Cũng kinh văn này,7 đức Phật nói tiếp: “Chính ta hưởng thụ một loại âm nhạc siêu việt con người trong cung điện suốt bốn tháng mưa, ta không hề đặt chân xuống nền nhà. Sau đó như có cảm giác xuất phát từ nhận thức bên trong khởi lên sự tận hưởng, khoái lạc, đó là chỗ không có lợi và cần thoát ra khỏi sự hưởng thụ đó. Ta đã từ bỏ dục vọng, loại trừ tham muốn khoái lạc và sống không dục cầu, nội tâm an tịnh. Ta nhìn thấy kẻ khác bị ràng buộc trong khát vọng vui thú, bị sự thèm khát dục vọng nuốt chửng, bị ái dục đốt cháy, nuông chiều theo dục lạc. Ta không còn ham muốn chúng, không đắm say trong chúng. bây giờ nguyên cớ đó ra làm sao? Này Māgandiya (tên gọi của một du sĩ), sự hỷ lạc mà ta đạt được không phải từ sự vui sướng của các giác quan hay từ những pháp hữu lậu, mà đó là hạnh phúc hơn cả ở cõi trời. Đạt được sự hỷ lạc Ta không còn tham muốn những thứ hạ liệt đó nữa, không còn thấy có gì vui thú trong đó nữa”.
7. Được dịch từ phiên bản tiếng Pali của thượng tọa bộ.
Ở trong một bản kinh có từ rất sớm,8 đức Phật tiếp tục nói về câu chuyện của Ngài cho chúng đệ tử rằng: “Này các tỷ-kheo, chính ta trước khi thành đạo, chưa là một bậc giác ngộ (tương lai sẽ giác ngộ), chính ta còn trong nguyên lý của sự sinh ra (tức là một người sinh ta như một chúng sinh thường tình), ta chỉ tìm thấy những thứ trong nguyên lý sinh ra; chính ta vẫn còn trong nguyên lý già đi, ta chỉ tìm thấy những thứ trong nguyên lý già đi; chính ta vẫn còn trong nguyên lý của bệnh tật… (kinh văn tiếp tục nói về sự chết, khổ đau và phiền não, đó là những pháp mà con người tìm kiếm...). Giả như trong chính ta vẫn còn pháp của sự sinh ra, thì sự khám phá nguyên lý của sinh ra là vô ích, cái mà ta tìm kiếm là không sinh ra, siêu thoát, an toàn khỏi ràng buộc của dục lạc (tức sự ảnh hưởng của dục lạc…), tịch diệt (Niết bàn, không khổ đau hoặc ở đây đặc biệt là không sinh ra). (Kinh văn tiếp tục nói về già đi, siêu thoát, vân vân, nhập vào tịch diệt không còn già đi, không còn bệnh, không còn khổ, sự tịch diệt vô nhiễm của những nguyên lý đã nói, và rồi kinh văn tiếp tục nói)… Này các tỷ-kheo, sau đó một thời gian, còn rất trẻ, tóc còn đen, tuổi thanh xuân, giai đoạn trưởng thành, mặc dù cha mẹ ta không vui và khóc, nước mắt tràn trên má họ, ta đã ra khỏi nhà sống vô gia cư, cạo bỏ tóc và râu, mặc áo nâu sòng (tức áo được làm từ những mảnh vải cũ của các vị Sa-môn)”.
8. M I 17 trở xuống = T 125 (Ekottara bản tiếng Trung Quốc) k. 23, 665b-6; tham khảo T 26 k. 25, tr. 589c.
“Đang trên đường tìm kiếm cái gì tốt, truy tìm siêu thoát, trạng thái vắng lặng tuyệt đỉnh, ta đã gặp ĀrāḍaKālāma…”. Ārāḍa là một Sa-môn, vị Phật sắp thành xin theo học thuyết và nguyên tắc của Ārāḍa, sống ‘đời phạm hạnh’, tức đời sống của người xuất gia. Vị Sa-môn này tiếp nhận và vị Phật sắp thành học hỏi giáo lý của ông ta, đây không phải là một niềm tin đơn thuần mà phải tự thân xác nhận và thể nghiệm chân lý cho chính mình. Học thuyết này đưa ra một chuỗi bài tập thiền định để ‘nhập vào vô sở hữu xứ’, nghĩa là tâm thức không có gì cả, với trạng thái chìm sâu trong yên tịnh. Đức Phật ghi nhận ở đây rằng ‘niềm tin’ (hoặc tín ngưỡng) là “tín, cần, định và trí” không phải chỉ Ārāḍa mới có, nhưng Ngài đã đạt được điều này - ở những chỗ khác gọi là ‘căn’ và ‘lực’ - chính Ngài thành tựu chúng không phải nhờ vào vị thầy này. Lập tức Ngài được Ārāḍa dạy hết tất cả yếu chỉ, sau đó được ông ta tín nhiệm và gợi ý cùng làm lãnh đạo cho nhóm khổ hạnh của mình. Tuy nhiên, đức Phật sắp thành không thỏa mãn với học thuyết đó và ra đi: “học thuyết này không đưa đến cảnh giới vô niệm, vô ái, cởi trói, vắng lặng, viên trí, giác ngộ hay giải thoát (tịch diệt, nirvāṇa), mà chỉ chuyển sinh vào cõi Vô sở hữu (được hiểu là một cảnh giới cao của sự tồn tại của thức)…”.
