe xong, ông thừa nhận lỗi lầm hoàn toàn thuộc về mình chứ không phải thuộc về thần linh.
92. Về sự cai trị của Kroisos và cuộc chinh phục Ionia lần thứ nhất, chuyện đã xảy ra như thế. Hiện giờ tại Hy Lạp vẫn còn nhiều lễ vật khác do Kroisos dâng tiến, và không chỉ có những lễ vật đã được nhắc tới trước đây. Vì trước hết tại Thebai, thuộc vùng đất của người Boiotia, có một chiếc giá ba chân bằng vàng được nhà vua dâng lên Apollon Ismenios. Tại Ephesos có những bức tượng bò bằng vàng cùng phần lớn các trụ của ngôi đền. Và trong đền Athene Pronaia ở Delphoi có một chiếc khiên lớn bằng vàng. Những lễ vật này vẫn còn được lưu lại tới tận thời tôi, song nhiều lễ vật khác của Kroisos đã thất lạc, và các lễ vật ông dâng tiến ở Brankhidai tại Milesia, như tôi được nghe kể, cũng nặng ngang và có hình thức tương tự với những lễ vật tại Delphoi. Những lễ vật ông gửi tới Delphoi và tới ngôi đền Amphiaraos thuộc sở hữu của chính ông, là thành quả đầu tiên của sự giàu có ông thừa hưởng từ cha; nhưng những lễ vật khác được lấy từ tài sản của một đối thủ của ông, người đã lôi kéo bè đảng chống lại ông trước khi Kroisos trở thành vua và hậu thuẫn Pantaleon làm vua Lydia. Pantaleon là anh của Kroisos, con trai của Alyattes với một phụ nữ khác. Vì mẹ Kroisos là người Karia, hạ sinh cho Alyattes, còn mẹ Pantaleon là người Ionia. Và khi Kroisos giành được vương quốc do cha truyền lại, ông đã giết kẻ chống đối mình, hành hạ kẻ đó đến chết bằng cào sắt; và tài sản của người này, vốn đã được nhà vua thề sẽ dành hiến cho các vị thần từ trước đó, liền được ông dâng lên những ngôi đền kể trên. Về những lễ vật của ông, nói như vậy kể cũng là đủ.
93. Về những kỳ quan cần được nói tới, miền đất Lydia không có gì nhiều nếu so sánh với các miền đất khác, ngoại trừ thứ bụi vàng được đưa xuống từ núi Tmolos; nhưng có một công trình cần nhắc đến, đồ sộ hơn bất cứ công trình nào khác ngoại trừ các công trình tại Ai Cập và Babylon: vì tại miền đất này có mộ của Alyattes cha Kroisos, với phần đáy được làm từ những tảng đá lớn, còn phần còn lại của mộ phần được đắp bằng đất. Ngôi mộ được xây nhờ sự đóng góp của các thương nhân, thợ thủ công, và cả các kỹ nữ đã buôn bán, hành nghề tại đó; và đến thời tôi vẫn còn tồn tại năm tảng đá đánh dấu được dựng trên ngôi mộ này, trên đó có khắc chữ cho biết có bao nhiêu phần của công trình được mỗi tầng lớp thực hiện; và theo các tính toán, hóa ra phần đóng góp của các cô gái là lớn nhất. Vì con gái giới bình dân ở Lydia đều hành nghề mại dâm để tích cóp của hồi môn cho mình, và liên tục hành nghề như thế cho tới khi kết hôn; và các cô gái có quyền chọn nơi gả mình trong hôn nhân. Ngày nay, chu vi ngôi mộ là 6 stadia 2 plethra1, và chiều rộng là 13 plethra. Và bên cạnh ngôi mộ là một hồ nước lớn, nơi người Lydia nói có nguồn nước không bao giờ cạn, và được gọi là hồ của Gyges. Bản chất của công trình này là vậy.
1. 1 plethron (sn: plethra) tương đương 30,8 cm.
94. Người Lydia có tập quán gần giống người Hy Lạp, ngoại trừ việc họ cho con gái của mình đi bán dâm; họ cũng là tộc người đầu tiên, theo những gì chúng ta biết, đúc và sử dụng tiền vàng hay bạc; và họ cũng là những nhà buôn bán lẻ đầu tiên. Bản thân người Lydia nói những trò chơi hiện tại đang thịnh hành trong cộng đồng của họ cũng như trong cộng đồng Hy Lạp cũng là do họ phát minh. Họ cho rằng chúng được phát minh vào cùng thời gian họ thực dân hóa Tyrrhenia, và người Lydia kể lại như sau: Dưới thời trị vì của Atys, con trai Manes, một nạn đói khủng khiếp lan tràn toàn Lydia. Cư dân Lydia đã chịu đựng trong một thời gian, nhưng sau khi nạn đói không chấm dứt, họ tìm kiếm cách giải thoát khỏi nỗi giày vò, và một người nghĩ ra cách này, rồi một người khác nghĩ ra một cách khác. Thế rồi, theo lời họ kể, sau đó họ đã khám phá ra cách chơi xúc xắc, chơi xương đốt và chơi bóng, và tất cả các trò chơi khác trừ cờ đam (vì người Lydia không tuyên bố đã phát minh ra trò chơi này). Những trò chơi này được họ phát minh ra như một cách chống lại nạn đói, và cứ như thế, họ thường làm thế này: Vào một ngày, họ sẽ chơi cả ngày để không cảm thấy đói nữa, rồi đến ngày kế tiếp họ ngừng các trò chơi và ăn; rồi cứ như thế, họ trải qua 18 năm. Tuy vậy, khi tai họa vẫn không lắng dịu mà ngày càng đè nặng lên họ, nhà vua của họ liền chia toàn bộ dân cư Lydia thành hai phần, và ông quyết định bằng rút thăm một nửa ở lại, còn nửa kia rời khỏi vùng đất này. Nhà vua tự chỉ định mình sẽ là người cai trị phần dân cư ở lại, còn con trai ông cai trị những người sẽ ra đi, và tên người con trai đó là Tyrsenos. Thế là một phần dân cư, sau khi đã chọn rút thăm phải rời khỏi vùng đất họ đang sống, liền đi xuống phía biển tại Smyrna và đóng thuyền cho mình, đưa lên thuyền tất cả những gì mang đi được mà họ có, rồi dong buồm ra khơi tìm sinh kế và một vùng đất để cư ngụ. Sau khi đã đi qua nhiều dân tộc, cuối cùng họ tới Oumbria, và tại đó họ thiết lập các đô thị và định cư tới tận ngày nay. Những người này cũng đổi danh xưng theo tên vị hoàng tử đã dẫn dắt họ rời khỏi bản quán, là người Tyrrhenoi, chứ không phải người Lydia. Người Lydia sau đó đã bị chinh phục và trở thành thần dân Ba Tư như tôi đã kể.
95. Sau biến cố này, chúng ta sẽ khảo cứu về Kyros, người đã tiêu diệt đế quốc của Kroisos, và về những người Ba Tư, xem bằng cách nào họ đã vươn lên cai trị ở châu Á. Vì thế, tôi xin nói tôi sẽ viết theo những lời thuật lại của một số người Ba Tư – ý tôi là những người không muốn tâng bốc khi kể về Kyros mà thuật lại câu chuyện này theo đúng thực tế. Ngoài ra tôi cũng sẽ đưa ra những dị bản của câu chuyện theo ba cách khác nhau.
Người Assyria cai trị vùng thượng châu Á trong 520 năm, và người Media là cộng đồng đầu tiên nổi dậy chống lại họ. Những người này, sau khi đã chiến đấu chống lại người Assyria vì tự do, đã chứng tỏ bản thân họ là những người tốt, và cứ như thế họ đã rũ bỏ được ách nô lệ và giành lại tự do cho mình. Tiếp sau họ, các dân tộc khác cũng làm tương tự như người Media. Và khi cả châu lục đã trở nên độc lập, họ lại quay trở lại ách cai trị chuyên chế như thế này.
96. Trong cộng đồng người Media xuất hiện một người có năng lực xuất chúng tên là Deiokes, con trai Phraortes. Deiokes, người đã nuôi tham vọng chuyên quyền, đã hành động như sau: Trong khi người Media sống tại những ngôi làng tách biệt nhau, ông ta, vốn từ trước đó đã rất có danh tiếng trong làng mình, liền bắt tay vào thực thi công lý một cách nỗ lực và nhiệt thành hơn trước. Và ông thực hiện điều này bất chấp tình trạng vô pháp còn rất phổ biến trên toàn Media, và biết rõ bất công luôn đối kháng với công lý. Vậy là các người Media trong cùng làng, khi chứng kiến những gì ông làm, liền chọn ông làm pháp quan của họ. Và Deiokes, vốn luôn nhắm tới quyền lực, liền tỏ ra chính trực và công bằng, nhờ đó giành được không ít lời ca ngợi từ đồng bào của ông, trong khi những cư dân sống tại những làng khác, biết được Deiokes là một người đưa ra những phán quyết xác đáng hơn những người khác, trong khi trước đó họ đã quen phải chịu đựng những phán quyết bất công, cũng hài lòng tìm đến Deiokes khi nghe tiếng về ông để những bất bình của họ được phán xử, và rồi cuối cùng họ không còn tin tưởng vào bất kỳ ai khác.
97. Sau đó, khi ngày càng có nhiều người tìm tới với ông, vì người ta biết được các quyết định ông đưa ra chứng tỏ là phù hợp với sự thật, còn Deiokes khi nhận thấy mọi thứ đều được mang tới cho mình xét đoán liền không tiếp tục có mặt ở nơi trước kia ông từng vẫn ngồi để định đoạt chính nghĩa nữa, vì với ông sẽ chẳng có lợi gì khi sao nhãng việc riêng để lo cho việc của láng giềng cả ngày. Kể từ đó, vì nạn trộm cướp và hỗn loạn còn hoành hành tệ hơn trước đó tại các ngôi làng, người Media đã tập trung lại để cùng bàn bạc với nhau về tình trạng hiện tại. Và tôi đoán rằng những người bạn của Deiokes đã nói rất nhiều về việc đó: “Một khi thấy rõ chúng ta không thể sống ở vùng đất này trong tình trạng hiện tại, hãy lập một người trong số chúng ta lên làm vua, như thế vùng đất này sẽ được cai trị tốt, và chúng ta sẽ lao động trở lại, và sẽ không bị sự hỗn loạn làm cho khánh kiệt nữa”. Bằng những lời như thế, họ đã thuyết phục chính họ về việc nên có một vị vua.
98. Và khi họ chuyển sang câu hỏi xem nên lập ai lên làm vua, Deiokes được nhiều đề xuất và ủng hộ nhất, cho tới cuối cùng họ nhất trí rằng ông ta nên trở thành vua của họ. Và ông ta yêu cầu người dân phải xây cho ông ta một cung điện xứng đáng với uy nghi của hoàng gia, rồi tăng cường sức mạnh cho mình bằng một đội lính cận vệ cầm giáo. Và người Media làm theo. Họ đã xây cho Deiokes một cung điện rộng rãi vững chắc tại khu đất ông ta yêu cầu, rồi cho phép ông ta lựa chọn lính cận vệ từ tất cả người Media. Và khi Deiokes giành được quyền cai trị, ông ta liền ép buộc người Media phải xây một tòa thành và dồn sự chú ý vào thành phố này, ít để tâm tới các thành phố khác. Khi người Media tuân phục ông ta cả trong việc này nữa, Deiokes đã xây nên những bức tường đồ sộ vững chãi, ngày nay được gọi là Ekbatana, được xây thành từng vòng nằm lồng vào nhau. Bức tường thành được thiết kế rất khéo léo để một vòng thành cao hơn vòng thành kế tiếp bằng đúng chiều cao của một mình phần công sự. Như tôi đoán, ở mức độ nào đó, bản chất địa hình nơi này, nếu tính tới việc tòa thành được xây trên một ngọn đồi, đã giúp tạo ra thành quả đó. Nhưng phần chủ yếu xuất phát từ kỹ nghệ thi công, vì có tất cả bảy vòng tường thành. Bên trong vòng thành cuối cùng là cung điện hoàng gia cùng các nhà kho. Vòng thành lớn nhất có chiều dài bằng bức tường thành bao quanh Athenai; và ở vòng tường thành thứ nhất các công sự có màu trắng, ở vòng thứ hai có màu đen, vòng thứ ba có màu huyết dụ, vòng thứ tư màu lam, vòng thứ năm màu đỏ. Cứ như thế, công sự của tất cả các vòng thành được sơn với những màu sắc khác nhau, còn hai vòng thành trong cùng, một vòng thành có các công sự được dát bạc, vòng còn lại dát vàng.
99. Deiokes đã cho xây những vòng tường thành này cho mình và bao quanh cung điện của ông ta, rồi ông ta lệnh cho dân chúng tới sống quanh các tường thành. Sau khi đã xây xong, Deiokes thiết lập quy tắc cai trị, và ông ta là người đầu tiên làm điều này, quy định rằng không ai được phép vào diện kiến nhà vua, mà chỉ bẩm tấu lên nhà vua qua những người đưa tin; và không ai được phép trông thấy nhà vua, hơn nữa, việc cười cợt hay khạc nhổ khi nhà vua có mặt là bất kính, những quy định này áp dụng cho tất cả thần dân không ngoại lệ. Giờ đây, nhà vua duy trì quanh mình những lễ nghi này để bạn bè, từng lớn lên cùng nhà vua và có xuất thân không hề thấp kém hơn, hay thua kém ông về những phẩm chất con người, khỏi cảm thấy buồn phiền khi trông thấy nhà vua và âm mưu chống lại ông, và nhờ việc không để họ thấy mình, ông có thể được nghĩ đến như thuộc về một đẳng cấp khác.
100. Sau khi đã thiết lập mọi thứ trật tự và củng cố ngôi vị của mình, Deiokes rất nghiêm khắc trong duy trì công lý. Dân chúng thường viết ra những việc kiện tụng của họ và gửi cho nhà vua xem, rồi ông phán xử những câu hỏi được gửi cho mình, sau đó gửi ra các câu trả lời. Bằng cách đó, nhà vua thường phán xử các vụ kiện tụng. Ông cũng nghiêm khắc trong duy trì trật tự, nghĩa là nếu nhà vua biết được ai đó cư xử không đúng luật lệ, ông liền triệu kẻ đó tới và trừng trị tương xứng với hành vi sai trái, và nhà vua có tai mắt ở khắp nơi trên toàn lãnh thổ ông cai trị.
101. Như vậy Deiokes đã thống nhất người Media, trở thành người cai trị họ, và người Media bao gồm những bộ lạc sau đây: Bousai, Paratakenoi, Stroukhates, Arizantoi, Boudioi, Magoi, số lượng bộ lạc của họ rất lớn.
102. Con trai của Deiokes là Phraortes, người được kế thừa quyền lực khi Deiokes qua đời sau khi đã làm vua trong 33 năm. Được kế vị ngôi vua, tân vương không hài lòng với việc chỉ là người cai trị của người Media, nên đem quân tấn công người Ba Tư. Tấn công họ trước những tộc người khác, nhà vua bắt họ thần phục người Media. Sau đó, trở thành vua của hai dân tộc, cả hai đều hùng mạnh, Phraortes tiếp tục chinh phục châu Á, từ dân tộc này đến dân tộc khác, cho tới khi cuối cùng nhà vua tấn công người Assyria, ý tôi là những người Assyria tại Ninos, trước đây từng là kẻ cai trị cả châu lục, song vào thời điểm đó không còn sự hỗ trợ của các đồng minh vốn đã nổi dậy chống lại họ, cho dù ở thành phố của mình họ vẫn khá giàu có. Như tôi đã nói, Phraortes tấn công những người này, và ông cùng phần lớn đạo quân của ông bị tiêu diệt.
103. Sau khi đã trị vì 53 năm, Kyaxares con trai Phraortes kế vị. Ông được cho là hiếu chiến hơn các bậc tiền bối, và ông là người đầu tiên biên chế những chiến binh châu Á thành các đơn vị riêng rẽ, có nghĩa là nhà vua là người đầu tiên đã tách riêng lính cầm giáo, cung thủ và kỵ binh khỏi nhau, vốn trước đó rất ô hợp. Cũng chính vị vua này đã chiến đấu với người Lydia khi ngày biến thành đêm giữa lúc hai bên giao chiến, và cũng là người thống nhất toàn bộ châu Á ở phía trên sông Halys dưới sự cai trị của mình.
Sau khi tập hợp tất cả thuộc quốc của mình, ông tiến quân tới Ninos để báo thù cho cha, và cũng vì ông thèm muốn chinh phục thành phố này. Sau khi ông đã chiến đấu với người Assyria và đánh bại họ, đúng lúc nhà vua đang ngồi xuống trước Ninos thì một đạo quân lớn người Skythia ập tới tấn công, chỉ huy của họ là Madyas con trai Protothyes, vua của người Skythia.
Người Skythia đã xâm lược châu Á sau khi đẩy lui người Kimmerioi khỏi châu Âu, và trong cuộc truy đuổi này người Skythia đã tới lãnh thổ Media.
104. Từ hồ Maiotis tới sông Phasis và vùng đất của người Kolkhis là một cuộc hành trình dài 30 ngày cho một người không phải mang nặng; và từ Kolkhis tới Media cũng không mấy xa, vì giữa hai vùng đất này chỉ có một dân tộc là người Saspeires, và chỉ cần băng qua dân tộc này là ta đã tới Media. Tuy nhiên, người Skythia không xâm lược theo con đường kể trên, mà rẽ khỏi nó để đi theo đường nội địa dài hơn nhiều, men theo dãy Kaukasos ở bên phải họ.
Người Media vậy là phải chiến đấu với người Skythia, và do thất trận, họ đánh mất quyền lực của mình, còn người Skythia giành được quyền cai trị trên toàn châu Á.
105. Tiếp theo, họ tiến hành xâm lược Ai Cập, và khi họ đang ở Syria, nơi được gọi là Palaistine, vua Ai Cập Psammetikhos tới gặp họ. Bằng những món lễ vật cùng sự khẩn cầu, nhà vua khiến người Skythia thay đổi ý định, nhờ đó họ không tiến xa hơn nữa. Trong lúc rút lui, khi họ qua thành Askalon ở Syria, phần lớn người Skythia đi qua thành phố mà không gây ra bất cứ tổn hại nào, nhưng một số nhỏ, những người nán lại sau, đã cướp phá ngôi đền Aphrodite Ourania. Ngôi đền này, theo những gì tôi tìm hiểu, là đền lâu đời nhất trong tất cả các ngôi đền của Aphrodite, vì theo người Kypros thuật lại, ngôi đền tại Kypros được lập nên bắt nguồn từ ngôi đền này, và chính người Phoinike đã dựng lên ngôi đền tại Kythera khi họ tới đó từ Syria. Như tôi đã kể, người Skythia cướp phá ngôi đền tại Askalon, và hậu duệ của những người này vĩnh viễn bị thần trừng phạt bằng một chứng bệnh biến đàn ông thành đàn bà. Người Skythia kể chính vì lý do này họ bị nhiễm bệnh, và cũng vì thế các du khách ghé thăm Skythia thời nay thấy trong số họ dấu hiệu của những người mà người Skythia gọi là các Enarees.
106. Trong 28 năm người Skythia thống trị châu Á, và cách hành xử bạo ngược và khinh suất của họ đã hủy hoại mọi thứ. Vì một mặt họ bắt tất cả các dân tộc bị cai trị phải cống nạp cho họ, và ngoài khoản cống nạp, người Skythia thường cưỡi ngựa đi các vùng và dùng vũ lực cướp đi tài sản của từng bộ lạc.
Thế rồi Kyaxares và người Media, sau khi mời đa số người Skythia tới dự yến tiệc, chuốc cho họ say và giết họ. Nhờ đó, người Media khôi phục sức mạnh, và lại thống trị các dân tộc khác như trước, đồng thời họ cũng chiếm được Ninos – việc thành phố này bị chiếm ra sao tôi sẽ thuật lại trong một câu chuyện khác – và khuất phục toàn Assyria ngoại trừ vùng Babylon. Sau 40 năm cai trị người Media, kể cả thời kỳ người Skythia thống trị, Kyaxares qua đời.
107. Astyages, con trai Kyaxares, kế vị. Astyages có một con gái được ông đặt tên là Mandane. Và trong giấc ngủ, nhà vua nằm mơ thấy cô gái đi tiểu nhiều tới mức ngập cả thành phố của ông và cũng ngập cả châu Á. Nhà vua liền thuật lại giấc mơ này cho người giải mộng của các Magoi1, và khi nghe được sự thật từ họ, từng lời đều khiến nhà vua sợ hãi.
1. Ở 1.101, Magoi là một trong các bộ lạc Media, nhưng cũng dùng để chỉ một đẳng cấp gồm các tư tế theo hầu vua Media và cử hành các nghi lễ thiêng. Magos (sn: Magoi) cũng để chỉ một vị tư tế. (BT)
Sau đó, khi công chúa Mandane đến tuổi lấy chồng, nhà vua không gả con cho bất cứ người Media nào có địa vị tương xứng với mình, vì ông sợ lời tiên đoán trong giấc mơ. Thay vì thế, nhà vua gả con gái cho một người Ba Tư tên là Kambyses, người ông tìm hiểu được là có dòng dõi đàng hoàng và tính khí điềm đạm, cho rằng chàng trai này có địa vị còn kém xa một người Media trung lưu.
108. Trong năm đầu tiên của cuộc hôn nhân này, Astyages lại có một giấc mơ khác. Ông mơ thấy một dây nho mọc lên từ âm hộ con gái, và dây nho này lan ra khắp châu Á. Sau khi mơ thấy giấc mơ này và thuật lại nó cho các nhà giải mộng, nhà vua cho triệu con gái, lúc đó đang mang thai, quay về từ vùng đất của người Ba Tư. Và khi công chúa quay về, nhà vua liền cho canh giữ cô, với mong muốn tiêu diệt đứa trẻ sẽ được công chúa sinh ra, vì các Magoi đã phán với nhà vua rằng con đẻ của con gái ông sẽ cai trị trên ngôi báu của ông. Astyages sau đó muốn ngăn chặn điều này, và khi Kyros được sinh ra, nhà vua liền gọi Harpagos, một người họ hàng gần gũi và được ông tin tưởng hơn tất cả những người Media khác, đến mức giao cho ông ta xử lý mọi công việc của mình. Nhà vua nói với Harpagos như sau: “Harpagos, không được sao nhãng vì bất cứ lý do nào việc ta sắp giao cho ngươi, và hãy coi chừng nếu ngươi phản bội ta vì lợi ích của kẻ khác, chuyện đó sẽ khiến ngươi mất mạng. Hãy mang đứa trẻ Mandane sinh ra về nhà ngươi và giết nó đi. Sau đó hãy chôn nó theo bất cứ cách nào ngươi muốn”. Trước mệnh lệnh, Harpagos liền trả lời: “Tâu bệ hạ, trong quá khứ chưa bao giờ bệ hạ từng thấy ở thần điều gì có lỗi với bệ hạ, và thần luôn cẩn thận soi mình để sau này cũng không phạm phải lỗi lầm nào với bệ hạ. Nếu ý nguyện của bệ hạ muốn việc này được thực hiện, ít nhất về phần mình thần sẽ làm trọn bổn phận”.
109. Harpagos trả lời nhà vua như vậy, và khi đứa trẻ mặc đồ sang trọng được trao cho ông ta để mang đi thủ tiêu, Harpagos về nhà khóc lóc kể lại cho vợ nghe tất cả những lời Astyages đã nói. Và bà vợ nói với ông ta: “Bây giờ ông định sẽ làm gì?” và ông ta trả lời: “Tôi sẽ không làm như Astyages ra lệnh, vì cho dù nhà vua có mất trí và điên loạn hơn so với hiện tại, tôi cũng sẽ không làm như ông ta muốn hay phục tùng ông ta trong một việc sát nhân thế này. Và vì nhiều lý do tôi sẽ không giết đứa trẻ. Trước hết, vì nó là một họ hàng thân thích với tôi, thứ đến là vì Astyages đã già và không có con trai, vậy nếu như sau khi qua đời quyền lực chuyển về con gái ông ta, như thế chẳng phải hiểm nguy lớn nhất sẽ chờ đợi tôi sao? Để an toàn cho tôi, đứa trẻ này phải chết, nhưng một trong các hầu cận của Astyages phải là kẻ giết nó, chứ không phải người của tôi”.
110. Ông ta nói như vậy, rồi lập tức phái một tín sứ tới gặp một trong những mục đồng của Astyages mà ông ta biết đang chăn thả bầy gia súc ở những khu đồng cỏ thích hợp nhất cho mục đích của ông ta, nằm ở vùng núi non đầy rẫy thú hoang. Người mục đồng này tên là Mitradates, anh ta cưới một phụ nữ cũng chung cảnh nô lệ như mình, tên người vợ là Kyno theo tiếng Hy Lạp, và Spako theo tiếng Media, vì người Hy Lạp gọi “chó cái” là kyna, trong khi người Media gọi là spaka. Người mục đồng chăn thả bầy gia súc ở dưới chân dãy núi chạy từ Ekbatana về phía Gió Bắc và về phía biển Euxeinos. Vì ở đây, về hướng người Saspeires lãnh thổ Media chủ yếu là núi non sừng sững được rừng rậm che phủ, song phần còn lại của vùng Media lại toàn là đồng bằng. Khi người mục đồng có mặt theo lời triệu tập gấp gáp, Harpagos đã nói thế này: “Astyages ra lệnh cho ngươi mang đứa bé này đi và bỏ nó lại nơi hoang vu nhất trên núi, để nó chết càng nhanh càng tốt. Và ngài yêu cầu ta nói với ngươi là nếu ngươi không giết đứa trẻ mà bằng bất cứ cách nào che chở nó, ngài sẽ giết ngươi theo cách tàn khốc nhất, và ta đã được chỉ định để chứng kiến rằng đứa trẻ đã được thủ tiêu”.
111. Khi đã nghe hết và nhận lấy đứa trẻ, người mục đồng quay lại theo con đường cũ trở về nơi ở của mình. Trong khi ấy vợ anh ta cũng đang sắp sửa vượt cạn, và do sự tình cờ của số mệnh đã sinh con đúng lúc người chồng đang vào thành phố. Và cả hai vợ chồng họ đều lo lắng cho nhau, người chồng thì lo cho vợ lúc sinh nở, còn người phụ nữ lại lo sợ về lý do khiến Harpagos gọi chồng cô tới gặp ông ta, trong khi trước đây hiếm khi làm vậy. Vì thế, ngay khi người chồng trở về và đứng trước mặt người vợ, vốn không dám hy vọng sẽ được nhìn thấy lại chồng, là người lên tiếng trước, hỏi về lý do gì đã khiến Harpagos cho gọi gấp gáp tới vậy. Người chồng đáp rằng: “Vợ ơi, khi anh tới thành phố, anh đã thấy và nghe những điều anh ước gì đã không nhìn thấy, và mong rằng chúng không bao giờ xảy ra với các chủ nhân chúng ta phụng sự. Vì cả nhà Harpagos đều chìm trong tang tóc, và anh đã rất kinh ngạc không biết chuyện gì xảy ra bên trong. Và ngay khi bước vào trong, anh đã trông thấy một đứa trẻ sơ sinh đang hổn hển thở và gào khóc, đứa trẻ đó đeo những món trang sức bằng vàng và quấn trong tã lót thêu. Khi Harpagos thấy anh, ông ta lập tức yêu cầu anh nhận lấy đứa trẻ, mang nó đi và bỏ nó lại trên núi ở nơi nhiều thú hoang nhất, nói rằng chính Astyages đã giao việc này cho anh, đồng thời đe dọa anh nếu làm không xong việc này. Thế là anh nhận lấy đứa trẻ rồi mang nó đi, đoán rằng đó là con của một người hầu nào đó trong nhà, vì anh chẳng thể nào đoán nổi nguồn gốc thực sự của nó. Nhưng anh lấy làm kinh ngạc khi thấy đứa trẻ đeo đầy vàng và tã lót sang trọng, anh cũng kinh ngạc khi người ta than khóc cho nó một cách công khai tại nhà Harpagos. Rồi ngay sau đó, khi đang đi trên đường, anh biết được toàn bộ câu chuyện từ người hầu đi cùng anh ra khỏi thành phố và trao đứa bé vào tay anh, rằng thực tế đứa bé là con trai của Mandane, con gái Astyages và Kambyses, con trai của Kyros, và Astyages đã ra lệnh giết đứa trẻ. Và đứa bé đây”.
112. Nói xong, người mục đồng mở cái rương đựng đứa trẻ ra. Người vợ, thấy đứa bé thật bụ bẫm khỏe mạnh, đã bật khóc và quỳ xuống ôm lấy đầu gối chồng, cầu xin người chồng không được làm hại nó. Nhưng người chồng nói anh ta không thể làm khác được, vì những thủ hạ sẽ được Harpagos phái tới để kiểm tra xem đứa trẻ đã bị thủ tiêu chưa, và anh ta sẽ chết bi thảm nếu không hoàn thành việc này. Vì không thể làm cách nào thuyết phục được chồng, người vợ liền nói như sau: “Vì em không thể thuyết phục anh đừng giết đứa trẻ, hãy làm điều mà em sẽ nói với anh đây, nếu cần thiết phải làm như thế. Em cũng đã sinh một đứa con, nhưng đứa trẻ đã chết khi vừa chào đời. Hãy mang đứa trẻ đã chết này bỏ vào rừng, và chúng ta sẽ nuôi đứa con của con gái Astyages như thể đó là con chúng ta. Như thế, anh sẽ không bị phát giác đã phạm lỗi với các chủ nhân chúng ta phụng sự, đồng thời chúng ta cũng không mang tội cho mình; vì đứa trẻ đã chết sẽ có được một tang lễ hoàng gia, còn đứa trẻ này sẽ không phải mất mạng”.
113. Với người mục đồng, có vẻ vợ anh ta đã nói đúng trong hoàn cảnh lúc ấy, và anh ta đã làm theo lời vợ. Anh ta trao đứa trẻ đáng lẽ phải giết cho vợ mình, còn đứa con đã chết, anh ta đón lấy và cho vào cái rương đã dùng để mang đứa trẻ kia về nhà. Rồi sau khi cho đứa con đã chết mặc tất cả đồ trang sức và tã lót của đứa trẻ kia, anh ta mang con mình tới nơi hẻo lánh nhất trên núi và bỏ lại đó. Ba ngày sau khi bỏ lại đứa trẻ trên núi, người mục đồng đi vào thành phố, để một người giúp việc cho mình lại canh chừng. Khi tới nhà Harpagos, anh ta liền nói đã sẵn sàng cho xem xác đứa bé. Harpagos liền phái đi những tay giáo thân tín nhất của mình, và qua những kẻ này ông ta đã xác nhận và chôn cất đứa con của người mục đồng. Đứa bé này được an táng, song đứa trẻ sau này được biết đến dưới tên gọi Kyros đã được vợ người mục đồng nuôi nấng, và cô vợ chắc hẳn đã đặt cho cậu bé một cái tên khác, chứ không phải là Kyros.
114. Khi cậu bé lên 10 tuổi, chuyện sau đây đã xảy ra, khiến cậu được biết đến. Cậu bé đang chơi trong làng, nơi có các chuồng bò cùng những bé trai. Và lũ trẻ, trong trò chơi của chúng, đã chọn cậu bé vốn được biết là con trai người mục đồng làm vua của chúng. Cậu bé liền sai vài cậu bạn trong đám đi xây cung điện, số khác trở thành lính cận vệ của cậu, và hẳn là có một cậu bạn được cậu bé chỉ định làm cận thần của nhà vua, rồi một cậu khác làm người đưa tin, cứ như thế chỉ định một chức danh cho mỗi đứa bạn. Thế rồi có một cậu bé trong đám trẻ đang chơi, con trai của Artembares, một người có danh tiếng ở Media, không chịu làm chức trách Kyros giao cho cậu ta. Vì thế, Kyros ra lệnh cho những đứa trẻ khác giữ lấy chân tay cậu bé này, và khi mệnh lệnh của cậu được tuân theo, cậu liền xử sự với cậu bé kia rất nặng tay bằng cách đánh roi. Cậu bé này, ngay khi được thả ra, trở nên tức giận hơn vì cho rằng đã bị đối xử một cách nhục nhã, liền đi xuống thành phố và than phiền với cha về hình phạt phải chịu từ Kyros, khi đó cậu bé vẫn chưa có cái tên Kyros, mà là con trai người mục đồng của Astyages. Và Artembares, trong lúc tức giận, đã lập tức tới gặp Astyages, dẫn theo cả cậu con trai, và tuyên bố đã phải chịu đựng những điều bất công rồi nói: “Tâu bệ hạ, chúng tôi đã phải chịu sỉ nhục thế này từ con trai của gã mục đồng, nô lệ của người”, và chỉ cho nhà vua thấy đôi vai của con trai ông ta.
115. Và Astyages, sau khi nghe câu chuyện và thấy các vết roi, liền muốn trừng phạt đứa con trai người mục đồng để đền bù danh dự cho Artembares, và cho gọi người mục đồng và con trai tới. Khi cả hai đã có mặt, Astyages nhìn Kyros và nói: “Là đứa con có một người cha tầm thường như vậy, sao ngươi lại dám đối xử nhục mạ một cách hỗn xược như thế với con trai của người được ta sủng ái nhất?” Và cậu bé trả lời thế này: “Tâu bệ hạ, thần có quyền đối xử với cậu ta như thế. Vì các cậu con trai trong làng, và cậu ta cũng là một trong số này, trong trò chơi của mình đã tôn thần lên làm vua của họ, vì với họ dường như thần thích hợp nhất cho vị trí này. Những cậu con trai khác thực hiện những gì thần ra lệnh cho họ, nhưng cậu ta lại bất tuân và không thèm để ý, để cuối cùng cậu ta phải nhận hình phạt thích đáng. Nếu vì vậy mà thần đáng phải chịu bất cứ sự trừng phạt nào, thì thần đang ở đây, trước mặt bệ hạ”.
116. Trong khi đứa trẻ trả lời như vậy, Astyages nhận ra cậu, và nhà vua nhận thấy những đường nét trên khuôn mặt cậu dường như giống với chính ông, và câu trả lời của cậu có vẻ quá tự do so với địa vị, trong khi tuổi tác của cậu bé dường như cũng trùng với độ tuổi của cháu ông. Sững sờ trước những điều này, nhà vua không thốt nên lời suốt hồi lâu. Cuối cùng, sau khi phải khó khăn lắm mới trấn tĩnh lại, nhà vua cho Artembares lui ra để ông có thể ở lại một mình với người mục đồng và tra xét anh ta: “Artembares, ta sẽ ban ra phán quyết khiến cả ngươi lẫn con trai ngươi đều không có lý do gì để bất bình”, rồi cho Artembares ra về, còn các người hầu, theo lệnh Astyages, dẫn Kyros vào trong. Khi người mục đồng chỉ còn lại một mình với nhà vua, Astyages hỏi anh ta có được đứa trẻ khi nào, và ai là người trao đứa bé cho anh ta. Người mục đồng liền trả lời cậu bé chính là con trai anh ta, còn mẹ cậu bé vẫn sống cùng anh ta, và là vợ anh ta. Nhưng Astyages nói người mục đồng đang xử sự thiếu khôn ngoan khi muốn phải chịu những cực hình cần thiết phải viện đến. Vừa nói, nhà vua vừa ra hiệu cho các tay giáo cận vệ của mình bắt lấy người mục đồng. Anh này, khi bị điệu đi tra tấn đã khai ra sự thật: Anh ta thuật lại tất cả từ đầu đến cuối, nói ra toàn bộ sự thật, và kết thúc bằng lời khẩn cầu nhà vua ân xá cho mình.
117. Khi người mục đồng đã nói ra sự thật, Astyages không còn mấy bận tâm tới anh ta, song nhà vua trở nên rất bất bình với Harpagos và sai cận vệ triệu ông ta tới. Khi Harpagos đến diện kiến, Astyages hỏi ông ta: “Harpagos, ngươi đã triệt hạ đứa trẻ ta giao cho ngươi, vốn do con gái ta sinh ra, bằng cái chết như thế nào?” và Harpagos, thấy người mục đồng đang có mặt trong cung điện, đã không hề tìm cách nói dối để tránh bị phát giác và kết tội, mà trả lời như sau: “Tâu bệ hạ, ngay khi nhận lấy đứa trẻ, thần đã tìm kiếm lời khuyên và cân nhắc nên làm thế nào để thi hành ý chỉ của bệ hạ, và làm cách nào để không bất tuân mệnh lệnh của bệ hạ mà thần vẫn không phạm phải tội giết người với công chúa và với chính bệ hạ. Vì vậy thần đã làm thế này: Thần gọi người mục đồng này đến và giao lại đứa trẻ cho anh ta, nói trước hết rằng bệ hạ lệnh cho anh ta giết nó – và ít nhất trong chuyện này thần đã không nói dối, vì bệ hạ có hạ lệnh như vậy. Thần giao đứa trẻ cho người đàn ông kia và lệnh cho anh ta bỏ nó lại trên một ngọn núi hoang vu, rồi ở lại trông chừng, theo dõi đứa trẻ cho tới khi nó chết, đồng thời thần đã đe dọa anh ta bằng đủ thứ hình phạt nếu không hoàn thành việc này. Anh ta đã làm những gì được lệnh phải làm và đứa trẻ đã chết, thần đã cử những hoạn quan thân tín nhất đi giám sát, và thông qua chúng, thần đã chứng kiến xác đứa trẻ và chôn cất nó. Tâu bệ hạ, câu chuyện đã diễn ra như thế, và đứa trẻ đã chết theo cách thần vừa thuật lại”.
118. Harpagos tuyên bố sự thật là vậy, và Astyages cố nén cơn thịnh nộ vì những gì đã xảy ra, rồi trước hết ông kể lại sự thật như ông đã biết từ người mục đồng, và kết thúc bằng việc nói rằng đứa trẻ vẫn còn sống, và rằng những gì đã xảy ra thật hay, “vì”, Astyages nói tiếp, “ta đã bất an rất nhiều vì những gì đã làm với đứa trẻ này, và ta nghĩ mối bất hòa ta phải chịu đựng với con gái ta cũng không phải chuyện dễ chịu gì. Thế nên ta nghĩ đây là một thay đổi may mắn của số mệnh, và ngươi trước hết hãy sai con trai ngươi tới bên cậu bé vừa mới tới đây, rồi sau đó, vì ta định sẽ dâng lễ cảm tạ chư vị thần linh vì đã gìn giữ tính mạng cho đứa trẻ, ngươi hãy tới đây dùng bữa tối cùng ta”.
119. Khi Harpagos nghe được những lời này, ông ta liền tạ ơn nhà vua và vô cùng phấn khởi khi thấy sự phạm thượng của mình cuối cùng lại có lợi cho ông ta, hơn thế còn được mời dự bữa tối cùng nhà vua đang vui vẻ, và về nhà trong tâm trạng đó. Sau khi đi thẳng về nhà, ông ta liền cho gọi con trai tới, vì Harpagos chỉ có độc nhất cậu con trai mới chừng 13 tuổi, và bảo con trai tới cung điện của Astyages rồi tuân theo những gì nhà vua ra lệnh. Còn bản thân ông ta cực kỳ hân hoan kể lại với bà vợ những gì vừa xảy đến với mình. Song Astyages, khi con trai Harpagos tới nơi, đã cắt cổ cậu thiếu niên và chặt cậu ta thành từng khúc, rồi nướng một phần thịt, luộc phần còn lại, và chế biến cho bữa ăn. Khi đến bữa tối và các vị khách, trong đó có cả Harpagos, đều đã có mặt, trước mặt các vị khách khác và trước mặt chính Astyages, thịt cừu được bày ra, song trước mặt Harpagos được bày ra lại là thịt của chính con trai ông này, tất cả ngoại trừ cái đầu, hai bàn tay và đôi bàn chân, những phần này được để riêng một bên trong một cái giỏ và đậy kín. Thế rồi khi Harpagos dường như đã no nê, Astyages hỏi ông có vừa lòng với bữa tiệc hay không. Khi Harpagos nói ông ta vô cùng hài lòng, những người được giao thực hiện việc này liền mang tới cho ông ta cái đầu cùng bàn chân bàn tay của con trai ông ta được che kín trong giỏ. Đứng cạnh vị khách, họ mời ông này mở lớp phủ và lấy ra thứ gì ông ta muốn từ trong giỏ. Khi Harpagos tuân theo và mở giỏ ra, ông ta nhìn thấy những gì còn lại của con trai mình, và không bị sự bàng hoàng làm mất lý trí trước những gì trông thấy, ông ta vẫn kìm mình. Astyages hỏi ông ta có nhận ra mình vừa ăn thịt loài vật nào không, Harpagos trả lời ông ta có nhận ra, và bất cứ điều gì nhà vua làm cũng đều khiến ông ta vui vẻ. Sau khi trả lời như vậy và mang những phần xương thịt còn lại, ông ta trở về nhà. Kế đó, tôi đoán ông ta đã tập trung những phần thi thể đó lại với nhau và đem chôn cất.