Thế rồi bậc sắp giác ngộ này đến học một vị thầy Sa-môn khác là udraka Rāmaputra, cũng với kết quả tương tự chỉ có điều học thuyết của udraka dẫn đến một cảnh giới cao hơn, ‘nhập vào phi tưởng phi phi tưởng xứ’, một trạng thái chuyển thức vào cảnh giới cao. Ngài không thỏa mãn và ra đi.
Sau đó: “Này các tỷ-kheo, sự tìm kiếm cái gì tốt, truy tìm siêu thoát, trạng thái vắng lặng tuyệt đỉnh, đã thôi thúc hành trình của ta hướng về gần thành trú quân ở Uruvilvā. Ở đó, ta đã gặp một nơi lý tưởng: một cánh rừng có dòng sông trong xanh chảy qua, những bãi cát mịn màng và gần một ngôi làng chăn nuôi. Ta nghĩ rằng đây là một nơi lý tưởng… để thực hành ‘khổ hạnh’ (tức một cách rèn luyện và hành thiền của Sa-môn)…”.
Trước khi tiếp tục theo dõi sự mô tả của bản kinh này, chúng ta có thể tham khảo một bản kinh khác có từ rất sớm9 cho thấy đức Phật đã nhớ lại cuộc đời của Ngài trong cánh rừng này trước khi thành Đạo và cũng mô tả sự kiện này. “Đây là một nơi trú ngụ thâm u thích hợp trong một khu rừng có nhiều cây cối và gò đồi. Sự u tịch rợn người. Sống một mình thật đáng sợ. Nếu những cánh rừng này uy hiếp thì tâm của người tu sẽ không thể tập trung được”. Ngài tiếp tục mô tả rằng các Sa-môn và Bà-la-môn có những hành vi, lời nói và ý nghĩ bất tịnh thì quả thật chiêu cảm tâm lý sợ hãi và sự vật đầy sợ hãi, cả hai trở thành những điều tồi tệ. (Luận sớ của thượng tọa bộ giải thích ‘sự vật đầy sợ hãi’ này rằng nếu chúng ảnh hưởng đến một ai thì người đó có thể theo đó khởi lên sự chết chóc). Tuy nhiên, đối với tâm thuần tịnh của một vị Phật sắp thành thì điều này mang cảm giác an toàn khi ở trong rừng. Kinh văn tiếp tục mô tả nhiều chi tiết liên quan đến đặc tính cần có của một Sa-môn khi ở trong rừng, nếu vị ấy muốn thành công tập trung tư tưởng để làm nền tảng căn bản của thiền định. Tất cả những đặc tính này là một phần của giáo lý Phật giáo, cho nên không cần thảo luận ở đây. Những chỗ mà chúng ta quan tâm là thu thập tài liệu lịch sử.
9. Dịch từ M I, tr. 167 trở xuống.
Thiền định trong đêm - một sự tu tập mà đức Phật sắp thành nói Ngài đã áp dụng lúc đó - sự rùng rợn và đáng sợ vẫn đến: những loài thú đến, một con công đạp gãy cành cây, gió thổi làm lá rụng xào xạc. Lúc này Ngài quyết tâm xua đuổi những sự sợ hãi khởi lên: bằng cách hành thiền lui tới cho đến khi trong Ngài không còn sợ hãi nữa, hoặc đứng dậy lặng thinh, hoặc ngồi xuống, Ngài lập lại những tư thế đó cho đến khi đã xua tan sợ hãi. Sau đó, Ngài ‘nỗ lực không ngừng, diệt trừ chướng ngại, chú tâm quán sát ngã, không khởi vọng tưởng, thân thể cân bằng, không kích động và tập trung tư tưởng, chuyên chú vào một điểm’. Tâm của Ngài dần dần thoát khỏi mọi phiền não chấp trước, thế rồi Ngài chứng nhập vào bốn giai đoạn thiền định (dhyāna), đạt được một trạng thái tịch tịnh hoàn toàn, giải thoát khỏi khổ và vui. Như vậy, đêm đó tư duy của Ngài đã được tập trung, Ngài đã nỗ lực hết sức và chứng được ba ‘minh’ (vidyā) lần lượt vào lúc đầu đêm, giữa đêm và cuối đêm: Ngài đã thấy được đời sống trước đây của mình, Ngài đã hiểu được chúng sinh phụ thuộc vào hành vi của họ mà luân hồi, ác hạnh nhận lấy ác báo và thiện hạnh nhận lấy thiện báo. Cuối cùng Ngài khám phá ra bốn sự thật cao quý, một giáo lý căn bản của Phật giáo, đó là trí tuệ làm cho lậu hoặc (āsrava) bị diệt tận. Những lậu hoặc này (gồm ái dục, khát vọng sinh tồn và vô minh) làm cho chúng sinh đọa lạc luân hồi, biết một người tiêu trừ hết lậu hoặc là biết người đó sẽ không còn tái sinh nữa, người đó được giải thoát, và đức Phật đã đạt được trí tuệ này vào đêm đó. Đồng thời bốn sự thật cao quý tạo thành nội dung cốt tủy đối với sự giác ngộ của Ngài. Do khám phá ra chân lý này mà về sau Ngài được tôn xưng là Phật (mặc dù điều này thật sự không được nói trong kinh này). Ngài chứng đắc thật tính của những Sự thật: (1) khổ; (2) nguồn gốc của khổ; (3) sự diệt trừ khổ; và (4) con đường dẫn đến sự diệt trừ khổ.