120. Astyages đã trừng phạt Harpagos như vậy. Còn về Kyros, nhà vua ngẫm nghĩ rồi triệu các Magoi đã giải mộng cho ông. Khi họ tới, Astyages hỏi họ đã đưa ra lời luận giải nào cho giấc mơ của ông, và họ nói hệt như trước, rằng đứa trẻ sẽ trở thành vua nếu còn sống. Nhà vua liền trả lời họ thế này: “Đứa trẻ vẫn chưa chết, và trong khi nó sống ở vùng thôn quê, lũ trẻ trong làng đã tôn nó lên làm vua, và nó đã thực hiện tất cả những gì các vị vua vẫn làm; vì thằng bé đã thực thi việc cai trị, chỉ định những đứa trẻ khác làm cận vệ, người canh cửa, tín sứ và tất cả các chức hầu cận khác. Vì thế, bây giờ theo các ngươi những điều này có ý nghĩa gì?” Các Magoi đáp: “Nếu đứa trẻ vẫn còn sống và đã trở thành vua mà không có sự sắp đặt nào trước, xin bệ hạ hãy an tâm về cậu bé và can đảm lên, vì cậu bé sẽ không thể trở thành vua lần thứ hai, do thậm chí có những lời tiên tri của chúng tôi kết cục cũng rất bình thường, và ít nhất những gì liên quan tới các giấc mơ thường chỉ kết thúc bằng một thành quả tầm thường”. Astyages trả lời như sau: “Hỡi các Magoi, bản thân ta cũng gần như sẵn lòng tin là vậy, cụ thể là vì đứa trẻ được gọi là vua trong giấc mơ đã được làm vua, nó giờ đây không còn là một mối nguy hiểm cho ta nữa. Dẫu vậy, hãy dành cho ta lời khuyên, sau khi các ngươi đã cân nhắc kỹ càng xem làm thế nào sẽ là an toàn nhất cho cả gia tộc ta lẫn cho các ngươi”. Để đáp lại, các Magoi nói: “Tâu bệ hạ, với cả chúng tôi nữa, ngai vàng của người vững chãi cũng sẽ rất quan trọng với chúng tôi. Vì nếu khác đi, quyền bính sẽ bị chuyển sang tay những người xa lạ, những kẻ sẽ tới cùng đứa trẻ vốn là người Ba Tư này, khi đó chúng ta, những người Media, sẽ trở thành nô lệ và không còn là gì trong mắt người Ba Tư, vì chúng ta thuộc về nòi giống khác. Song chừng nào bệ hạ, một người thuộc nòi giống chúng ta, còn là vua của chúng tôi, chúng tôi vừa có phần quyền lực của mình vừa nhận được ân huệ lớn lao từ bệ hạ. Do đó, bằng mọi cách, chúng tôi nhất thiết phải lo lắng cho bệ hạ và ngôi báu của người. Và lúc này đây, nếu chúng tôi thấy trong chuyện này bất cứ điều gì đáng lo ngại, chúng tôi chắc chắn sẽ báo trước cho bệ hạ. Song vì giấc mơ đã hoàn tất điềm báo của nó một cách tầm thường, tất cả chúng tôi đều đầy hân hoan và chúng tôi kính mong bệ hạ hãy cũng như thế. Còn về đứa bé, hãy đuổi nó đi khuất mắt bệ hạ, cho nó trở về Ba Tư cùng bố mẹ”.
121. Nghe đến đây, Astyages vô cùng hân hoan, rồi gọi Kyros tới, và nói với cậu thế này: “Con trai, ta đã đối xử bất công với ngươi vì điềm báo của một giấc mơ vốn đã không thành hiện thực, nhưng ngươi dẫu vậy vẫn còn sống nhờ số mệnh của chính ngươi. Thế nên, giờ ngươi hãy bình yên trở về miền đất của người Ba Tư, và ta sẽ phái người đi cùng để dẫn đường cho ngươi. Khi tới đó, ngươi sẽ tìm thấy một người cha và một người mẹ không giống như gã mục đồng Mitradates và vợ hắn”.
122. Nói xong, Astyages cho Kyros rời đi, cậu quay về nhà Kambyses và được cha mẹ tiếp đón. Sau đó, khi họ biết cậu là ai, họ hân hoan chào mừng con trai thật linh đình, vì họ nghĩ rằng con trai họ đã chết ngay sau khi chào đời, rồi hỏi xem cậu đã sống sót như thế nào. Cậu kể cho cha mẹ nghe, nói rằng trước đó cậu không hề biết mà hoàn toàn nhầm lẫn về thân thế của mình. Tuy thế, trên đường về cậu đã biết được tất cả về vận mệnh của mình. Cậu vốn tin chắc mình là con trai người mục đồng của Astyages, song từ sau khi bắt đầu chuyến đi từ thành phố, cậu đã biết được toàn bộ sự thật từ những người đưa mình đi. Cậu cho hay đã được nuôi nấng bởi vợ người mục đồng, và cứ thế tiếp tục ca ngợi bà này, khiến cho Kyno trở thành nhân vật chính trong câu chuyện cậu kể. Khi cha mẹ cậu biết được cái tên này từ con trai, và nhằm mục đích để con trai họ có thể được người Ba Tư tin là đã được hộ mệnh theo một cách siêu nhiên hơn, họ liền dựng lên câu chuyện kể rằng Kyros khi bị bỏ rơi đã được một con chó cái cho bú, và truyền thuyết này đã bắt nguồn từ tin đồn kể trên.
123. Khi Kyros đã trưởng thành, và là người can đảm nhất, được yêu quý nhất trong tất cả thanh niên đồng trang lứa, Harpagos liền tìm cách kết thân với chàng trai và tặng anh những món quà, vì ông ta khao khát muốn trả thù Astyages. Và ông ta nhận thấy sự trừng phạt giáng xuống đầu Astyages không thể tới từ chính mình, vốn chỉ có địa vị bình dân. Nhưng khi ông ta thấy Kyros trưởng thành, Harpagos nuôi ý đồ biến chàng thanh niên thành đồng minh khi nhận ra sự tương đồng giữa vận hội của Kyros và của chính mình.
Vì Astyages đã cai trị hà khắc với người Media, Harpagos liền liên lạc với nhiều quý tộc Media, rồi thuyết phục họ chọn Kyros làm thủ lĩnh và phế truất Astyages. Khi đã thực hiện xong việc này và tất cả đã sẵn sàng, Harpagos mong muốn tiết lộ ý định của ông ta với Kyros, người đang sống giữa những người Ba Tư, ông ta không còn cách nào khác, vì các tuyến đường đều bị giám sát, ngoài nghĩ ra một mưu kế như sau: Ông ta chuẩn bị sẵn sàng một con thỏ rừng, sau khi mổ bụng con vật nhưng vẫn để nguyên bộ lông, ông ta nhét vào trong bụng nó một mảnh giấy, trên đó viết rõ những gì ông ta nghĩ cần thiết. Rồi Harpagos khâu bụng con thỏ rừng lại, đưa cho người hầu ông ta tin cẩn nhất cùng với tấm lưới để làm như thể anh hầu là một thợ săn, Harpagos liền phái người này tới vùng đất của người Ba Tư, căn dặn người hầu hãy trao con thỏ cho Kyros và bảo chàng thanh niên tự tay mổ nó ra, đồng thời không để ai khác có mặt khi anh làm việc này.
124. Tất cả diễn ra trót lọt, và Kyros, sau khi nhận được con thỏ rừng từ tay người hầu, liền mổ bụng nó ra. Tìm thấy mảnh giấy, chàng thanh niên lấy ra và đọc. Trên tờ giấy có viết như sau: “Hỡi con trai Kambyses, các vị thần đã phù hộ cho ngài, vì nếu không phải vậy ngài đã chẳng thể có nổi vận may lớn đến thế. Vì vậy, ngài hãy báo thù Astyages, thủ phạm muốn ám hại ngài, vì nếu mọi việc diễn ra đúng theo ý nguyện của y, ngài đã chết rồi, và ngài chỉ còn sống nhờ vào sự bảo vệ của các vị thần và của tôi. Điều này tôi nghĩ ngài đã biết trọn vẹn từ lâu, cả những gì đã xảy đến với ngài, lẫn những gì tôi đã phải chịu đựng từ tay Astyages vì tôi đã không sát hại ngài mà trao ngài cho người mục đồng. Vì thế, nếu ngài chấp nhận làm theo lời tôi, ngài sẽ trở thành người cai trị toàn bộ đế quốc của Astyages. Hãy thuyết phục người Ba Tư nổi dậy, và huy động tất cả quân đội tiến đánh người Media. Và cho dù sẽ là tôi được chỉ định thống lĩnh đội quân chống lại ngài hay bất cứ người Media nào khác ít nhiều có tiếng tăm, ngài sẽ có được điều ngài mong muốn. Vì đây sẽ là những người đầu tiên tìm cách tiêu diệt Astyages, nổi dậy chống lại y và về phe ngài. Ngài hãy biết là ít nhất ở đây tất cả đã sẵn sàng, và do đó hãy làm những gì cần thiết và khẩn trương lên”.
125. Kyros, sau khi đọc bức thư, bắt đầu cân nhắc xem bằng cách nào ông có thể thuyết phục người Ba Tư nổi dậy một cách khéo léo nhất, và sau khi cân nhắc, ông nhận ra đây là cách thuận tiện nhất, và trên thực tế đã làm như sau: Thoạt đầu, ông viết lên giấy những gì muốn nói ra, rồi triệu tập hội nghị của người Ba Tư. Tại đó, ông lấy tờ giấy ra, đọc những gì viết trên đó, rằng Astyages đã phong ông làm tư lệnh của người Ba Tư; “và giờ, hỡi những người Ba Tư”, ông nói tiếp, “ta lệnh cho các người tới gặp ta, mỗi người mang theo một lưỡi liềm”. Kyros sau đó tuyên cáo chức chỉ huy này.
Khi đó ở Ba Tư có nhiều bộ lạc, một số được Kyros tập hợp lại và thuyết phục nổi dậy chống lại Media, đó là những bộ lạc mà tất cả những người Ba Tư khác đều dựa vào, gồm người Pasargadai, Maraphioi và Maspioi, trong đó người Pasargadai là cao quý nhất, xuất thân từ họ gồm cả thị tộc Akhaimenidai, dòng dõi của các vua Perseidai. Các bộ lạc Ba Tư khác gồm người Panthialaioi, Derousiaioi và Germanioi, tất cả đều là nông dân; còn lại là các bộ lạc du mục, gồm Daoi, Mardoi, Dropikoi và Sagartioi.
126. Có một vùng trên lãnh thổ Ba Tư mọc đầy cây gai, trải rộng chừng 18 hay 20 stadia theo mỗi hướng, và khi tất cả đã đem theo lưỡi hái đến nơi, Kyros lệnh cho họ phát quang vùng đất này để trồng trọt trong một ngày. Và khi người Ba Tư đã hoàn thành công việc, ông liền yêu cầu họ hôm sau phải đến trình diện ông sau khi đã tắm rửa sạch sẽ. Trong lúc đó, Kyros sau khi đã tập trung lại một chỗ tất cả đàn dê, cừu và bò của cha mình, giết thịt chúng rồi nấu nướng để thết đãi đám đông người Ba Tư cùng với rượu vang và những loại thức ăn ngon lành khác. Vì thế, khi những người Ba Tư quay trở lại vào ngày hôm sau, ông mời họ ngồi xuống một bãi cỏ và thết đãi họ. Khi họ đã dùng bữa xong, Kyros liền hỏi họ rằng họ thích những gì từng có hôm trước hay những gì đang có lúc này hơn. Họ nói rằng sự khác biệt là rất lớn, vì hôm trước với họ chẳng có gì ngoài khổ ải, còn hôm nay chỉ toàn điều tốt đẹp. Nhận được câu trả lời này, Kyros liền tiết lộ toàn bộ mưu kế của mình, nói rằng: “Hỡi người Ba Tư, sẽ là như vậy với các ngươi. Nếu các ngươi chịu làm như ta nói, các ngươi sẽ có tất cả những thứ này cùng vô vàn thứ tốt lành khác, và không phải chịu lao động khổ sai nữa; nhưng nếu các người không làm theo lời ta, các người sẽ phải lao động khổ cực hết ngày này qua ngày khác. Vì thế, bây giờ hãy làm như ta nói và giành lấy tự do cho chính mình: vì ta nhận ra ta đã được định mệnh sinh ra để thực hiện việc này; và ta nghĩ các người không tệ hơn người Media, về chiến trận cũng như về bất cứ điều gì khác. Hãy cân nhắc việc này, và lập tức nổi dậy chống lại Astyages”.
127. Vậy là người Ba Tư có được một thủ lĩnh sẵn sàng tranh đấu để giành tự do cho họ, trong khi bản thân họ đã từ lâu sẵn sàng làm điều đó, xuất phát từ sự phẫn nộ khi bị người Media cai trị. Nhưng khi Astyages nghe tin Kyros hành động như vậy, ông liền phái một sứ giả tới triệu ông ta. Kyros yêu cầu sứ giả về nói lại với Astyages rằng ông sẽ tới đó sớm hơn Astyages mong muốn. Nghe thấy tin này, Astyages liền vũ trang cho toàn dân Media, và bị số mệnh làm mù quáng, nhà vua liền cử Harpagos chỉ huy đạo quân này mà quên mất những gì ông ta đã làm với người này. Sau đó, khi người Media xung trận và bắt đầu giao chiến với người Ba Tư, một số trong họ tiếp tục chiến đấu, chính là những người không tham gia vào âm mưu, trong khi số khác đào ngũ sang phía Ba Tư; song phần lớn cố ý rã hàng và bỏ chạy.
128. Sau khi quân đội Media đã bị tan rã một cách ô nhục như vậy, ngay lúc biết tin, Astyages liền buông lời đe dọa Kyros: “Nhưng ít nhất Kyros sẽ không thoát được sự trừng phạt”. Nói xong, nhà vua trước hết cho đóng cọc các Magoi đã thuyết phục ông ta để Kyros ra đi, rồi vũ trang cho những người Media còn lại trong thành phố, cả già lẫn trẻ. Nhà vua dẫn những người này ra ngoài thành phố và giao chiến với người Ba Tư, bị họ đánh bại, và bản thân Astyages bị bắt sống, đồng thời cũng mất luôn những chiến binh Media ông ta đã dẫn ra trận.
129. Khi Astyages đã trở thành tù nhân, Harpagos tới đứng gần ông ta, vui mừng giễu cợt và sỉ nhục ông ta; bên cạnh những lời lẽ khác để giày vò ông vua thất thế, Harpagos hỏi ông ta thấy vui vẻ thế nào khi trở thành nô lệ thay vì vua, ám chỉ bữa dạ tiệc nơi Astyages đã bắt Harpagos phải ăn thịt chính con trai mình. Astyages liền nhìn Harpagos, hỏi lại liệu cuộc tạo phản của Kyros có phải do ông ta xúi giục hay không. Harpagos trả lời vì chính ông ta đã viết lá thư, đương nhiên cuộc nổi dậy là công của ông ta. Astyages liền tuyên bố Harpagos vừa là kẻ vụng về nhất vừa là kẻ bất công nhất; vụng về nhất vì khi ông ta nắm trong tay cơ hội để trở thành vua (thực vậy, nếu cuộc nổi dậy vừa diễn ra đúng là do Harpagos gây nên), ông ta lại giao quyền lực tối cao vào tay một người khác, và bất công nhất vì để trả thù buổi dạ tiệc, ông ta đã đẩy người Media vào cảnh nô lệ. Vì nếu Astyages nhất định phải trao vương quốc vào tay người khác, sẽ công bằng hơn nếu quyền lực được trao cho một người Media thay vì một người Ba Tư; thay vì thế, hiện tại người Media, vốn vô tội, lại trở thành nô lệ thay vì là chủ nhân, còn những người Ba Tư trước đây từng là nô lệ của người Media lại trở thành chủ nhân của họ.
130. Vậy là sau 35 năm tại vị, Astyages mất ngôi báu; và người Media phải gồng mình dưới ách thống trị của người Ba Tư chỉ vì sự tàn nhẫn của chính Astyages, sau khi họ đã thống trị châu Á nằm ở phía trên sông Halys trong 128 năm, ngoại trừ quãng thời gian người Skythia nắm quyền thống trị. Tuy nhiên, sau đó họ trở nên phẫn nộ với ách thống trị này, và nổi dậy dưới thời Dareios, rồi bị đánh bại và bị khuất phục một lần nữa. Còn vào thời điểm tôi đang kể dưới thời trị vì của Astyages, người Ba Tư dưới quyền Kyros đã nổi dậy chống lại người Media, rồi từ đó trở đi trở thành bá chủ châu Á; về phần Astyages, Kyros không làm hại gì vị vua bại trận mà giữ ông này lại bên cạnh cho tới khi ông ta qua đời.
Vậy là Kyros, được sinh ra và nuôi dạy như đã thuật lại ở trên, trở thành vua. Sau đó, ông đã khuất phục Kroisos, người đã khơi mối bất hòa đầu tiên như tôi đã kể lại trước đó. Sau khi khuất phục Kroisos, ông cai trị toàn châu Á.
131. Theo những gì tôi biết, đây là các phong tục người BaTư thực hiện: Họ không coi việc xây dựng các tượng, đền và ban thờ là hợp pháp, thậm chí còn coi những ai làm vậy là điên rồ; và theo tôi nghĩ, nguyên do của việc này là vì họ không coi các vị thần có hình dáng giống con người như người Hy Lạp vẫn nghĩ. Nhưng họ có thói quen thực hiện các lễ hiến sinh cho Zeus ở trên đỉnh những ngọn núi cao nhất, và họ gọi cả vòng trời là Zeus: và họ hiến sinh dâng lên Mặt trời, Mặt trăng và Trái đất, Lửa, Nước và Gió. Đó là tất cả những vị thần họ dâng lễ hiến sinh từ tận xa xưa thuở ban đầu; sau này họ cũng hiến sinh dâng lên Aphrodite Ourania, tiếp thu sự thờ phụng này từ cả người Assyria lẫn người Arabia; và người Assyria gọi Aphrodite là Mylitta, người Arabia gọi nữ thần là Alilat, và người Ba Tư gọi là Mitra.
132. Sau đây là cách việc hiến sinh cho các vị thần kể trên được thiết lập ở người Ba Tư: Họ không dựng các ban thờ và cũng không đốt lửa; và khi họ làm lễ hiến sinh, họ không rưới rượu lễ hay cử nhạc bằng sáo hay tràng hạt hay rải đồ ăn; mà khi một người muốn dâng lễ hiến sinh lên bất cứ vị thần nào, anh ta dắt con vật dùng để hiến sinh tới một nơi thanh tịnh và khẩn cầu vị thần, sau khi đã đội lên đầu một chiếc vòng thường được kết từ một cành sim. Người dâng lễ hiến sinh không được xin những điều tốt đẹp cho riêng mình trong lời cầu nguyện, mà người đó cầu nguyện mong sao mọi thứ đều tốt đẹp với mọi người Ba Tư và với nhà vua; vì bản thân anh ta tất nhiên cũng thuộc về toàn thể dân tộc Ba Tư. Sau khi đã chặt tế vật ra từng khúc rồi luộc thịt, anh ta rải một lớp cỏ tươi nhất, đặc biệt là cỏ ba lá, rồi bày những tảng thịt lên; và khi người dâng lễ đã bày lễ vật theo thứ tự, một Magos đứng cạnh lễ vật và khấn một bài tụng (họ gọi bài khấn của mình như vậy), và với người Ba Tư nếu không có một Magos họ sẽ không thể dâng lễ hiến sinh một cách hợp pháp. Sau khi đã chờ đợi một thời gian ngắn, người dâng lễ mang thịt về và dùng cho bất cứ mục đích nào anh ta muốn.
133. Trong tất cả các ngày, tập tục của họ là mỗi người trân trọng nhất sinh nhật của chính mình: Vào ngày này họ cho rằng tổ chức một buổi tiệc tùng thoải mái hơn những ngày khác là hợp lý. Trong bữa tiệc đó, những người giàu có bày lên bàn tiệc một con bò đực hay một con ngựa hoặc một con lạc đà, hoặc một con lừa, được nướng nguyên con trong một cái lò, còn những người nghèo ăn những con vật nhỏ hơn được nướng theo cùng cách. Họ ăn ít thịt, nhưng lại có nhiều món tráng miệng được dọn ra, và những món này không được dọn ra cùng lúc; và vì lý do này người Ba Tư nói rằng người Hy Lạp rời bàn ăn tối khi vẫn còn đói, vì sau bữa tối người Hy Lạp chẳng có thứ gì đáng kể được dọn ra làm món tráng miệng, vì nếu có món tráng miệng nào ngon được dọn ra, hẳn họ đã không ngừng ăn sớm như vậy. Họ uống rất nhiều rượu vang, và một người đàn ông không được phép nôn hay đi tiểu trước mặt người khác. Người Ba Tư tuân thủ nghiêm chỉnh những điều này, và họ cũng thường bàn bạc trong khi uống rượu say sưa về những vấn đề quan trọng nhất của mình, và cho dù kết luận nào đã làm họ hài lòng sau khi bàn bạc, đến ngày hôm sau, khi họ tỉnh táo hơn, vị gia chủ nơi mọi người tình cờ đang có mặt sẽ mang những kết luận hôm trước ra trình bày trước họ để thảo luận. Nếu chúng vẫn làm họ hài lòng ngay cả khi tỉnh táo, họ sẽ chấp nhận chúng, nhưng nếu ngược lại, họ sẽ bỏ qua chúng; và những gì họ thảo luận ban đầu khi tỉnh táo, họ sẽ cân nhắc lại trong khi đang uống.
134. Khi người Ba Tư gặp nhau trên đường, ta có thể nhận ra liệu những người gặp nhau có địa vị ngang hàng hay không – vì thay vì chào hỏi bằng lời, họ hôn lên miệng nhau; nhưng nếu một trong hai người có địa vị thấp hơn một chút, họ hôn lên má nhau, và nếu một người có dòng dõi thấp kém hơn người kia, người này sẽ quỳ xuống trước mặt và lạy người kia. Và sau bản thân họ, người Ba Tư trân trọng nhất những dân tộc ở gần họ nhất, rồi tiếp theo là cư dân sống tại những dân tộc gần kế tiếp, và cứ như thế, họ thể hiện sự trân trọng tương ứng theo khoảng cách; và họ ít coi trọng nhất những ai sống cách xa họ nhất, đánh giá bản thân họ là chủng tộc cao quý nhất trong số tất cả những chủng tộc về mọi mặt, và nghĩ rằng những chủng tộc khác có giá trị tương ứng với khoảng cách như đã kể ở trên, và những người sống cách xa họ nhất là kém cỏi nhất.
Và dưới quyền thống trị của người Media, các dân tộc khác nhau cũng đã từng thống trị lẫn nhau theo cùng phương thức được người Ba Tư tuân thủ khi thể hiện sự trân trọng, người Media cai trị tất cả và đặc biệt là những tộc người sống gần họ nhất, và những tộc người này lại cai trị những tộc người ở kề bên họ; vì các tộc người cứ tiến dần như vậy từ chỗ được người Media cai trị trực tiếp tới được cai trị qua các tộc người khác.
135. Người Ba Tư chấp nhận những phong tục ngoại quốc hơn bất cứ tộc người nào khác, vì họ vừa mặc trang phục của người Media, cho rằng thứ trang phục này bắt mắt hơn trang phục của chính họ, và vừa chiến đấu với áo giáp Ai Cập. Hơn thế, họ du nhập mọi thứ xa xỉ khi họ nghe nói về chúng, và đặc biệt họ đã học từ người Hy Lạp lạc thú với các bé trai. Đàn ông Ba Tư kết hôn với vài người vợ hợp pháp, và họ cũng có số lượng tỳ thiếp lớn hơn nhiều.
136. Họ cho rằng khả năng sinh được nhiều con trai là một dấu hiệu về nam tính sau phẩm chất trận mạc; và với những người có nhiều con trai nhất, hằng năm nhà vua đều gửi quà, vì họ coi số lượng là một nguồn gốc của sức mạnh. Và họ dạy dỗ con cái của mình, từ lúc lên năm tuổi và tiếp tục cho tới tận năm 20 tuổi, chỉ ba thứ: cưỡi ngựa, bắn cung và nói sự thật. Nhưng trước khi đứa bé trai tròn năm tuổi, cậu bé không gặp cha mình mà sống cùng những người phụ nữ; tập tục đó được thực hiện vì lý do rằng, nếu đứa trẻ qua đời trong khi đang được nuôi nấng, nó sẽ không khiến người cha đau buồn.
137. Tôi khen ngợi phong tục này của họ, cũng như phong tục được nhắc tới kế tiếp, cụ thể là việc ngay cả nhà vua cũng không được kết án tử hình bất cứ ai chỉ vì một tội trạng duy nhất, cũng như không người Ba Tư nào khác được trừng phạt bất cứ người hầu nào của mình đến mức gây thương tích không thể phục hồi chỉ vì một lỗi duy nhất, mà chỉ sau khi đã phát hiện ra rằng những tội lỗi người hầu phạm phải nhiều hơn về số lượng và lớn hơn lợi ích người này đem lại, người chủ mới được trừng phạt.
Thêm nữa, họ quy định không ai được phép giết cha hay mẹ của chính mình, nhưng bất cứ khi nào xảy ra từng tội lỗi có vẻ mang bản chất này, nhất thiết cần phải điều tra để tìm ra hành động xuất phát từ việc đánh tráo con hoặc do những đứa trẻ sinh ra từ ngoại tình; vì theo người Ba Tư, thật vô lý khi cho rằng cha mẹ đẻ lại có thể bị giết bởi chính con trai của họ.
138. Bất cứ điều gì họ không được phép làm, họ thậm chí không được phép nói tới, và điều ô nhục nhất theo họ là nói dối; và kế tiếp là nợ tiền, vì nhiều lý do khác nhau, nhưng đặc biệt vì theo họ những người nợ tiền đôi khi cũng cần phải nói dối.
Và bất cứ ai trong thành phố bị bệnh hủi hay bạch tạng, người này không được vào một thành phố hay sống lẫn cùng những người Ba Tư khác; và người Ba Tư cho rằng người mặc những bệnh này là vì đã xúc phạm Mặt Trời theo cách nào đó. Nhưng một người lạ mặt mắc những bệnh này ở nhiều vùng sẽ bị đuổi hẳn khỏi vùng, và những con bồ câu trắng cũng bị xua đuổi tương tự, vì họ cũng có ngờ vực tương tự với chúng.
Họ không bao giờ tiểu tiện hay khạc nhổ xuống một dòng sông, cũng không bao giờ rửa tay dưới sông, hay cho phép bất cứ ai khác làm những việc này, vì họ rất tôn kính các dòng sông.
139. Thêm nữa, có một điều này đặc biệt ở họ mà chính người Ba Tư cũng không nhận ra nhưng tôi đã không bỏ qua: Tên của họ, được đặt tương ứng với hình dáng cơ thể hay mức độ danh giá về địa vị của họ, tất cả đều kết thúc bằng cùng mẫu tự, chữ cái đó người Doris gọi là san, còn người Ionia gọi là sigma. Điều này các vị sẽ thấy nếu các vị xem xét vấn đề, nghĩa là tất cả những cái tên Ba Tư không kết thúc một số với mẫu tự này và số khác với mẫu tự khác, mà tất cả đều giống nhau.
140. Đó là những gì tôi có thể quả quyết từ hiểu biết của chính mình về họ. Song những gì được thuật lại tiếp theo về cái chết của họ, một bí mật được giữ kín và không được biết rõ ràng, cụ thể là thi thể một người Ba Tư sẽ không được chôn cất cho tới khi đã bị một con chim hoặc một con chó xâu xé (Tôi biết chắc chắn các Magoi theo phong tục này, vì họ thực hiện một cách công khai). Dù thế nào đi nữa, người Ba Tư dùng sáp phủ kín thi thể rồi sau đó chôn xuống đất.
Các Magoi khác biệt nhiều mặt so với những người khác, và cũng khác với các tư tế Ai Cập: vì các tư tế Ai Cập coi việc không giết sinh vật khác ngoại trừ các tế vật là một vấn đề tâm linh, nhưng các Magoi tự tay giết mọi sinh vật ngoại trừ chó và người, và thậm chí họ còn coi đó là một mục đích lớn lao để hướng tới, họ giết cả kiến lẫn rắn cũng như các sinh vật biết bò và biết bay khác. Về phong tục này, hãy cứ để nó như vốn đã được thiết lập từ đầu, và bây giờ tôi sẽ trở lại với tường thuật trước đó.
141. Người Ionia và Aiolis, ngay khi người Lydia đã bị người Ba Tư khuất phục, đều phái sứ giả tới gặp Kyros ở Sardis, mong muốn trở thành thần dân của nhà vua theo cùng điều kiện như họ từng là thần dân của Kroisos. Và khi nhà vua nghe xong những gì các sứ giả tâu lên, ông kể với họ một câu chuyện ngụ ngôn, nói rằng có một người thổi sáo nhìn thấy những con cá dưới biển và thổi cây sáo của anh ta, cho rằng lũ cá sẽ lao lên bờ; nhưng thất vọng, anh ta liền lấy một tấm lưới đánh lấy rất nhiều cá rồi lôi chúng ra khỏi nước. Và khi trông thấy chúng quẫy trong lưới, anh ta nói với lũ cá: “Giờ ta yêu cầu các người đừng có nhảy nữa, vì trước đó các người đã không lên bờ và nhảy khi ta thổi sáo”. Kyros kể câu chuyện ngụ ngôn này với các sứ giả Ionia và Aiolis vì người Ionia đã từ chối quy thuận trước đây, khi Kyros đích thân phái sứ giả tới đề nghị họ nổi dậy chống lại Kroisos, trong khi giờ đây, khi cuộc chinh phục đã hoàn tất, họ lại sẵn sàng quy phục.
Ông đã nói như thế với họ trong cơn giận dữ, và khi người Ionia biết tin liền xây thêm nhiều vòng thành quanh các thành phố này, rồi cùng nhau tập hợp tới Panionion, ngoại trừ người Miletos, vì riêng với những người này Kyros đã có thỏa ước với cùng điều kiện như người Lydia đã chấp nhận. Những người Ionia còn lại đồng thuận quyết định phái sứ giả tới Sparta để đề nghị người Sparta giúp đỡ họ.
142. Người Ionia tập trung tại Panionion đã may mắn xây dựng thành trì của họ ở những vị trí thuận lợi nhất về khí hậu và thời tiết trong tất cả những tộc người chúng ta biết. Vì cả các vùng nằm trên hay dưới Ionia, lẫn các vùng nằm về phía đông hay phía tây, đều không đâu có được điều kiện như tại Ionia; vì một số vùng quá lạnh và ẩm, một số khác lại quá nóng và khô.
Người Ionia không nói cùng một ngôn ngữ, họ có bốn phương ngữ khác nhau. Thành bang đầu tiên của họ nằm về phía nam là Miletos, rồi cạnh đó là Myous và Priene. Các đô thị tiếp sau đây tọa lạc tại Lydia: Ephesos, Kolophon, Lebedos, Teos, Klazomenai, Phokaia. Các đô thị này không có cùng ngôn ngữ với ba đô thị đã đề cập trước đó, song có cùng ngôn ngữ với nhau. Trong ba đô thị còn lại, hai đô thị nằm trên các đảo Samos và Khios, và một trên đất liền, đó là Erythrai. Người Khios và Erythrai sử dụng cùng ngôn ngữ, nhưng người Samos lại có ngôn ngữ riêng. Kết quả là có bốn phương ngữ dị biệt.
143. Trong số các thành bang Ionia, Miletos được che chở khỏi nguy hiểm vì họ có thỏa ước; còn những người sống trên các đảo không có lý do gì để lo sợ, vì khi ấy người Phoinike vẫn chưa phải là thần dân của Ba Tư và bản thân người Ba Tư không thạo hàng hải. Người Miletos tách mình khỏi những người Ionia khác chỉ vì lý do này: Vào thời kỳ đó, toàn bộ đất Hy Lạp đều yếu đuối, nhưng trong tất cả các tộc người ở đây, người Ionia yếu đuối nhất và ít có ảnh hưởng nhất. Ngoại trừ Athenai, họ không có đô thị nào đáng kể. Vì thế những người Ionia khác, kể cả người Athenai, đều tránh tên gọi này, không muốn bị gọi là người Ionia, và ngay cả ngày nay tôi cũng nhận thấy phần lớn họ thấy xấu hổ về tên gọi ấy. Song 12 đô thị này không chỉ thể hiện sự kiêu hãnh của họ trước cái tên đó mà còn xây dựng riêng một ngôi đền, được họ đặt tên là Panionion, và họ quyết định không cho bất cứ người Ionia nào được có phần trong ngôi đền (mà trên thực tế cũng không có ai ngoài người Smyrna đề nghị được chia sẻ).
144. Cũng tương tự, người Doris ở Pentapolis (trước kia là Hexapolis) cẩn trọng không cho bất cứ người lân bang nào được vào ngôi đền Triopion, và thậm chí còn cấm luôn cả những người trong cộng đồng của chính họ đã phạm phải bất cứ hành vi nào xúc phạm tới ngôi đền. Chẳng hạn, trong các hội thi vinh danh thần Apollon Triopios, trước đây họ thường dùng những chiếc giá ba chân bằng thanh đồng làm giải thưởng cho những người chiến thắng, và quy định đòi hỏi những người nhận được phần thưởng không được mang chúng khỏi đền mà phải dâng chúng lên thần ngay tại đó. Khi đó có Agasikles thành Halikarnassos giành chiến thắng song không tuân thủ quy định này, mang giá ba chân về nhà rồi treo nó lên một cái đinh. Vì cớ này, năm đô thị Lindos, Ialysos, Kameiros, Kos và Knidos đã cấm Halikarnassos, đô thị Ionia thứ sáu, tiếp cận ngôi đền.
145. Họ áp dụng hình phạt này lên những người đó, song về phần người Ionia, tôi cho rằng lý do họ tập hợp từ 12 thành phố và không nhận thêm bất cứ thành phố nào khác vào cộng đồng của mình vì khi họ cư trú tại Peloponnesos, cộng đồng của họ có 12 vùng, cũng như ngày nay có 12 vùng của người Akhaia, những người đã xua đuổi người Ionia đi: Đầu tiên (bắt đầu từ phía Sikyon) là Pallene, rồi Aigeira và Aigai, nơi có sông Krathis không bao giờ cạn chảy qua (nhờ dòng sông này mà dòng sông ở Italia được đặt tên tương tự), và Boura và Helike, nơi người Ionia đến tị nạn khi họ chiến bại trước người Akhaia, rồi Aigion, Rhypes, Patres, Phares và Olenos, nơi có dòng sông lớn Peiros chảy qua, và Dyme cùng Tritaies, chỉ vùng cuối cùng này có vị trí nội địa. Những vùng đất kể trên giờ đây tạo thành 12 xứ của người Akhaia, và trong quá khứ từng là các xứ của người Ionia.
146. Vì lý do này mà người Ionia cũng lập cho họ 12 đô thị; dù thế nào đi nữa, nói rằng những người này thuần Ionia hơn những người Ionia khác, hay có nguồn gốc cao quý hơn, là hoàn toàn điên rồ, nếu tính tới việc một phần lớn họ là người Abantes xuất thân từ Euboia, những người vốn thậm chí chẳng có chút gì chia sẻ cái tên Ionia, cũng như sống lẫn với họ còn có người Minyai từ Orkhomenos, cũng như người Kadmeioi, người Dryopes và người Phokis đã ly khai khỏi thành bang của họ và người Molossoi và người Arkadia gốc Pelasgoi và người Doris từ Epidauros cùng nhiều tộc người khác. Những người trong số họ đã từ Athenai ra đi để định cư ở những vùng đất mới và tự coi bản thân là cao quý nhất về xuất thân trong cộng đồng người Ionia, tôi xin nói là những người này đã không mang theo bất cứ phụ nữ nào tới nơi định cư của họ, mà đoạt lấy những phụ nữ Karia sau khi giết cha mẹ những người này. Và vì sự giết chóc này, những phụ nữ kể trên đặt ra với nhau một quy định, áp đặt với nhau một lời thề, rồi truyền lại với con gái họ, rằng họ sẽ không bao giờ ăn cùng với chồng, và một người vợ sẽ không gọi chồng bằng tên, vì lý do những người Ionia đã giết cha, chồng và con họ rồi sau đó đoạt họ làm vợ. Chuyện này diễn ra tại Miletos.
147. Hơn nữa, vài người trong số họ đã tôn các vị vua Lykia, hậu duệ của Glaukos con trai Hippolokhos, lên trị vì, trong khi những cộng đồng khác được trị vì bởi người Kaukones ở Pylos, hậu duệ của Kodros, con trai Melanthos, và còn những cộng đồng được cai trị bởi các vương tử mang hai dòng máu kết hợp. Vì những tộc người này gắn bó với tên gọi Ionia hơn những tộc người khác, nếu họ muốn hãy để họ được gọi là người Ionia thuần chủng; song trên thực tế tất cả đều là người Ionia có gốc gác từ Athenai và vẫn duy trì lễ hội Apatouria; và tất cả họ đều duy trì lễ hội này ngoại trừ người Ephesos và Kolophon, vì chỉ cư dân hai nơi này trong số các cộng đồng Ionia là không duy trì lễ hội Apatouria vì một vụ sát nhân đã xảy ra.
148. Trở lại với Panionion, đây là một thánh địa tọa lạc ở phía bắc Mykale, được tách riêng theo sự nhất trí giữa những người Ionia dành cho thần Poseidon Helikonios. Mykale là một mũi đất nhô ra từ đất liền chạy ra biển về phía tây về hướng Samos, nơi người Ionia từ các thành phố của họ tập hợp lại thường tổ chức một lễ hội được gọi là Panionia. (Và không chỉ các lễ hội của người Ionia mà cả các lễ hội của tất cả người Hy Lạp đều tuân theo quy luật này, với tên gọi kết thúc bằng cùng mẫu tự, tương tự tên của người Ba Tư).
149. Đó là các đô thị Ionia. Còn các đô thị Aiolis gồm như sau: Kyme – cũng được gọi là Phrikonis, Larissa, Neonteikhos, Temnos, Killa, Notion, Aigiroessa, Pitane, Aigaiai, Myrina, Gryneia; đây là 11 đô thị cổ của người Aiolis, vì có một thành phố, Smyrna, đã bị người Ionia giành mất của họ, và trước đó số lượng của các đô thị này, đều ở nội địa, vốn cũng là 12. Và những người Aiolis này đã có may mắn định cư ở một vùng đất màu mỡ hơn lãnh thổ của người Ionia, nhưng lại ít ôn hòa hơn về khí hậu.
150. Người Aiolis đã để mất Smyrna theo cách như sau: Một số người xuất thân từ Kolophon, bị đánh bại trong xung đột phe phái và bị trục xuất khỏi thành bang họ, được Smyrna tiếp nhận cho tị nạn. Sau chuyện này, người Kolophon lưu vong lựa chọn một thời điểm khi cư dân Smyrna đang mừng một lễ hội của Dionysos ở bên ngoài tường thành, rồi họ đóng các cổng thành lại và chiếm lấy thành phố. Sau biến cố này, khi toàn bộ người Aiolis tới ứng cứu, họ thỏa thuận rằng người Ionia phải giao lại tất cả tài sản có thể di chuyển được, và đổi lại điều kiện này người Aiolis sẽ từ bỏ Smyrna. Khi các cư dân Smyrna thực hiện thỏa thuận, 11 thành phố còn lại chia nhau tiếp nhận họ và cho họ làm công dân của mình.
151. Và đó là những đô thị Aiolis lục địa, với ngoại lệ là các thành phố tọa lạc trên núi Ida, vì những thành phố này tách biệt khỏi các thành phố còn lại.
Còn về các đảo, có năm đô thị trên đảo Lesbos (vì đô thị thứ sáu, Arisba, đã bị người Methymna chinh phục và nô dịch, dù các công dân của thành phố kia cùng có cùng gốc gác như họ. Và trên đảo Tenedos có một thành phố, và một thành phố khác tọa lạc tại nơi được gọi là “Bách Đảo”. Người Lesbos và Tenedos, giống như người Ionia sống trên các đảo, không có lý do gì để lo sợ; song những thành phố còn lại đã thống nhất đi theo sự dẫn dắt của người Ionia, dù họ có quyết định thế nào đi nữa.
152. Các sứ giả của người Ionia và người Aiolis tới Sparta (vì việc này đã được thực hiện một cách khẩn trương), họ chọn đại diện để trình bày cho mình là một người Phokaia có tên Pythermos. Ông này khoác lên mình một chiếc áo choàng màu tía để nhiều người Sparta nhất có thể sẽ biết chuyện và tới dự, rồi sau khi đã được đưa vào hội nghị, ông ta nói hồi lâu, đề nghị người Sparta giúp đỡ họ. Tuy nhiên, người Lakedaimon không chịu lắng nghe, mà ngược lại, quyết định không giúp người Ionia. Vậy là các sứ giả quay về, còn người Lakedaimon, sau khi đã đuổi các sứ giả của người Ionia đi, vẫn phái người đi trên một chiếc pentekonteros1 để, như tôi hình dung, tìm hiểu về tình hình của Kyros và người Ionia. Những người này, khi tới Phokaia, liền cử tới Sardis người tiếng tăm nhất trong số họ, Lakrines, để thông báo với Kyros thông điệp của người Lakedaimon, đề nghị ông không làm tổn hại bất cứ thành phố nào của Hy Lạp, vì họ sẽ không dung thứ điều đó.
1. pentekonteros (sn: pentekonteroi): Một loại thuyền có 50 mái chèo bố trí dọc theo hai bên mạn, thường có thêm một cột buồm để tận dụng sức gió.
153. Sau khi vị sứ giả đã nói như vậy, người ta kể rằng Kyros đã hỏi những người Hy Lạp hầu cận bên ông xem người Lakedaimon là những người như thế nào, số lượng bao nhiêu mà dám tuyên bố như vậy với ông. Sau khi nghe câu trả lời từ những người này, nhà vua nói với sứ giả Sparta: “Chưa bao giờ ta từng sợ ai đó như những con người này, những người có một địa điểm được ấn định ở giữa thành phố của họ để tại đó họ tập hợp lại và lừa gạt lẫn nhau bằng những lời thề dối trá; và nếu ta tiếp tục khỏe mạnh, thì không chỉ sự bất hạnh của những người Ionia sẽ là một chủ đề bàn luận cho họ, mà là nỗi bất hạnh của chính họ”. Những lời này Kyros đã nói ra đầy khinh miệt để ám chỉ người Hy Lạp nói chung, vì họ có những khu chợ cùng thói quen mua bán tại đó, còn người Ba Tư không quen dùng tới chợ và cũng không hề có các khu chợ.
Sau việc này, nhà vua giao lại quyền cai quản Sardis cho Tabalos, một người Ba Tư, còn vàng của Kroisos và của những người Lydia khác được nhà vua giao cho Paktyes, một người Lydia, quản lý, trong khi bản thân ông hành quân tới Ekbatana, đem theo Kroisos và trong lúc này không bận tâm tới những người Ionia. Bởi vì Babylon nằm trên lộ trình của ông, cũng như người Baktria, người Sakai và người Ai Cập. Để chinh phục họ, ông dự định đích thân xuất chinh, trong khi phái một viên tướng khác tấn công người Ionia.