Như thế bản kinh sau mô tả ‘sự tịch diệt’ cuối cùng (pradhāna), tức đức Phật đã chứng thành đạo quả, còn bản kinh mà chúng ta khảo sát ở trước nói về vị Phật sắp thành phát hiện ‘nơi lý tưởng’ gần uruvilvā, và tiếp tục10 mô tả bằng một cách khác về sự giác ngộ này: “Lúc nào trong ta còn có nguyên lý của sự sinh ra, ta chỉ tìm thấy được những thứ vô ích trong nguyên lý của sự sinh ra; lúc nào tìm thấy được sự không sinh ra, siêu thoát, giải thoát khỏi ách ràng buộc, tịch diệt (của sự sinh ra), ta đạt đến bất sinh, siêu thoát, thoát khỏi ách ràng buộc (Niết bàn)…”. (Cũng như đức Phật đã đạt được sự tịch diệt của già, bệnh, chết, khổ đau và phiền não). “Đột nhiên trí tuệ và minh giác sinh khởi trong ta: sự giải thoát hoàn toàn, đây là kiếp sống cuối cùng của ta, bây giờ không còn tái sinh nữa”. Ở đây nhấn mạnh vào sự tịch diệt (Niết bàn) chứ không nói đến sự giác ngộ, nhưng kinh văn tiếp tục mô tả:
10. Đoạn này không có trong bản tiếng Trung Quốc.
“Thế rồi ta nghĩ rằng: ta đã chứng đắc đạo quả, thậm thâm, khó thấy, khó hiểu, chân thật, vi diệu, siêu việt hết thảy tri kiến suy diễn, tinh tế, (chỉ) bậc trí mới có thể thấy được. Nhưng thế gian thích ở trong nhà, lấy nhà làm niềm vui, trông cậy vào nhà. Vì thế gian tạo ra sự yêu thích vào trong đó, vui sướng với nhà và trông cậy vào nhà, cho nên khó thấy vấn đề này, tức là nhân quả tương tục (hoặc có lẽ chính xác hơn là ‘nhân duyên’ - idaṃpratyayatā, nghĩa là sự vật này phụ thuộc vào một sự vật khác), duyên khởi (pratītyasamutpāda). Pháp này thậm thâm nan giải, nên được gọi là thiền quán (śamatha) trên các hành (saṃskāra: khái niệm này sẽ được thảo luận chi tiết ở phần sau), trừ diệt hết thảy chấp trước, tham dục, phiền não, đạt đến tịch diệt, vắng lặng. Nếu ta đem pháp này ra giảng dạy thì sợ người khác không nắm bắt được, điều này có thể làm cho họ thêm lo lắng và nghi ngờ”.11
11. M I 168 trở xuống = T 26 k. 56, 777-78.
Hai bản kinh đó cho thấy rằng một mặt sự giác ngộ này bao gồm chứng đắc ba ‘minh’ (sciences), giúp lý giải về luân hồi, bốn sự thật cao quý liên quan đến chuỗi luân hồi, và làm thế nào để chấm dứt sự ảnh hưởng của chúng, dẫn dắt con người mù quáng đi vào đạo. Mặt khác, sự giác ngộ này là một sự chứng đắc tịch diệt (giải thoát sinh tử…), một trạng thái Niết bàn của đức Phật. Lại nữa, quan sát sâu hơn vào sự giác ngộ này, vào chân lý mà đức Phật khám phá ra, và nội dung của ‘ba minh’ như kinh văn đã mô tả, đó là thuyết nhân duyên, pháp duyên khởi, thiền quán và tịch diệt. Pháp duyên khởi và tịch diệt là sự thật thứ hai và thứ ba trong bốn sự thật cao quý: thuyết nhân duyên là sự mở rộng của Sự thật thứ hai, nói rõ khổ sinh khởi như thế nào…; nếu cắt đứt nhân duyên thì quả sẽ không sinh ra, đây là kết quả tất yếu của Sự thật thứ ba, diệt trừ khổ đau.