154. Nhưng khi Kyros hành quân khỏi Sardis, Paktyes kích động người Lydia nổi dậy chống lại Tabalos và Kyros. Ông này đi ra biển, và nắm trong tay tất cả số vàng hiện có tại Sardis, ông ta mộ lính đánh thuê cho mình, đồng thời thuyết phục cư dân vùng bờ biển gia nhập cuộc chinh phạt của ông. Vậy là Paktyes tiến đánh Sardis và vây hãm Tabalos, người đã đóng cổng cố thủ trong thành.
155. Biết tin này trên đường, Kyros đã nói với Kroisos như sau: “Kroisos, ta sẽ thấy kết cục nào cho những điều vừa diễn ra đây? Người Lydia dường như sẽ không thôi việc gây phiền phức cho ta và cho chính họ. Ta tự hỏi liệu tốt nhất có phải là bán tất cả chúng làm nô lệ hay không. Vì như hiện tại, ta thấy ta đã xử sự như một kẻ đã giết người cha rồi sau đó tha mạng cho những đứa con trai. Cũng như thế, ta đã bắt ngươi làm tù binh và mang ngươi đi, trong khi ngươi còn hơn cả một người cha với người Lydia, trong khi với chính người Lydia ta lại trả thành phố lại cho họ. Liệu ta có thể cảm thấy ngạc nhiên hay không nếu sau việc này họ nổi dậy chống lại ta?” Nhà vua đã nói ra những ý nghĩ trong đầu như thế, còn Kroisos đã trả lời ông như sau, e sợ nhà vua sẽ hủy diệt Sardis: “Tâu bệ hạ, những lời ngài nói không phải không có lý; nhưng xin ngài đừng để cơn thịnh nộ chi phối hoàn toàn hay phá hủy một cổ thành vốn vô tội cả trong những việc trước đây lẫn trong những gì hiện đang xảy ra; vì về phần những việc trước đây, chính thần là người đã gây ra và thần phải gánh chịu những hậu quả đã giáng xuống đầu mình; còn về phần những gì hiện đang xảy ra, vì kẻ phạm tội là Paktyes, người bệ hạ đã tin tưởng giao phó Sardis, hãy để y phải trả giá. Nhưng thần cầu xin bệ hạ hãy ân xá cho người dân Lydia, và hãy ra lệnh cho họ như sau, để họ sẽ không nổi loạn hay là một mối nguy cơ cho ngài nữa: Hãy phái người tới gặp họ và cấm họ sở hữu binh khí, nhưng mặt khác hãy yêu cầu họ mặc áo tunic bên dưới áo ngoài và đi ủng của diễn viên kịch, và yêu cầu họ dạy con trai của họ chơi đàn lyra, đàn hạc và trở thành thương nhân; và ngài sẽ sớm thấy thôi, tâu bệ hạ, rằng họ đã trở thành đàn bà, và sẽ không còn phải lo sợ họ nổi dậy chống lại ngài nữa”.
156. Kroisos đã đề xuất với nhà vua như thế, nhận thấy rằng như vậy với người Lydia còn tốt hơn là bị biến thành nô lệ và bị bán đi; vì ông biết nếu ông không đưa ra một lý do đầy đủ, ông sẽ không thể thuyết phục Kyros đổi ý, và ông sợ rằng rất có thể trong tương lai, nếu họ thoát được sự nguy hiểm hiện tại, người Lydia sẽ lại nổi dậy chống người Ba Tư và bị hủy diệt. Và Kyros rất hài lòng với đề xuất được đưa ra, dịu cơn thịnh nộ rồi tán thành lời khuyên của Kroisos. Sau đó nhà vua triệu tới Mazares, một người Media, và giao cho ông này việc tuyên cáo cho người Lydia những điều Kroisos đã đề xuất, cùng việc đem bán làm nô lệ tất cả những kẻ khác đã gia nhập với người Lydia trong cuộc tấn công Sardis, và cuối cùng bằng mọi giá mang Paktyes còn sống về cho Kyros.
157. Sau khi đã ra lệnh như vậy trên đường, Kyros tiếp tục hành quân về lãnh thổ Ba Tư. Song Paktyes, khi nghe tin một đạo quân đang tiến tới gần để đánh dẹp mình, đã hoảng sợ bỏ chạy tới Kyme. Sau đó, Mazares người Media hành quân tới Sardis cùng một phần quân đội của Kyros, và vì không tìm thấy cả Paktyes lẫn những người ủng hộ ông ta tại Sardis nữa, thoạt đầu Mazares buộc người Lydia phải thi hành mệnh lệnh của Kyros, và theo lệnh ông này, người Lydia thay đổi hoàn toàn lối sống của họ. Tiếp đó, Mazares phái sứ giả tới Kyme yêu cầu họ giao nộp Paktyes, và người Kyme quyết định hỏi ý vị thần tại Brankhidai để có được lời khuyên. Vì ở đó có một thần miếu được dựng từ xa xưa, và tất cả người Ionia cũng như người Aiolis đều thường tới tham vấn; địa điểm này nằm trên lãnh thổ Miletos ở phía trên cảng Panormos.
158. Vậy là người Kyme phái sứ giả tới Brankhidai để hỏi ý thần linh, và họ hỏi nên xử sự ra sao với Paktyes để làm hài lòng các vị thần. Khi họ hỏi như vậy, câu trả lời được đưa ra là họ nên giao nộp Paktyes cho người Ba Tư. Người Kyme, khi được thuật lại câu trả lời, đã quyết định giao nộp ông ta. Thế rồi khi quần chúng đã quyết định như thế, Aristodikos con trai Herakleides, một người danh tiếng trong số các công dân, liền ngăn người Kyme làm vậy, vì nghi ngờ câu trả lời và nghĩ rằng những sứ giả được phái đi hỏi thần linh đã không nói sự thật, cho tới khi cuối cùng một nhóm sứ giả khác được phái đến hỏi lần thứ hai về Paktyes, và trong số họ có cả Aristodikos.
159. Khi họ tới Brankhidai, Aristodikos bước lên trước những người khác và hỏi dự ngôn giả như sau: Thưa thần Apollon, Paktyes người Lydia tới gặp chúng con cầu xin che chở sau khi chạy trốn khỏi cái chết tàn khốc dưới tay người Ba Tư, và người Ba Tư đòi ông ta từ chúng con, yêu cầu người Kyme giao ra ông ta. Nhưng chúng con, cho dù e sợ sức mạnh của người Ba Tư, lần này đã không giao cho họ người cầu xin chúng con che chở cho tới khi lời phán truyền của người được chuyển rõ ràng tới chúng con, cho biết chúng con cần ưng thuận hay từ chối”. Ông hỏi như vậy, song vị thần một lần nữa lại trả lời như trước, yêu cầu họ giao nộp Paktyes cho người Ba Tư. Đến đây, Aristodikos, với chủ ý đã định sẵn, liền hành động như sau: Ông đi vòng quanh ngôi đền phá hủy các tổ chim sẻ và các loài chim khác đã làm tổ trên đền. Trong khi ông làm như vậy, người ta thuật lại rằng có một giọng nói cất lên từ trong thánh thất hướng tới Aristodikos như sau: “Ngươi, kẻ bất kính nhất, tại sao ngươi dám làm chuyện đó? Chẳng lẽ ngươi dám dùng vũ lực mang khỏi đền của ta những kẻ cầu xin sự che chở của ta sao?” Và người ta kể rằng Aristodikos không hề sợ hãi đã trả lời như sau: “Thưa thần linh, chẳng lẽ người tới trợ giúp cho những kẻ cầu khẩn người nhưng lại yêu cầu người Kyme giao nộp kẻ đã cầu khẩn họ hay sao?” và thần lại trả lời ông như sau: “Phải, ta lệnh cho các ngươi làm như vậy, để các ngươi càng bị tiêu diệt nhanh chóng hơn vì sự bất kính của mình; để các ngươi trong tương lai sẽ không còn tới đây hỏi dự ngôn giả của ta về việc giao nộp những kẻ cầu xin”.
160. Khi người Kyme nghe thuật lại câu trả lời này, không mong muốn bị hủy diệt vì giao nộp Paktyes hay bị vây hãm vì giữ ông ta lại, họ trục xuất ông ta tới Mytilene. Tuy nhiên người Mytilene, khi Mazares phái sứ giả tới gặp họ, đã chuẩn bị giao nộp Paktyes với một cái giá, nhưng bao nhiêu thì tôi không thể nói được vì cuộc mặc cả không bao giờ hoàn tất do người Kyme, khi họ biết những gì người Mytilene đang làm, đã phái một chiếc thuyền tới Lesbos và đưa Paktyes tới Khios. Sau đó, ông ta bị người Khios điệu ra khỏi ngôi đền Athena Polioukhos và giao nộp; đổi lại người Khios nhận được Atarneus (ngày nay Atarneus là một vùng thuộc Mysia nằm đối diện với Lesbos). Người Ba Tư, sau khi nhận được Paktyes, đã canh giữ ông ta để đưa ông ta về trước Kyros. Và suốt một thời gian dài không ai trong số người Khios sử dụng lúa mạch trồng ở vùng Atarneus để rải trong các lễ hiến sinh cho bất cứ vị thần nào hay để nướng bánh từ lúa mì trồng ở đó, mà tất cả sản vật từ vùng đất này đều bị loại khỏi mọi nghi lễ thiêng liêng.
161. Sau khi người Khios đã giao nộp Paktyes, Mazares liền tấn công những người đã tham gia vây hãm Tabalos. Thoạt đầu, ông biến tất cả người Priene thành nô lệ, sau đó ông xâm chiếm toàn bộ vùng đồng bằng Maiandros, đoạt chiến lợi phẩm cho đạo quân của mình, rồi chiếm cả Magnesia theo cùng cách. Ngay sau đó, ông này mắc bệnh và chết.
162. Sau khi ông ta chết, Harpagos người Media, thay quyền chỉ huy (đây chính là người mà vua Media Astyages đã mời ăn thịt con trong dạ tiệc, và cũng là người đã giúp chiếm lấy vương quốc này cho Kyros). Harpagos, khi đó được Kyros giao quyền chỉ huy, đã tới Ionia và tiến hành đánh chiếm các thành phố bằng cách đắp các ụ đất cạnh chúng: vì khi ông ta đã vây hãm bất cứ tộc người nào trong tường thành của họ, Harpagos sau đó liền đắp các ụ đất dựa vào tường thành và đã chiếm được thành phố như vậy; và thành phố đầu tiên của Ionia ông ta tấn công là Phokaia.
163. Người Phokaia chính là những người Hy Lạp đầu tiên thực hiện những chuyến hải hành dài, và chính họ đã khám phá ra biển Adria, Tyrrhenia, Iberia và Tartessos. Họ thực hiện các chuyến đi không phải trên những chiếc thuyền thân tròn, mà trên những chiếc pentekonteroi. Họ tới Tartessos và kết bạn với vua của người Tartessos có tên là Arganthonios. Ông này là vua Tartessos trong 80 năm và sống đến 125 tuổi. Người Phokaia trở nên rất thân thiết với vị vua này, tới mức thoạt đầu nhà vua đề nghị họ rời khỏi Ionia và tới định cư tại bất cứ nơi nào họ muốn trên lãnh thổ của ông. Và vì không thể thuyết phục người Phokaia làm điều này, sau đó, khi nghe được từ họ về sức mạnh ngày càng tăng lên của Media, nhà vua đã tặng họ tiền để xây một bức tường bao quanh thành phố của họ; và nhà vua làm vậy không hề tính toán, vì bức tường thành có chu vi rất lớn, và toàn bộ được xây từ những tảng đá lớn được ghép khít vào nhau.
164. Bức tường thành của người Phokaia được xây dựng như thế, và Harpagos, sau khi dẫn đạo quân của mình tới tấn công họ, bắt đầu hãm thành, đồng thời gửi tới họ những đề xuất, nói rằng để ông ta hài lòng, người Phokaia chỉ cần sẵn lòng phá sập một tháp canh trên tường thành của họ và dâng một ngôi nhà duy nhất là đủ. Nhưng người Phokaia, rất buồn phiền trước ý nghĩ phải thần phục, nói họ muốn bàn bạc về việc này trong một ngày, rồi sau đó họ sẽ cho biết câu trả lời của mình. Rồi họ yêu cầu Harpagos rút quân xa khỏi tường thành trong khi họ đang bàn bạc. Harpagos nói ông ta biết quá rõ họ định làm gì, dù vậy ông vẫn sẵn sàng cho phép họ thảo luận. Vậy là sau đó, khi Harpagos đã lui quân khỏi tường thành, người Phokaia đưa những chiếc pentekonteroi của họ xuống biển, đưa lên đó con cái, phụ nữ và tất cả của cải có thể mang theo được, cùng các ảnh tượng lấy ra từ các ngôi đền và các lễ vật dâng lên các vị thần, ngoại trừ những thứ làm bằng thanh đồng, đá hoặc các họa phẩm, tất cả những thứ còn lại, như tôi đã nói, họ mang hết xuống thuyền, rồi sau khi chính họ đã lên thuyền, họ khởi hành về hướng Khios. Và khi người Ba Tư chiếm được Phokaia, thành phố đã vắng bóng toàn bộ cư dân.
165. Nhưng về phần người Phokaia, vì người Khios không chấp nhận bán cho họ quần đảo mang tên Oinoussai như họ đề nghị vì sợ rằng những hòn đảo này sẽ trở thành một trung tâm giao thương khiến cho Khios suy tàn, họ liền đi tới Kyrnos (Corsica), vì tại Kyrnos họ đã lập một đô thị tên là Alalia từ 20 năm trước, tuân theo một thần dụ (vào thời điểm đó Arganthonios đã qua đời). Và trên đường tới Kyrnos, họ trước hết quay lại Phokaia và tàn sát lực lượng đồn trú Ba Tư đã được Harpagos giao chiếm đóng thành phố. Sau khi hoàn tất việc này, họ nghiêm trang làm lễ nguyền rủa bất cứ ai bỏ cuộc không tham gia chuyến hải hành của họ, rồi thêm nữa họ ném một khối sắt xuống biển và thề chỉ đến khi khối sắt đó nổi lên trên mặt biển họ mới trở lại Phokaia. Tuy nhiên khi trên đường tới Kyrnos, hơn nửa số công dân thoái chí và nuối tiếc thành bang và bản quán họ, những người này liền trái lời thề và quay trở lại Phokaia. Nhưng những người giữ vững lời thề vẫn nhổ neo rời khỏi quần đảo Oinoussai và ra đi.
166. Khi họ tới Kyrnos, trong năm năm họ sống cùng những người đã tới đây từ trước, và họ xây các ngôi đền ở đó. Sau đó, vì họ cướp bóc của tất cả các láng giềng, người Tyrrhenoi và người Karkhedon hợp sức tấn công họ, mỗi bên với 60 chiến thuyền. Và người Phokaia cũng chuẩn bị chiến thuyền của họ, tổng cộng 60 chiếc, và đón đánh kẻ thù tại nơi được gọi là biển Sardo. Khi hai hạm đội giao chiến trên biển, người Phokaia giành được một thắng lợi kiểu Kadmeia, vì 40 thuyền của họ bị phá hủy, 20 chiếc còn lại bị hư hại do mũi thuyền bị vẹo sang một bên. Vậy là họ đi thuyền tới Alalia, đưa lên thuyền con cái, phụ nữ của họ cùng các của cải khác hết mức những chiếc thuyền của họ có thể mang được, rồi họ bỏ Kyrnos lại sau lưng và đi tới Rhegion.
167. Nhưng về phần thủy thủ đoàn của những chiếc thuyền bị phá hủy, đại đa số bị người Karkhedon và người Tyrrhenoi bắt được. Và những thủy thủ này bị kẻ thù đưa lên bờ ném đá đến chết. Sau chuyện này, người Agyllaioi phát hiện ra rằng mọi sinh vật đi ngang qua nơi những người Phokaia được chôn cất sau khi bị ném đá đều bị dị dạng, què quặt hay liệt, dù là gia súc nhỏ, súc vật thồ hay chính con người. Vậy là người Agyllaioi phái sứ giả tới Delphoi để mong thanh tẩy bản thân họ khỏi sự trừng phạt, và nữ tư tế Pythia yêu cầu họ làm điều mà người Agyllaioi bây giờ vẫn tiếp tục thực hiện, đó là tổ chức những lễ hiến sinh lớn dâng lên người chết, tổ chức tại nơi đó một cuộc thi điền kinh và đua ngựa.
Trên đây là câu chuyện về những người Phokaia gặp phải số mệnh như tôi đã kể; song những người tới tị nạn ở Rhegion bắt đầu khởi hành từ đó và lập thành phố nằm trên vùng đất Oinotria mà ngày nay được gọi là Elea. Họ thiết lập thành phố này sau khi biết được từ một người Poseidonia rằng nữ tư tế Pythia khi trả lời họ đã có ý bảo họ dựng một ngôi đền cho Kyrnos, vốn là một vị anh hùng, chứ không phải định cư trên đảo Kyrnos.
168. Câu chuyện xảy ra với thành Phokaia ở Ionia là như vậy, và điều gần như tương tự cũng đã diễn ra với người Teos: vì ngay khi Harpagos chiếm tường thành của họ bằng một ụ đất, họ liền xuống thuyền của mình và đi thẳng tới Thraike; và ở đó họ lập nên thành Abdera, trước đó đô thị này vốn đã được Timesios người Klazomenai thiết lập nhưng không thu được lợi ích gì mà bị người Thraike đánh đuổi đi. Và giờ đây, ông được tôn thờ như một vị anh hùng bởi người Teos tại Abdera.
169. Trong số những người Ionia, chỉ có cư dân hai thành phố kể trên rời bỏ thành bang vì họ không cam chịu thần phục. Còn những tộc người Ionia khác, ngoại trừ người Miletos, quả thực đã giao chiến với Harpagos tương tự như những tộc người đã bỏ xứ ra đi, và chứng tỏ bản thân họ cũng là những người dũng cảm, tất cả đều chiến đấu cho thành bang mình, nhưng khi bị đánh bại và bắt giữ, tất cả họ đều ở lại bản quán và thực hiện những gì được áp đặt lên họ. Song người Miletos, như tôi cũng đã kể trước đây, đã có thỏa ước với chính Kyros và vẫn tuân thủ nó. Vậy là lần thứ hai Ionia bị khuất phục. Và khi Harpagos đã chinh phục những người Ionia sống trên đất liền, những người Ionia sống trên các hòn đảo, hoảng sợ trước những gì đã diễn ra, cũng thần phục Kyros.
170. Khi những người Ionia đã bị rơi vào nghịch cảnh tồi tệ như vậy song vẫn tiếp tục tập hợp như trước tại Panionion, Bias thành Priene đã đưa ra với những người Ionia, theo như tôi được biết, một lời khuyên hữu ích nhất, và nếu làm theo nó họ đã có thể là những người thịnh vượng nhất trong tất cả các tộc người Hy Lạp. Ông kêu gọi người Ionia nên tập hợp và đi thuyền tới Sardo, rồi lập một đô thị duy nhất cho tất cả người Ionia. Như thế, họ sẽ thoát khỏi sự nô dịch và sẽ thịnh vượng, làm chủ hòn đảo lớn nhất trong mọi hòn đảo và là chủ nhân của các tộc người khác. Tuy nhiên, nếu ở lại Ionia, Bias nói tiếp, ông không thấy tự do còn có thể tồn tại cho họ. Đây là lời khuyên Bias thành Priene đưa ra sau khi các tộc người Ionia đã bị khuất phục. Nhưng có một lời khuyên tốt cũng đã được đưa ra trước khi Ionia thất bại bởi Thales thành Miletos, vốn là hậu duệ người Phoinike. Ông khuyên người Ionia nên có một trung tâm chính quyền duy nhất, và trung tâm đó nên đặt tại Teos (vì Teos, như ông nói, nằm ở trung tâm của Ionia), và các thành phố khác nên được cư trú như trước, song chỉ được coi là các trấn. Hai cá nhân kể trên đã đưa ra cho họ những lời khuyên như tôi đã kể.
171. Còn Harpagos, sau khi khuất phục Ionia, tiếp tục tấn công người Karia, Kaunos và Lykia, mang theo cả những người Ionia và người Aiolis để trợ giúp ông ta.
Trong số những tộc người trên, người Karia vốn từ các hòn đảo di cư vào đất liền; vì vào thời xa xưa từng là thần dân của Minos và được gọi là người Leleges, họ đã quen với sống trên các hòn đảo, không cống nạp theo những gì tôi có thể tìm hiểu qua nghe kể lại, nhưng bất cứ khi nào Minos yêu cầu cống nạp, họ thường cung cấp thuyền và thủy thủ. Và vì Minos chinh phục được rất nhiều đất đai và gặp may trong chiến đấu, người Karia nổi tiếng nhất trong số các dân tộc vào thời đó cùng với ông. Và họ có ba phát minh mà người Hy Lạp tiếp thu và sử dụng. Người Karia chính là những người đầu tiên tạo ra thói quen gắn chùm lông lên các mũ chiến, cũng như tạo ra các biểu tượng được gắn lên những chiếc khiên, đồng thời họ cũng là những người đầu tiên chế tạo tay cầm cho những chiếc khiên của họ, trong khi trước đó tất cả những ai hay dùng khiên đều mang khiên mà không có tay cầm, chỉ dùng các dây da để điều chỉnh khiên sau khi đã treo khiên lên cổ và vai trái họ. Thế rồi sau một thời gian dài, người Doris và người Ionia đánh đuổi người Karia khỏi các hòn đảo, vì thế họ lên định cư trên đất liền. Về người Karia, người Krete kể lại như vậy, song bản thân người Karia lại không tán thành câu chuyện này, mà cho rằng họ ngay từ đầu đã là các cư dân trên đất liền, và họ luôn mang tên gọi như họ vẫn có hiện tại. Và họ viện ra làm bằng chứng một ngôi đền cổ của Zeus Karios tại Mylasa, nơi người Mysia và người Lydia cũng tới thờ phụng với tư cách là những tộc người anh em của người Karia, vì họ kể rằng Lydos và Mysos là những người anh em của Kar. Họ cùng thờ phụng ở ngôi đền này, song những dân tộc khác nói cùng ngôn ngữ như người Karia lại không tới thờ phụng ở đó.
172. Tuy nhiên, với tôi dường như người Kaunos là cư dân ở đó từ thuở đầu, cho dù bản thân họ nói rằng họ có gốc gác từ Krete. Song họ đã bị đồng hóa về ngôn ngữ bởi người Karia, hoặc người Karia đã bị người Kaunos đồng hóa về ngôn ngữ, tôi không thể khẳng định chính xác. Tuy vậy, họ có những tập quán rất khác biệt so với những tộc người khác cũng như so với người Karia. Chẳng hạn, điều tuyệt vời nhất theo đánh giá của họ là tụ tập thật đông để uống rượu theo sự tương đồng về tuổi tác hay tình bạn, cả đàn ông, phụ nữ và trẻ nhỏ. Và khi họ xây những ngôi đền cho các vị thần ngoại lai, sau đó họ thay đổi mục đích của chúng và quyết định chỉ thờ phụng những vị thần bản địa của chính họ, và toàn bộ thanh niên Kaunos cùng mặc áo giáp lên người, thực hiện truy đuổi cho tới tận biên giới của người Kalynda, dùng những cây giáo của họ đập vào không khí, và họ nói họ đang xua đuổi các vị thần ngoại lai khỏi lãnh thổ. Đó là những tập quán của tộc người này.
173. Người Lykia có nguồn gốc từ đảo Krete (vì vào thời xa xưa toàn bộ đảo Krete do các man tộc chiếm cứ). Khi con trai của Europe, Sarpedon và Minos, tới tranh đoạt Krete để lập vương quốc, Minos giành phần thắng trong cuộc tranh chấp và đánh đuổi cả Sarpedon lẫn thuộc hạ của ông này khỏi đảo. Sau khi bị trục xuất, họ đi tới vùng đất Milyas ở châu Á, vì vùng đất ngày nay người Lykia cư trú được gọi là Milyas vào thời cổ xưa, và người Milyas khi đó được gọi là Solymoi. Trong khi Sarpedon cai trị họ, họ được gọi bằng tên gọi của họ khi tới vùng đất đó, và những bộ lạc lân bang ngay cả bây giờ vẫn gọi người Lykia bằng cái tên đó, Termilai. Nhưng khi Lykos con trai của Pandion từ Athenai tới vùng đất của người Termilai và tới gặp Sarpedon sau khi cũng bị chính anh trai mình, Aigeus, xua đuổi, chính từ tên của Lykos mà sau một thời gian họ được gọi là những người Lykia. Phong tục của tộc người này một phần giống người Krete, một phần giống người Karia. Song họ có một phong tục kỳ dị, không giống bất cứ tộc người nào, đó là họ gọi bản thân theo họ mẹ chứ không phải theo họ bố. Và nếu một người hỏi hàng xóm mình rằng anh ta là ai, người kia sẽ kể ra họ hàng bên ngoại, và liệt kê những bậc tiền bối nữ giới bên họ mẹ. Và nếu một phụ nữ là công dân kết hôn với một nô lệ, những đứa con được coi là có nguồn gốc cao quý. Song nếu một người đàn ông là công dân, cho dù có là người quyền thế nhất trong tộc người, lấy một nô lệ làm vợ hay thê thiếp, những đứa con sẽ không có quyền công dân.
174. Người Karia bị Harpagos khuất phục mà không có bất cứ chiến công huy hoàng nào được thể hiện bởi chính họ hay những người Hy Lạp sống ở vùng đất này. Trong số họ, ngoài các tộc người khác còn có người Knidos, thực dân từ Lakedaimon, sống tại miền đất nhìn ra biển, chính là vùng được gọi là Triopion, bắt đầu từ bán đảo Bybassos. Vì tất cả vùng Knidos, ngoại trừ một phần nhỏ, đều nằm kề biển (phần hướng lên phía bắc của vùng đất này được giới hạn bởi vịnh Keramos, và phần cực nam chạy sát biển đối diện với Syme và Rhodos). Vì thế người Knidos bắt đầu đào sâu xuống phần nhỏ quay vào đất liền này, chỉ dài khoảng 5 stadia, trong khi Harpagos đang khuất phục Ionia, nhằm biến vùng đất của họ thành một hòn đảo, và bên trong Eo đất này toàn bộ là lãnh thổ của họ, vì ở nơi lãnh thổ của Knidos kết thúc về hướng đất liền, Eo đất này chính là chỗ họ đào ngang qua. Và trong khi người Knidos đang thực hiện việc này với số lượng lớn nam giới, họ nhận ra rằng những người làm việc bị thương nhiều hơn nhiều so với mức lường trước và theo một cách siêu nhiên hơn, cả ở những phần khác của cơ thể và đặc biệt ở mắt của họ, khi đá bị đập vỡ ra. Vậy là họ cử người tới Delphoi hỏi lý do gây ra khó khăn. Và nữ tư tế Pythia, như chính người Knidos kể lại, đã cho họ câu trả lời này bằng thơ tam bộ cách:
Chớ bao quanh Eo đất này bằng tòa tháp hay đào qua nó;
Zeus hẳn đã tạo ra một hòn đảo nếu ngài muốn.
Khi nữ tư tế Pythia đưa ra thần dụ này, người Knidos không chỉ thôi đào hào mà còn quy phục Harpagos không chút kháng cự khi ông ta tới cùng đạo quân của mình.
175. Còn có cả những người Pedasees cư trú ở vùng nội địa nằm phía trên Halikarnassos. Ở chỗ họ, bất cứ khi nào có điều gì tai hại sắp sửa xảy đến với chính họ hay với các láng giềng của họ, nữ tư tế của Athena lại có một bộ râu rậm. Điều này đã xảy đến với họ ba lần. Trong tất cả các tộc người ở Karia, họ là những người duy nhất chống cự được ít nhiều trước Harpagos, và họ gây ra cho ông ta nhiều rắc rối hơn bất cứ tộc người nào khác sau khi đã phòng thủ kiên cố trên một ngọn núi có tên Lida.
176. Sau một thời gian, người Pedasees bị chinh phục. Và người Lykia, khi Harpagos dẫn đạo quân của ông ta tiến vào đồng bằng Xanthos, đã xuất quân chống lại ông ta và chiến đấu, ít địch nhiều, và chứng tỏ sự can trường. Nhưng khi bị đánh bại và vây hãm trong thành phố của mình, họ đã đưa vào trong pháo đài toàn bộ vợ con, của cải và gia nhân của họ, rồi sau đó nổi lửa đốt pháo đài, để tất cả đều cháy trụi trong ngọn lửa, và sau khi đã làm việc này cũng như thề với nhau những lời thề ghê gớm, họ lại xông ra chiến đấu với quân thù và toàn bộ đàn ông Xanthos bị giết sạch trong chiến đấu. Vì thế, những người Xanthos hiện nay tự xưng là người Lykia phần lớn đến từ ngoại quốc, ngoại trừ 80 gia đình. Tám mươi gia đình này khi đó tình cờ lại vắng mặt khỏi quê hương của họ, nhờ đó thoát khỏi sự hủy diệt. Harpagos chiếm được Kaunos theo cách tương tự, vì người Kaunos đã noi gương người Lykia.
177. Vậy là Harpagos chinh phục được các vùng bờ biển châu Á, trong khi đó bản thân Kyros cũng làm điều tương tự ở vùng phía trên, khuất phục mọi dân tộc và không để sót ai cả. Phần lớn những hành động này tôi sẽ im lặng bỏ qua, song những cuộc chinh phục khiến nhà vua gặp nhiều khó khăn hơn những cuộc chinh phục khác và đáng để ý nhất sẽ được tôi nhắc tới.
178. Kyros, ngay sau khi đã khuất phục dưới quyền cai trị của mình tất cả những phần nội địa khác, đã tiến hành tấn công người Assyria. Người Assyria hiển nhiên có nhiều thành phố lớn khác, song thành trì nổi tiếng nhất và hùng mạnh nhất, cũng là nơi quân vương của họ đóng đô sau khi Ninos bị phá hủy, là Babylon. Đây là một thành phố như tôi sẽ miêu tả sau đây. Thành phố tọa lạc trên một đồng bằng rộng lớn, và quy mô của tòa thành lớn tới mức mỗi mặt thành dài tới 120 stadia, hình dáng tổng thể của tòa thành là hình vuông. Như vậy, chu vi tòa thành lên tới 480 stadia. Kích thước của thành Babylon lớn đến vậy đó, và sự tráng lệ của đô thị này vượt xa tất cả những đô thị khác chúng ta từng biết tới. Trước hết, xung quanh thành là một đường hào sâu, rộng chứa đầy nước. Tiếp theo là một bức tường dày tới 50 pekhes hoàng gia1 và cao 200 pekhes. Cần nhớ 1 pekhys hoàng gia dài hơn 1 pekhys thường một khoảng bằng 3 daktyloi.
1. 1 pekhys hoàng gia tương đương 52 cm.
179. Tôi cũng phải nói thêm về việc đất được lấy lên khi đào hào được dùng vào việc gì và bức tường thành được xây ra sao. Khi người Assyria đào hào, họ lấy đất được đào lên làm thành gạch, và sau khi đã nặn đủ gạch, họ đem nung trong lò. Rồi sau đó, sử dụng hắc ín nóng chảy làm vữa và nhồi những lớp sậy vào sau mỗi 30 lớp gạch, họ xây lên trước hết là các bờ của hào, rồi sau đó đến chính tường thành theo cùng một cách. Và ở trên đỉnh tường thành, dọc theo các rìa họ xây những căn phòng một tầng nằm đối diện với nhau; và ở giữa các dãy phòng, họ để chừa ra không gian để một tứ mã chiến xa chạy qua. Trên vòng tường thành có bố trí 100 cổng bằng thanh đồng với cột và rầm cũng bằng thanh đồng. Có một đô thị khác nằm cách Babylon tám ngày đường có tên là Is, tại đó có một dòng sông nhỏ cũng tên là Is chảy qua, và dòng sông này đổ vào sông Euphrates. Dòng sông Is này cùng với nước đẩy lên bờ rất nhiều cục hắc ín, và hắc ín được mang từ đó về xây tường thành của Babylon.
180. Babylon được xây tường thành như thế, và thành phố được chia thành hai phần vì có một dòng sông tên là Euphrates chảy ngang qua giữa nó. Dòng sông này xuất phát từ vùng đất của người Armenia, là một dòng sông lớn, sâu và chảy xiết, và nó đổ ra biển Erythra. Ở mỗi bên bờ, chỗ nối tường thành được xây xuống tới sát con sông, rồi từ điểm này các bức tường vòng lại chạy dọc theo mỗi bờ sông dưới dạng một bức lũy bằng gạch nung. Bản thân thành phố có rất nhiều nhà ba và bốn tầng, và các con đường được mở ra thành những đường thẳng, bao gồm các giao lộ dẫn ra sông. Và ở đối diện với mỗi con đường có những cổng được mở trên bức lũy chạy dọc bờ sông, với số lượng bằng đúng số đường. Những cánh cổng này cũng làm bằng thanh đồng, và cũng dẫn xuống sông như chính các con đường.
181. Bức tường thành như tôi vừa miêu tả ở trên là một tấm giáp cho thành phố, và một bức tường khác chạy vòng bên trong nó, không yếu hơn bức tường thứ nhất bao nhiêu về mặt phòng thủ song bao quanh một diện tích hẹp hơn. Và ở tại mỗi phần của thành phố có một tòa nhà ở chính trung tâm, một tòa là cung điện rộng mênh mông và được phòng thủ kiên cố của nhà vua, tòa còn lại là ngôi đền của thần Zeus Belos với những cánh cổng bằng thanh đồng, và ngôi đền này vẫn còn tồn tại tới tận thời của tôi, có kích thước mỗi chiều 2 stadia và có hình vuông. Ở chính giữa đền có xây một tòa tháp kiên cố với chiều dài và chiều rộng đều là 1 stadion, và trên tòa tháp này một tòa tháp nữa được dựng lên, rồi thêm một tòa tháp nữa bên trên tòa tháp thứ hai, cứ như vậy tổng cộng có tám tòa tháp. Một lối đi lên các tòa tháp này đã được xây chạy vòng quanh bên ngoài tất cả các tòa tháp. Và khi đi tới nửa chừng lối lên, người ta sẽ tìm thấy một chỗ nghỉ với ghế để ngồi nghỉ, làm nơi để những người leo tháp nghỉ chân. Và trên đỉnh của tòa tháp trên cùng có một căn phòng lớn, trong căn phòng này có kê một chiếc trường kỷ lớn được che kín, và bên cạnh có đặt một chiếc bàn bằng vàng. Không có ảnh tượng nào được đặt tại đây và không người nào qua đêm tại đây ngoại trừ duy nhất một người phụ nữ là cư dân bản địa của nơi này, một người sẽ được thần lựa chọn từ tất cả các phụ nữ, như những tư tế Khaldaia của vị thần này nói.
182. Họ cũng nói, song tôi không tin lời họ, rằng đích thân vị thần thường xuyên tới căn phòng nọ và nằm nghỉ trên trường kỷ, như đã từng xảy ra tại Thebai thuộc Ai Cập theo lời kể của những người Ai Cập, vì tại đó cũng có một phụ nữ ngủ trong đền Zeus Thebaios (và tất cả những phụ nữ này đều được kể là không quan hệ với nam giới), hay như đã xảy ra với nữ tư tế của thần tại thành Patara thuộc Lykia, nơi nữ tư tế truyền đạt thần dụ khi được yêu cầu (vì không có dự ngôn giả thường trực ở đó), bị khóa kín trong đền vào ban đêm.
183. Thêm nữa, trong ngôi đền tại Babylon còn có một căn phòng nữa ở bên dưới, tại đây có một bức tượng lớn tạc Zeus đang ngồi làm bằng vàng, và bên cạnh bức tượng có kê một chiếc bàn lớn bằng vàng, và bệ để chân cũng như ghế ngồi của tượng thần cũng làm bằng vàng. Và theo như người Khaldaia kể lại, khối lượng vàng dùng để đúc những thứ này là 800 talanta. Bên ngoài căn phòng có một ban thờ bằng vàng, và cũng có một ban thờ khác với kích thước lớn, nơi các động vật đã trưởng thành được hiến sinh, trong khi tại ban thờ bằng vàng theo luật chỉ được phép hiến sinh những con vật nhỏ còn đang bú. Trên ban thờ lớn hơn, người Khaldaia đốt 1.000 talanta nhũ hương mỗi năm vào dịp họ mừng lễ hội của vị thần này. Hơn nữa, tại thánh địa này vẫn còn tồn tại vào thời của Kyros một bức tượng cao 12 pekhes bằng vàng nguyên khối. Tôi không tận mắt thấy bức tượng, song điều này được một người Khaldaia kể cho tôi và tôi thuật lại. Dareios, con trai của Hystaspes đã có mưu đồ chiếm lấy bức tượng này song không dám đoạt lấy nó. Tuy nhiên, bức tượng đã bị Xerxes, con trai Dareios lấy đi, ông cũng giết vị tư tế đã ngăn cản ông đoạt pho tượng. Như vậy, vào thời ấy ngôi đền được trang hoàng lộng lẫy, và cũng có rất nhiều lễ vật do cá nhân dâng hiến.
184. Về thành Babylon, bên cạnh rất nhiều vị vua khác mà tôi sẽ nói tới trong phần lịch sử Assyria, những người đã gia cố thêm cho các bức tường và các ngôi đền, cũng có hai nữ hoàng. Trong đó, vị nữ hoàng trị vì đầu tiên, có tên là Semiramis, sống trước vị nữ hoàng thứ hai năm thế hệ, đã cho đắp những con đê bằng đất trên vùng đồng bằng, một công trình xứng đáng để chiêm ngưỡng; trước khi có những con đê này dòng sông thường dâng lũ làm nước ngập khắp vùng đồng bằng.
185. Vị nữ hoàng sống sau thời của bà, tên là Nitokris, còn thông tuệ hơn vị nữ hoàng đã trị vì trước đó. Trước hết, bà để lại cho hậu thế những công trình tôi sẽ kể tới sau. Thứ hai, khi thấy rằng triều đại trị vì ở Media hùng mạnh và không ngồi yên một chỗ, thêm nữa tất cả các đô thành khác, kể cả Ninos đã bị vương quốc đó chinh phục, nữ hoàng đã thực hiện những biện pháp đối phó trong phạm vi bà có thể. Đầu tiên, về phần dòng sông Euphrates chảy qua chính giữa thành phố của họ, trong khi trước đó dòng sông chảy thẳng, bằng cách đào những con kênh trên sông nữ hoàng đã khiến con sông uốn lượn tới mức trên thực tế dòng chảy của nó đã ba lần đi qua một trong những ngôi làng ở Assyria, và tên ngôi làng nơi sông Euphrates chảy qua là Arderikka. Và ngày nay những ai đi từ biển của chúng ta tới Babylon, trong cuộc hành trình của họ xuôi dòng sông Euphrates sẽ tới cùng ngôi làng này ba lần vào ba ngày khác nhau. Nữ hoàng đã thực hiện việc này, và bà cũng đắp một kè đất nằm dọc theo mỗi bờ sông, kích thước và chiều cao của chúng đáng để khiến người ta kinh ngạc. Và ở cách một quãng xa phía trên Babylon, nữ hoàng cho đào một cái hồ, và cho mở rộng ra chỉ cách dòng sông một khoảng cách ngắn, đào xuống ở mọi chỗ thật sâu để chứa nước tràn bờ, và rộng tới mức chu vi hồ lên tới 420 stadia. Đất được đào lên khi làm hồ nữ hoàng dùng để đắp lên những kè đất dọc theo bờ sông. Và khi hồ đào xong, nữ hoàng cho chuyển đá tới và lát khắp xung quanh như tường vách. Nữ hoàng đã thực hiện cả hai công trình kể trên, nghĩa là bà đã làm cho dòng chảy của sông trở nên uốn khúc, và cho đào một đầm nước để nhằm làm dòng sông chảy chậm hơn, sau khi sức mạnh của nó đã bị suy giảm khi chảy vòng qua nhiều khúc cong, và như thế những cuộc hành trình tới Babylon sẽ trở nên vòng vèo, và tiếp theo đó là một chuyến đi dài vòng qua hồ nước. Những công trình này được nữ hoàng thi công ở khu vực cửa ngõ của đất nước và nằm trên con đường ngắn nhất từ Media tới, để người Media không giao thương với vương quốc của bà và biết được chính sự của bà.
186. Những công trình phòng thủ này được nữ hoàng dày công thiết lập quanh thành phố của bà, và nữ hoàng thực hiện thêm những bổ sung sau đây phụ thuộc vào chúng: Thành phố được chia thành hai phần, và dòng sông chiếm toàn bộ không gian giữa hai phần này. Vào thời các vị vua trước, khi bất cứ ai muốn đi từ một bên thành phố sang bên kia, người đó phải qua sông bằng thuyền, và việc này, theo như tôi hình dung, khá vất vả. Nữ hoàng đã giải quyết cả vấn đề này. Vì khi bà cho đào hồ chứa nước, bà đã thực hiện công trình tiếp theo đây của mình bắt nguồn từ chính hồ nước này. Nữ hoàng cho xẻ đá thành những khối rất dài, và khi đá được chuẩn bị và lòng hồ đã đào xong, nữ hoàng cho nắn dòng chảy của toàn bộ con sông vào nơi bà đào hồ. Trong lúc hồ ngập nước, lòng sông cũ trở nên cạn khô, và nữ hoàng đã cho kè sông bằng gạch nung theo cùng một cách cả những bức tường bờ sông của khúc sông chảy qua thành phố cũng như những lối xuống sông từ các cánh cổng nhỏ mở ra sông. Và ở vào khoảng giữa thành phố, theo như tôi ước đoán, sử dụng những tảng đá bà đã cho đục đẽo, nữ hoàng tiến hành xây một cây cầu, gắn kết các tảng đá với nhau bằng sắt và chì. Ở trên cùng bà cho bắc những thanh gỗ vuông nằm ngang qua. Những thanh gỗ được để nguyên chỗ vào ban ngày để người Babylon qua sông, nhưng đến đêm họ thường cất những thanh gỗ đi để người ta không thể qua lại con sông vào ban đêm và ăn trộm của nhau. Và khi lòng hồ được đào đã được biến thành một cái hồ đầy nước cạnh con sông, đồng thời cây cầu đã hoàn tất, nữ hoàng cho nắn dòng sông Euphrates trở lại lòng cũ của nó từ hồ nước, vậy là nơi được đào biến thành một cái đầm được cho là đã phục vụ một mục đích tốt đẹp, đồng thời một cây cầu cũng được bắc cho dân cư thành phố.
187. Cũng chính vị nữ hoàng này đã nghĩ ra một cái bẫy như sau: Phía trên cổng thành có nhiều dân cư qua lại nhất, nữ hoàng xây cho mình một lăng mộ ở ngay trên chính chiếc cổng. Và trên mộ bà khắc những dòng chữ: “Nếu bất cứ vị vua nào của Babylon trị vì sau ta thiếu tiền bạc, người đó hãy mở ngôi mộ của ta ra và lấy bao nhiêu tùy thích; nhưng đừng để vị vua đó mở ngôi mộ vì bất cứ lý do nào khác, nếu người đó không thiếu thốn; vì làm vậy sẽ là không tốt”. Ngôi mộ này không bị quấy rầy cho tới khi vương quốc tới tay Dareios. Song với Dareios dường như thật là chuyện vô lý khi không dùng chiếc cổng này vào việc gì, cũng như việc không lấy tiền đi khi có tiền để ở đó, coi bản thân số tiền bạc này mời gọi ông làm như vậy. Lý do khiến nhà vua không muốn dùng tới chiếc cổng là vì thi thể vị nữ hoàng sẽ ở trên đầu ông khi ông đi qua cổng. Vậy là nhà vua mở ngôi mộ ra và trên thực tế không hề tìm thấy tiền mà chỉ thấy xác chết cùng những dòng chữ viết như sau: “Nếu ngươi không phải kẻ tham tiền vô độ và thèm khát một cách tầm thường, ngươi hẳn đã không khai quật nơi an nghỉ của người quá cố”.
188. Vị nữ hoàng được cho là đúng như những gì tôi miêu tả, và chính con trai của vị nữ hoàng này, cũng mang tên Labynetos như cha mình, khi đó là vua của người Assyria, là người Kyros đang hành quân tấn công. Vị vua vĩ đại tiến quân không những được chuẩn bị chu đáo lương thực và gia súc từ quê nhà, mà ông còn đem theo nước lấy từ sông Khoaspes, dòng sông chảy qua Sousa, và nhà vua chỉ uống nước lấy từ dòng sông này chứ không từ dòng sông nào khác. Và thứ nước sông Khoaspes được đun sôi này được chứa trong các bình bạc, chất đầy trên một số lớn xe bốn bánh được la kéo để đi cùng nhà vua tới bất cứ nơi nào ông tiến quân vào bất cứ thời điểm nào.
189. Trên đường tới Babylon, Kyros tới sông Gyndes, nguồn của dòng sông này xuất phát từ các ngọn núi của người Matienoi, và nó chảy qua vùng đất của người Dardanoi rồi đổ vào một dòng sông khác, sông Tigris, con sông chảy qua thành Opis trước khi đổ ra biển Erythra. Như tôi đã nói, khi Kyros tìm cách vượt qua dòng sông Gyndes, vốn là một dòng sông thuyền bè có thể lưu thông, thì một trong những con ngựa trắng thiêng của ông trong lúc hưng phấn và bướng bỉnh đã lao xuống sông tìm cách lội qua, song dòng sông lôi nó xuống nước và cuốn trôi đi. Kyros vô cùng tức giận với dòng sông vì đã xử sự xấc xược như vậy, và nhà vua đe dọa khiến nó trở nên yếu ớt tới mức trong tương lai thậm chí cả phụ nữ cũng có thể dễ dàng lội qua sông mà không ướt đầu gối. Sau lời hăm dọa này, nhà vua dừng cuộc hành quân tấn công Babylon và chia đạo quân của ông thành hai phần. Sau khi chia quân, ông cho căng dây vạch ra những con kênh thẳng, 180 con kênh ở mỗi bên bờ sông Gyndes, hướng theo mọi hướng. Rồi sau khi đã bố trí đạo quân của mình dọc theo các tuyến kênh, nhà vua ra lệnh cho họ đào kênh. Và vì một số lượng người lớn như vậy làm việc, công việc quả thực đã hoàn thành, song họ đã mất cả mùa hè để làm việc tại đó.
190. Khi Kyros đã trả thù sông Gyndes bằng cách chia nó thành 360 con kênh, và khi mùa xuân tiếp theo vừa mới bắt đầu, cuối cùng nhà vua cũng tiếp tục tiến quân về Babylon. Người Babylon đã xuất quân ra khỏi thành phố và chờ đợi ông. Vậy là khi Kyros tiến tới gần thành phố, người Babylon giao chiến với ông, rồi sau khi thua trận, họ bị vây chặt bên trong thành phố của họ. Nhưng vì biết từ lâu trước khi chuyện này xảy ra rằng Kyros sẽ không án binh bất động, đồng thời chứng kiến ông chinh phục tất cả các dân tộc khác không phân biệt, họ đã tích trữ trước lương thực trong nhiều năm. Vì thế trong khi cư dân Babylon không mấy lo lắng về cuộc vây hãm, Kyros lại lúng túng về việc cần làm gì, vì thời gian trôi qua và việc hãm thành của ông không hề tiến triển.
191. Vì thế, hoặc là do ai đó đã khuyên nhà vua khi ông đang bối rối không biết nên làm thế nào, hoặc chính ông đã nhận ra mình cần phải làm gì, Kyros đã làm như sau: Quân chủ lực được nhà vua bố trí tại nơi dòng sông chảy vào thành phố, rồi ở phía sau thành phố ông bố trí những lực lượng khác tại nơi dòng sông chảy ra khỏi thành phố. Rồi nhà vua ra lệnh cho đạo quân của mình rằng ngay khi họ thấy dòng nước đã trở nên có thể lội qua được, họ cần tiến vào thành phố theo lối này. Sau khi đã cắt cử quân và cổ vũ họ như vậy, nhà vua đích thân dẫn những binh sĩ không đủ sức chiến đấu trong đạo quân của mình đi. Khi tới chỗ hồ nước, Kyros đã làm những việc hệt như vị nữ hoàng của người Babylon đã làm với dòng sông và hồ nước, nghĩa là ông đào một con kênh dẫn nước sông vào hồ, khi đó chỉ là một đầm lầy, khiến cho dòng chảy cũ trở nên có thể lội được bằng việc hạ mực nước xuống. Khi việc này được thực hiện, binh lính Ba Tư đã được bố trí sẵn cho đúng mục đích này liền tiến theo lòng sông Euphrates vào thành Babylon, vì mực nước đã xuống thấp tới mức chỉ còn tới ngang bắp chân một người đàn ông. Nếu người Babylon biết trước chuyện này hay đoán được điều Kyros đang làm, họ hẳn đã cho phép quân Ba Tư tiến vào thành phố rồi sau đó tiêu diệt kẻ thù một cách thảm khốc, vì nếu họ đã đóng chặt tất cả các cổng dẫn ra sông và leo lên những bức lũy chạy dọc hai bên bờ sông, họ đã có thể bẫy kẻ thù như cá trong lưới. Nhưng trên thực tế quân Ba Tư đã tấn công họ một cách bất thình lình, và vì quy mô của thành phố (chính những cư dân sống tại đó đã nói vậy), sau khi những người sống ở các khu ngoại vi đã bị bắt, những người Babylon sống ở trung tâm còn không biết những người này đã bị bắt, mà vì tình cờ lúc đó họ đang tổ chức một lễ hội, họ tiếp tục nhảy múa và vui chơi trong suốt thời gian này cho tới khi biết sự thật một cách quá rõ ràng. Babylon đã bị đánh chiếm lần đầu tiên như vậy.
192. Còn về tài nguyên của người Babylon, việc chúng lớn tới mức nào tôi sẽ cho thấy bằng nhiều bằng chứng khác cũng như bằng điều này: Để cung cấp cho đại vương và quân đội của ông, ngoài những khoản cống nạp thường kỳ, toàn bộ đế quốc Ba Tư cai trị được chia thành các vùng. Trong 12 tháng của một năm, có bốn tháng nhà vua được cung cấp bởi vùng Babylon, và trong tám tháng còn lại bởi toàn bộ phần còn lại của châu Á. Như vậy, về nguồn tài nguyên, Assyria chiếm một phần ba của toàn bộ châu Á, và chính quyền, hay satrapeia như người Ba Tư gọi, của vùng lãnh thổ này cũng là tốt nhất so với các chính quyền khác. Hãy biết rằng khi Tritantaikhmes, con trai vua Artabazos được nhà vua giao cai quản xứ này, mỗi ngày ông ta nhận 1 artaba bạc (artaba là đơn vị của người Ba Tư chứa nhiều hơn medimnos1 Attika tới 3 khoinikes2 Attika). Ngoài số chiến mã là tài sản cá nhân trong tỉnh này, ông sở hữu tới 800 ngựa đực giống và 16.000 ngựa cái, vì mỗi ngựa đực giống phối giống cho 20 ngựa cái. Về chó săn Ấn Độ, một số lượng đông đảo được nuôi giữ tại bốn ngôi làng lớn ở vùng đồng bằng, nhiều đến nỗi những ngôi làng này được miễn tất cả các khoản cống nạp khác vì đã được chỉ định cung cấp thức ăn cho chó săn.
1. 1 medimnos (sn: medimnoi) tương đương 52,2 l.
2. 1 khoinix (sn: khoinikes) tương đương 1/48 medimnos.
193. Đó là sự sung túc của người cai trị Babylon. Đất của người Assyria có rất ít mưa, và lượng mưa ít ỏi này nuôi dưỡng bộ rễ của cây lương thực, song mùa màng chín được và cho thu hoạch là nhờ lấy nước từ sông, không giống như tại Ai Cập nhờ việc sông dâng nước ngập cánh đồng, ở đây mùa màng được tưới bằng múc tay hay gầu tát. Toàn lãnh thổ Babylon, cũng giống như vùng đất của người Ai Cập, có những tuyến kênh đào chạy qua, và những tuyến kênh lớn nhất cho phép thuyền bè lưu thông, chạy theo hướng mặt trời mọc vào mùa đông từ sông Euphrates tới dòng sông thứ hai, tức là sông Tigris, dọc bờ con sông này tọa lạc thành Ninos. Trong tất cả những vùng đất chúng ta biết, đây là nơi sản xuất lương thực tốt nhất. Về phần các loài cây, vùng lãnh thổ này thậm chí còn không thử canh tác chúng, dù là vả, nho hay ô-liu, song về trồng cây lương thực, nơi này cho thu hoạch tốt đến mức sản lượng trung bình có thể tới mức gấp 200 lần hạt giống đem gieo, và đến mức gấp 300 lần khi bội thu nhất. Ở đó, lá của lúa mì và lúa mạch có thể to tới tận 4 daktyloi, và cho dù tôi biết cây kê và cây vừng có thể cao tới mức nào, tôi sẽ không viết lại vì ý thức được quá rõ rằng ngay cả những gì tôi đã kể về những vụ mùa cũng đủ để gây ra hoài nghi cho những ai chưa từng tới thăm vùng đất Babylon. Họ không dùng dầu ô-liu, mà chỉ dùng dầu ép từ hạt vừng, và họ có những cây chà là mọc khắp nơi ở vùng đồng bằng, phần lớn đều cho quả, từ thứ quả này họ chế biến thực phẩm, làm rượu và mật. Và họ chăm sóc những cây chà là này theo cùng cách như với cây vả, và đặc biệt là họ lấy quả của những cây mà người Hy Lạp gọi là cây đực rồi buộc chúng lên những cây ra quả chà là, để những con ong gây mụn cây trong có thể chui vào làm chín quả và làm quả không rụng, vì những cây chà là đực cũng có ong gây mụn cây giống như các cây vả dại vậy.
194. Nhưng kỳ quan lớn nhất ở vùng đất này sau chính bản thân thành phố theo suy nghĩ của tôi là thứ tôi sắp kể ra đây: Những chiếc thuyền của họ, ý tôi muốn nói tới những chiếc thuyền đi xuôi dòng sông tới Babylon, có hình tròn và làm toàn bằng da. Vì họ làm khung cho thuyền bằng những cây liễu họ chặt ở vùng đất của người Armenia sống phía trên người Assyria, rồi quanh bộ khung này họ căng những tấm da thành một lớp bọc ngoài như một kiểu vỏ thuyền, không hề làm phần đuôi thuyền rộng và mũi thuyền nhọn lại, mà chế tạo những chiếc thuyền tròn như một chiếc khiên. Sau đó, họ lót thuyền bằng rơm rồi để thuyền chất đầy hàng hóa đi xuôi dòng, và đa số những chiếc thuyền kiểu này mang xuôi dòng những thùng bộng bằng gỗ cọ đựng đầy rượu vang. Thuyền được lái đi nhờ hai mái chèo và hai người đứng thẳng, người bên trong kéo mái chèo của mình trong khi người bên ngoài đẩy. Những chiếc thuyền này được chế tạo cả với kích thước rất lớn lẫn kích thước nhỏ hơn, và thuyền cỡ lớn nhất có thể chở được trọng lượng tới 5.000 talanta, và trong mỗi chiếc thuyền có chở một con lừa còn sống, và trong những thuyền cỡ lớn chở vài con. Nhờ thế, khi người ta tới Babylon sau chuyến đi và đã dỡ hàng xong, các chủ thuyền bán đấu giá bộ khung thuyền và tất cả rơm, rồi chất các tấm da lên lưng những con lừa của họ và dắt lừa về Armenia, vì không thể đi ngược dòng sông bằng bất cứ loại thuyền bè nào, do dòng nước chảy xiết, và cũng chính vì lý do này người ta không chế tạo thuyền bằng gỗ mà bằng da. Nhờ vậy, khi họ quay trở về vùng đất của người Armenia dắt theo những con lừa, họ lại chế tạo những chiếc thuyền mới theo cách tương tự.
195. Đó là về những chiếc thuyền của họ, còn sau đây là thứ trang phục họ mặc, một thứ áo tunic bằng vải lanh dài tới tận bàn chân, và bên ngoài chiếc áo này họ mặc một chiếc áo nữa bằng len, rồi một chiếc áo choàng trắng quàng quanh người, trong khi họ đi những chiếc giày theo phong cách bản địa trông giống dép Boiotia. Họ để tóc dài và quấn khăn quanh đầu, và họ xức nước thơm lên khắp người. Mỗi người đàn ông có một dấu triện và một cây gậy chạm trổ thủ công, và trên mỗi cây gậy được khắc hình hoặc một quả táo, một bông hồng hay một bông huệ, một con đại bàng hay một biểu tượng nào khác, vì theo phong tục của họ, không ai lại mang một cây gậy không có biểu tượng trên đó.
196. Đó là những thứ họ mặc trên người, và các phong tục đã được thiết lập của họ là như sau, trong đó khôn ngoan nhất theo ý tôi là phong tục dưới đây, điều tôi được cho hay là có cả ở người Enetoi tại Illyria. Tại tất cả các làng, cứ mỗi năm một lần phong tục này được thực hiện như sau: Khi các trinh nữ đến tuổi thành hôn, người ta tập hợp những cô gái này lại và đưa tới một nơi, tại đó những người đàn ông tới tập trung xung quanh họ. Người xướng danh liền gọi vài cô gái đứng dậy một lượt, và tiến hành bán họ, trước hết là cô xinh đẹp nhất, và sau đó, khi thiếu nữ này đã được bán đi và đem về một khoản tiền lớn, ông ta liền bán tới cô gái xinh đẹp thứ nhì sau cô này. Và những cô thiếu nữ được bán đi để kết hôn. Tất cả những người đàn ông Babylon giàu có sẵn sàng kết hôn sẽ đấu giá với nhau để giành lấy những trinh nữ xinh đẹp nhất. Những người đàn ông bình dân cũng sẵn sàng lấy vợ nhưng không đòi hỏi cô dâu xinh xắn sẽ chấp nhận một khoản tiền đi kèm các thiếu nữ kém sắc nhất. Vì khi người xướng danh đã hoàn tất việc bán đấu giá những thiếu nữ xinh đẹp nhất, ông ta sẽ lệnh cho những cô kém nhan sắc nhất đứng dậy, hoặc bất cứ cô gái nào khuyết tật, rồi ông sẽ chỉ định đích danh từng cô, rồi hỏi ai trong số đàn ông sẵn sàng cưới cô gái đó làm vợ mà đòi hỏi ít vàng nhất, vàng sẽ được lấy từ việc bán các thiếu nữ xinh đẹp, và vậy là những cô gái đẹp cung cấp của hồi môn cho những cô gái kém nhan sắc hay khuyết tật. Tuy nhiên, không ông bố nào được phép tự gả con gái đi cho bất cứ người đàn ông nào khác, hay một người đàn ông không được phép mang trinh nữ đi sau khi mua mà không đưa ra đảm bảo, vì người đàn ông nhất thiết phải đưa ra đảm bảo rằng ông ta sẽ cưới cô gái trước khi đưa cô gái đi. Và nếu hai người sống không hòa thuận, luật quy định rằng người đàn ông phải trả lại tiền. Luật cũng cho phép bất cứ ai muốn có thể từ các làng khác tới và mua.
Đây là phong tục đáng trân trọng nhất của họ. Tuy nhiên, hiện thời phong tục này không còn tồn tại nữa, vì về sau họ đã định ra một cách khác để những người đàn ông không xử tệ với các cô gái hay đưa họ tới một thành phố khác, bởi vì kể từ khi Babylon bị chinh phục, cư dân ở đây đã bị đàn áp và khánh kiệt, kết quả là mỗi khi một người đàn ông bình dân túng thiếu, anh ta lại bắt các con gái mình phải bán dâm.
197. Một phong tục khác được người Babylon thiết lập cũng xứng đáng được xếp kế tiếp về mức độ khôn ngoan: Họ đưa những người ốm tới chợ, vì họ không có các thầy thuốc. Tại đó, người ta tới chỗ người ốm và đưa ra lời khuyên về bệnh trạng của người này, nếu như có ai đó từng mắc phải chứng bệnh gì giống như của người ốm, hay từng thấy người khác mắc phải. Những người này sẽ lại gần đưa ra lời khuyên và gợi ý những cách thức mà bản thân họ đã dùng để trị khỏi bệnh hay thấy người khác được trị khỏi bệnh. Với họ, đi qua bên một người ốm mà im lặng không hỏi xem người này mắc bệnh gì là điều không được phép.
198. Họ chôn cất người chết trong mật ong, và cách than khóc của họ cũng giống như tập tục được sử dụng tại Ai Cập. Và bất cứ khi nào một người Babylon giao hoan với vợ, sau đó anh ta sẽ tới ngồi bên cạnh chỗ hương được đốt lên, và vợ anh ta cũng làm tương tự về phía đối diện, và đến sáng cả hai vợ chồng sẽ tắm rửa, vì họ sẽ không được chạm tới bất cứ bình đựng nào cho tới khi đã tắm rửa. Về chuyện này người Arabia cũng có tập tục tương tự.
199. Phong tục đáng hổ thẹn nhất của người Babylon là như sau: Tất cả phụ nữ trong vùng phải tới thánh địa của nữ thần Aphrodite một lần trong đời và giao hoan với một người đàn ông lạ. Nhiều phụ nữ không thèm hòa lẫn cùng những người khác vì kiêu ngạo do giàu có, những người này được đưa đến đền trên những cỗ xe có mui kín do những đôi ngựa kéo, tới chỗ của họ với một số lớn gia nhân tháp tùng. Song số lớn hơn làm như sau: Trong thánh địa của Aphrodite có rất nhiều phụ nữ ngồi với một vòng hoa trên đầu, liên tục có những người đến và đi. Và giữa những người phụ nữ có các lối đi thành đường thẳng theo mọi hướng, trên đó những người đàn ông lạ đi qua và lựa chọn. Một phụ nữ khi đã tới đây ngồi vào chỗ của mình sẽ không trở về nhà cho tới khi một trong số những người lạ mặt ném một đồng xu bạc vào lòng cô ta và đã giao hoan với cô ta bên ngoài ngôi đền, còn người đàn ông sau khi ném tiền chỉ cần nói: “Tôi muốn cô, nhân danh nữ thần Mylitta” – Mylitta là tên người Assyria gọi Aphrodite. Đồng xu bạc có thể có trị giá bất kỳ, dù bao nhiêu thì người phụ nữ cũng sẽ không từ chối, vì đối với cô ta như thế là trái luật, bởi đồng xu đã trở nên thiêng liêng do cử chỉ của người đàn ông. Người phụ nữ sẽ theo người đàn ông đầu tiên ném tiền xuống và không từ chối gì. Sau đó, cô ta quay về nhà, đã hoàn thành xong bổn phận của mình với nữ thần, và từ đó trở đi không ai có thể dùng bất cứ món quà nào dù giá trị lớn tới đâu để chiếm đoạt cô ta. Những phụ nữ có nhan sắc và địa vị nhanh chóng được giải thoát, song những người kém nhan sắc phải ở lại đó một thời gian dài vì không thể hoàn tất bổn phận luật tục quy định, có những người thậm chí phải ở lại tới ba hay bốn năm. Ở một số vùng trên đảo Kypros cũng có một phong tục tương tự như vậy.
200. Ở trên là những phong tục của người Babylon, và trong số họ có ba bộ lạc không ăn gì khác ngoài cá, và sau khi họ đã bắt được cá và phơi khô dưới nắng, họ ném chúng vào nước muối, sau đó giã nhỏ bằng chày và kéo căng qua cái rây bằng vải lanh, rồi nhào bột làm thành một thứ bánh mềm, hay nướng lên như bánh mì, tùy theo sở thích.
201. Khi dân tộc này cũng đã bị Kyros khuất phục, nhà vua lại nảy ra ý muốn bắt người Massagetai quy phục mình. Dân tộc này có tiếng là vĩ đại và hiếu chiến, và nằm về phía đông nơi mặt trời mọc, ở bên kia sông Araxes và đối diện với người Issedones, có một số người nói rằng dân tộc này thuộc nòi giống Skythia.
202. Về sông Araxes, một số người nói con sông này lớn hơn sông Istros, số khác lại kể là nhỏ hơn, và người ta kể trên dòng sông này có rất nhiều hòn đảo với kích thước ngang bằng với đảo Lesbos, và sống trên những hòn đảo này là những cư dân sống qua mùa hạ nhờ đủ loại rễ cây họ đào lên cùng một vài loại quả mọc trên cây đã được họ phát hiện ra làm thức ăn, người ta cũng kể rằng họ tích trữ quả vào mùa quả chín để dành ăn vào mùa đông. Người ta cũng kể rằng cư dân trên các đảo đó đã khám phá ra những loại cây khác cho một thứ quả mà khi họ tụ tập lại một chỗ và nhóm lửa lên, họ ngồi thành vòng tròn quanh đống lửa rồi ném vài quả vào lửa, sau đó họ ngửi mùi thứ quả này tỏa ra khi cháy, và bị say sưa bởi thứ mùi này cũng như người Hy Lạp bị say sưa bởi rượu vang, và khi có thêm nhiều quả được ném vào lửa, họ càng thêm say sưa, cho tới khi cuối cùng họ đứng dậy nhảy múa và bắt đầu hát. Theo lời kể thì đây là cách sống của họ.
Về sông Araxes, sông này chảy từ vùng đất của người Matienoi, cũng là nơi bắt nguồn dòng sông Gyndes đã bị Kyros chia ra thành 360 dòng kênh, rồi chảy theo 40 nhánh, tất cả các nhánh này, ngoại trừ một, đều kết thúc bằng những đầm lầy và những hồ nước nông. Người ta kể rằng sống ở những nơi đó là những người ăn cá sống, những người thường dùng da hải cẩu làm trang phục. Nhánh duy nhất còn lại của sông Araxes chảy một mạch không bị ngăn trở đổ ra biển Kaspia.
203. Biển Kaspia nằm biệt lập, không hề kết nối với các biển khác. Trong khi tất cả vùng biển người Hy Lạp từng qua lại, cũng như vùng biển nằm ở xa hơn Các trụ của Herakles1, được gọi là Atlantis, và biển Erythra, trên thực tế đều chỉ là một, thì biển Kaspia nằm tách biệt độc lập. Chiều dài của biển này phải mất 15 ngày hải hành nếu dùng mái chèo, và chiều rộng của nó, ở nơi rộng nhất, cần đi mất tám ngày. Ở bờ phía tây của biển này, dãy Kaukasos chạy dọc theo bờ, trong tất cả các dãy núi đây là dãy dài nhất và cao nhất. Và ở dãy Kaukasos có nhiều chủng tộc cư ngụ, phần lớn các tộc người này sống nhờ vào sản vật hoang dại của các khu rừng, và ở chỗ họ người ta kể có những cây cho thứ lá mà khi nghiền nát và trộn với nước họ dùng để vẽ hình lên trang phục, và những hình vẽ này không bị trôi đi khi giặt mà lưu lại trên vải len theo thời gian như thể được dệt từ lúc đầu. Người ta cũng kể rằng chuyện giao hoan của những tộc người này diễn ra công khai như gia súc.
1. Tức eo Gibraltar.
204. Như vậy, về phía tây biển Kaspia, dãy Kaukasos chính là biên giới, trong khi về phía đông và hướng mặt trời mọc là một đồng bằng kéo dài vô tận hết tầm mắt. Người Massagetai chiếm cứ một phần lớn đồng bằng mênh mông này, và Kyros đang nóng lòng muốn xuất quân chống lại họ, vì có nhiều lý do mạnh mẽ kích động nhà vua tiến hành cuộc chiến này và hối thúc ông xuất quân – trước hết là do cách ông ra đời, việc ông được nhìn nhận không phải là một người phàm trần, rồi kế đến là thành công nhà vua có được trong các cuộc chiến tranh của ông, vì cho dù Kyros tiến quân tới nơi nào, dân tộc đó cũng không thể chống cự được.
205. Cai trị người Massagetai là một phụ nữ, trở thành nữ vương sau khi chồng bà qua đời, tên là Tomyris. Kyros đã phái sứ giả tới cầu hôn, giả bộ rằng ông muốn cưới bà làm vợ. Song Tomyris hiểu nhà vua đang muốn giành lấy không phải bản thân bà mà vương quốc của người Massagetai, vì thế bà từ chối lời cầu thân của nhà vua. Vậy là Kyros sau đó công khai tấn công người Massagetai, bắc cầu phao từ những chiếc thuyền ghép thành để quân đội của ông vượt sông, và xây các tòa tháp bên trên những chiếc thuyền đã cho phép họ vượt sông.
206. Trong khi nhà vua đang bận rộn với việc này, Tomyris cử một sứ giả tới nói như sau: “Hỡi vua của người Media, hãy dừng việc mà ngài hiện đang thúc đẩy, vì ngài không thể nói chuyện này có kết thúc có lợi cho ngài hay không. Ta khuyên ngài hãy thôi tiến quân, và hãy làm vua cai trị thần dân của ngài, và chấp nhận để ta cai trị những thần dân của ta. Nhưng vì ta biết ngài sẽ không sẵn sàng đón nhận lời khuyên này, mà sẽ chọn làm bất cứ điều gì còn hơn là án binh bất động, thế nên nếu ngài nóng lòng muốn thử thách người Massagetai trong chiến đấu, hãy lập tức tới đây, bỏ lại những thứ ngài đang lắp đặt bên bờ sông, và vượt sông tiến vào đất của chúng ta, sau khi chúng ta đã rút lui lại ba ngày đường khỏi bờ sông. Hoặc nếu ngài muốn đón chúng ta vào đất của ngài, hãy làm điều tương tự”. Nghe xong, Kyros tập hợp lại các triều thần Ba Tư cao cấp nhất, rồi đưa vấn đề ra thảo luận với họ, hỏi lời khuyên của họ xem ông nên làm theo lựa chọn nào trong hai lựa chọn. Và tất cả họ đều nhất trí thỉnh cầu nhà vua thu nhận Tomyris và quân đội của nữ vương vào lãnh thổ của mình.
207. Nhưng Kroisos người Lydia, cũng có mặt tại đó và cảm thấy quan điểm này bất ổn, đưa ra ý kiến trái ngược với quan điểm đã được đưa ra và nói như sau: “Tâu bệ hạ, trước đây thần cũng đã tâu với bệ hạ rằng, vì Zeus đã trao thần cho bệ hạ, trong khả năng của mình, thần phải ngăn chặn bất cứ bất trắc nào có thể đến với triều đại của ngài. Những tai ương cay đắng thần đã phải chịu đựng đã chứng tỏ là những bài học về sự sáng suốt dành cho thần. Nếu bệ hạ coi ngài là bất tử và đang chỉ huy một đạo quân cũng bất tử, thì thần cũng không cần phải tâu lên ngài suy nghĩ của thần. Nhưng nếu bệ hạ coi bản thân cũng là một người trần đoản mệnh và ngài đang chỉ huy những con người bình thường như vậy, khi đó xin bệ hạ hãy biết cho điều này trước nhất, đó là trong những việc của con người luôn có một bánh xe vận hội, và vòng quay của nó không luôn cho cùng một người có được vận may. Vì thế thần lúc này có một suy nghĩ về việc chúng ta đang bàn tới trái ngược với ý kiến của những người khác. Nếu chúng ta chấp nhận đón đánh kẻ thù trên đất của mình, với bệ hạ sẽ có mối nguy hiểm sau đây: Nếu bại trận, bệ hạ sẽ để mất thêm luôn cả vương quốc của mình, vì rõ ràng nếu người Massagetai chiến thắng, họ sẽ không quay trở lại và triệt thoái, mà sẽ hành quân đến các tỉnh của ngài. Ngược lại, nếu bệ hạ giành chiến thắng, ngài sẽ không chiến thắng trọn vẹn được như trong trường hợp ngài vượt sông tiến vào đất của họ và có thể truy đuổi họ khi họ tháo chạy. Vì ngược lại với những gì người khác đã nói mà thần sẽ nhắc lại lần nữa, thần xin tâu rằng khi bệ hạ đã chiến thắng, ngài sẽ hành quân tiến thẳng vào vương quốc của Tomyris. Bên cạnh những gì thần đã tâu, sẽ là một nỗi nhục không thể chấp nhận được nếu Kyros, con trai Kambyses, lại nhường bước trước một người đàn bà và rút lui khỏi đất của bà ta. Vì thế, lúc này tốt hơn cả chúng ta nên vượt sông và tiến qua các chỗ vượt sông xa hết mức kẻ thù đã rút lui, rồi khuất phục chúng bằng cách sau đây. Như thần được biết, người Massagetai chưa từng biết đến những thứ tiện nghi của Ba Tư, và chưa bao giờ được tận hưởng sự xa hoa lớn lao. Thế nên hãy giết thịt súc vật thật ê hề, tẩm ướp thịt và sửa soạn một bữa tiệc lớn cho những người này trong trại của chúng ta, ngoài ra hãy phân phát rượu vang nguyên chất và đủ loại thức ăn khác không hạn chế, và sau khi đã làm thế, để lại đằng sau phần kém cỏi nhất của quân đội dưới quyền bệ hạ và rút lui khỏi doanh trại về phía con sông. Nếu thần không nhầm, khi kẻ thù tới và thấy một lượng lớn rượu cùng đồ ăn, chúng sẽ chè chén say sưa, và chúng ta chỉ còn phải thể hiện những chiến công xuất sắc”.
208. Trên đây là những quan điểm đối nghịch, và Kyros, sau khi bác bỏ ý kiến thứ nhất và lựa chọn ý của Kroisos, liền đưa tin báo để Tomyris lui quân, vì ông dự định sẽ vượt sông tới giao chiến với nữ vương. Nữ vương sau đó liền thực hiện việc lui quân như bà đã đề nghị thực hiện ban đầu, còn Kyros giao phó Kroisos lại cho con trai ông, Kambyses, người nhà vua có ý cho thừa kế vương quốc, và căn dặn hoàng tử chân thành phải tôn trọng và đối xử tử tế với ông này nếu cuộc vượt sông tấn công người Massagetai không thành công. Sau khi đã căn dặn hoàng tử như vậy và cho hai người quay về vùng đất của người Ba Tư, nhà vua vượt sông cùng quân đội.
209. Khi Kyros đã vượt sông Araxes, đêm đến nhà vua có một giấc mơ trong khi ngủ trên đất của người Massagetai như sau: Trong giấc mơ, Kyros thấy đứa con trai lớn tuổi nhất của Hystaspes có đôi cánh trên vai, và một bên cánh này phủ bóng lên châu Á, còn cánh bên kia lên châu Âu. Hystaspes con trai Arsames là một người của gia tộc Akhaimenidai, có con trưởng là Dareios, một thanh niên khoảng 20 tuổi, chàng trai được để lại vùng đất của người Ba Tư vì chưa đến tuổi ra trận. Vậy là khi Kyros thức dậy, nhà vua một mình ngẫm nghĩ về giấc mơ. Và vì ông cảm thấy giấc mơ rất quan trọng, nhà vua cho gọi Hystaspes tới, rồi sau khi đã kéo riêng ông này ra một chỗ với mình, nhà vua nói: “Hystaspes, con trai ngươi đã bị phát giác âm mưu chống lại ta và ngai vàng của ta, và ta sẽ cho ngươi hay làm thế nào ta biết chắc chắn điều này. Các vị thần đã phù hộ cho ta và báo cho ta biết trước những mối nguy đe dọa. Vì thế vào đêm qua trong lúc ngủ ta mơ thấy con trai cả của người mọc trên vai đôi cánh, một bên cánh phủ bóng lên châu Á, bên kia phủ lên châu Âu. Từ giấc mơ đó mà suy, chỉ có thể là hắn đang mưu đồ chống lại ta. Vì thế ngươi hãy đi theo đường ngắn nhất trở lại Ba Tư và đảm bảo rằng khi ta quay trở về sau khi đã chinh phục vùng đất này, ngươi sẽ đưa con trai ngươi diện kiến ta để tra xét”.
210. Kyros nói vậy khi cho rằng Dareios đang âm mưu chống lại mình, song trên thực tế các vị thần đang báo trước với nhà vua rằng ông được tiền định sẽ kết thúc số mệnh của mình tại đó và vương quốc của ông sẽ về tay Dareios. Trước lệnh vua, Hystaspes trả lời như sau: “Tâu bệ hạ, xin các vị thần hãy không để bất cứ ai thuộc dòng giống Ba Tư âm mưu chống lại ngài, và nếu có kẻ nào như thế, thần cầu mong hắn sẽ chết ngay lập tức, vì bệ hạ đã giúp người Ba Tư được tự do thay vì bị nô dịch, và được cai trị tất cả các dân tộc thay vì bị kẻ khác cai trị. Nếu bệ hạ được báo mộng rằng con trai thần đang toan tính nổi loạn chống lại ngài, thần xin giao nộp nó để bệ hạ xử trí theo ý ngài”.
211. Hystaspes, sau khi đã trả lời như vậy và vượt sông Araxes, lên đường trở về Ba Tư để giám sát con trai Dareios của mình cho Kyros. Trong khi đó, Kyros tiến quân và hành quân tiếp một ngày đường sau khi vượt sông Araxes theo gợi ý của Kroisos. Tiếp theo, sau khi Kyros và phần thiện chiến nhất của quân đội Ba Tư đã hành quân lui trở lại sông Araxes, còn những người không đủ sức chiến đấu bị bỏ lại sau, một phần ba quân đội của người Massagetai tấn công và tàn sát những người đạo quân của Kyros bỏ lại sau, cho dù có gặp chống cự. Khi đã khuất phục xong kẻ thù và thấy bữa tiệc đã được bày ra, họ liền ngồi xuống chè chén, rồi sau khi đã thỏa thích với đồ ăn và rượu vang, họ ngủ thiếp đi. Lúc đó, người Ba Tư ập tới những người này và giết rất nhiều, đồng thời bắt sống số lượng còn đông hơn số bị giết, trong số này có con trai nữ vương Tomyris, người đã chỉ huy đạo quân người Massagetai. Vị hoàng tử có tên Spargapises.
212. Khi biết tin về những gì đã xảy tới với đạo quân cũng như với con trai bà, nữ vương liền phái một sứ giả tới gặp Kyros và nói như sau: “Kyros, kẻ khát máu vô bờ, đừng vội kiêu hãnh về những gì vừa xảy ra, vì ngươi đã đánh bại con trai ta không phải bằng sự quả cảm trong chiến đấu mà nhờ bày ra một cái bẫy, với một thứ thuốc độc, với thứ quả của cây nho đó, khi rượu vang làm từ nó đã ngấm vào cơ thể, tràn ngập con người ta và khiến người ta hóa điên, những lời lẽ xấu xa sẽ tuôn ra. Vì thế, giờ ngươi hãy đón nhận lời khuyên chân thành ta dành cho ngươi: Hãy trả con trai lại cho ta và rời khỏi mảnh đất này mà không bị trừng phạt sau khi đã chiến thắng trước một phần ba quân đội của người Massagetai. Nhưng nếu ngươi không chịu làm như thế, ta xin lấy Mặt trời, chúa tể của người Massagetai, làm chứng mà thề với ngươi rằng ta sẽ cho ngươi ngập đầy trong máu, cho dù ngươi có khát máu tới đâu chăng nữa”.
213. Khi những lời này được chuyển tới nhà vua, Kyros không thèm để tâm. Và khi Spargapises, con trai nữ vương Tomyris, tỉnh khỏi cơn say rượu vang và biết được tình cảnh hiểm nghèo mình đang lâm vào, hoàng tử đã khẩn cầu Kyros hãy tháo xiềng xích cho mình và được ưng thuận, rồi ngay khi được tháo xiềng xích và có thể cử động được hai bàn tay, vị hoàng tử liền tự sát.
214. Còn Tomyris, vì Kyros đã không nghe theo lời bà, cho tập trung toàn bộ lực lượng của mình và giao chiến cùng Kyros. Trong tất cả những trận đánh diễn ra giữa các man tộc, tôi cho rằng đây là trận chiến ác liệt nhất, và theo những gì tôi được nghe kể lại, trận đánh đã diễn ra như sau: Thoạt tiên, người ta kể lại rằng quân đội hai bên dàn trận cách xa và bắn tên vào nhau, sau đó, khi họ đã bắn hết tên, hai đạo quân liền xông vào nhau và cận chiến bằng giáo và dao, và hai bên giao chiến suốt một thời gian dài, không bên nào tháo chạy. Nhưng rồi cuối cùng người Massagetai giành chiến thắng, phần lớn quân đội Ba Tư bị tiêu diệt tại trận, và cả Kyros cũng tử trận tại đó, sau khi đã trị vì 29 năm.
Sau trận đánh, Tomyris cho đổ đầy máu người vào một cái túi da và cho tìm kiếm thi thể Kyros trong số những người Ba Tư tử trận. Khi tìm ra, nữ vương cắt đầu ông nhét vào trong túi da đựng máu, hạ nhục thi thể, đồng thời nói như sau: “Dù ta đã sống và thắng ngươi trong chiến đấu, nhưng ngươi đã làm ta thất bại khi cướp đi con trai ta bằng mưu mô, song theo đúng lời cảnh cáo của ta, ta sẽ cho ngươi được ngập đầy trong máu”. Về kết cục của Kyros có rất nhiều câu chuyện được thuật lại, nhưng câu chuyện tôi đã kể ở đây theo tôi suy ngẫm là đáng tin nhất.
215. Về người Massagetai, họ mặc một trang phục giống như của người Skythia, và có lối sống cũng giống như tộc người này. Trong số họ có những kỵ sĩ và những người không cưỡi ngựa (vì họ thành thạo cả hai kiểu chiến đấu), thêm nữa có cả những cung thủ và chiến binh dùng giáo, còn thói quen của họ là mang theo rìu chiến, và họ dùng vàng hoặc thanh đồng vào mọi mục đích. Để làm mũi giáo, mũi tên hay lưỡi rìu chiến, họ dùng thanh đồng, nhưng để chế mũ đội đầu, đai lưng và vòng đeo quanh bắp tay họ dùng vàng trang trí. Tương tự như với chiến mã của mình, họ đeo trước ngực chúng những tấm giáp che ngực bằng thanh đồng, nhưng trên dây cương, ngáng hàm và dây đai má ngựa họ lại dùng vàng. Tuy nhiên, họ hoàn toàn không dùng sắt và bạc, vì không có các kim loại này trên đất của mình, nhưng vàng và thanh đồng thì họ có nhiều.
216. Dưới đây là những phong tục của họ: Mỗi người đàn ông cưới một người vợ, nhưng những người vợ là chung giữa những người đàn ông, vì phong tục này, được người Hy Lạp cho rằng là của người Skythia, trên thực tế không được người Skythia, mà là người Massagetai thực hiện, có nghĩa là khi một người đàn ông Massagetai thèm muốn bất cứ phụ nữ nào, anh ta treo ống tên của mình trước xe rồi thoải mái giao hoan với người phụ nữ đó. Họ không có giới hạn chính xác nào đặt ra cho tuổi tác của mình, song khi một người trở nên rất già, những họ hàng gần gũi nhất của người già này cùng nhau tập trung lại và giết người đó một cách trang trọng cùng với gia súc của người bị giết, rồi sau đó luộc thịt và mở tiệc. Với họ, đây được coi là số phận hạnh phúc nhất, song với những người chết vì bệnh, họ sẽ không ăn thịt mà chôn dưới đất, coi việc người đó không sống được đến tuổi để bị giết là một điều bất hạnh. Họ không trồng trọt bất cứ vụ mùa nào mà sống nhờ vào gia súc và cá, họ thu được vô số cá từ sông Araxes. Thêm nữa, họ uống sữa. Về các vị thần, họ chỉ tôn thờ Mặt trời, và hiến sinh ngựa lên vị thần này. Quy tắc của việc hiến sinh này là: Để dâng lên vị thần nhanh nhẹn nhất trong mọi vị thần, họ dùng lễ vật là sinh vật nhanh nhẹn nhất trong mọi sinh vật trần thế.