Phần cuối của hai bản kinh ở trên tiếp tục nói về quyết định thuyết pháp truyền đạo của đức Phật.12 Ở thời điểm mang tính quyết định này, khi mà chúng sinh chưa thể tiếp nhận giáo lý làm cho đức Phật do dự thuyết pháp, trong kinh điển của thượng tọa bộ nói rằng chúa trời Phạm thiên cảm thấy tình huống này quá nghiêm trọng và cảnh báo rằng thế giới sẽ bị hủy diệt nếu giáo lý không được truyền bá. Đây là một trường hợp lạ, thượng đế ở Bà-la-môn giáo sang cung thỉnh đức Phật thuyết pháp. Điều này cho thấy địa vị của đức Phật cao hơn thượng đế với vai trò gợi ý truyền bá giáo lý. Một số kinh khác còn nói về sự xuất hiện của chúa trời Phạm thiên cho thấy cả đấng sáng tạo hay chúa tể của thế giới này sợ thế giới do họ tạo ra bị hủy diệt trừ khi đức Phật cứu nó.
12. S V 420 trở xuống. Tàn bản tiếng Phạn có trong Turfan 581.
Chúa trời Phạm thiên từ cõi trời xuống, đến trước mặt đức Phật, cung kính lễ chào và bảo đảm với Ngài rằng sẽ có một số chúng sinh nắm bắt được giáo pháp. Chúa trời Phạm thiên giải thích rằng một học thuyết tà đạo đã xuất hiện ở Ma-kiệt-đà, cho là không có giáo lý nào dẫn đến bất tử (amṛta), do đó đức Phật cần phải tuyên thuyết. Thế rồi, đức Phật vì lòng bi mẫn với chúng sinh (ở đây nghĩa là nhân duyên của việc lớn), nhờ vào trí tuệ của Ngài mà cứu giúp thế giới, và nhìn thấy phẩm chất và khả năng của chúng sinh trong thế giới này có người đủ năng lực hiểu được giáo pháp của Ngài.
Quan sát ai là người đầu tiên được Ngài truyền dạy giáo pháp, đức Phật nghĩ về Ārāḍa và udraka, nhưng có những thần linh (devatā) thưa rằng họ vừa mới qua đời. Thế rồi Ngài nghĩ về năm người bạn đồng tu lang thang và khổ hạnh trước khi Ngài thành đạo. Ngài dùng Phật trí quán thấy họ đang ở gần thành ba-la-nại (benares) thuộc thành phố Vārāṇasī và quyết định đến đó. Trên đường đi, Ngài đã gặp một vị tà mạn ngoại đạo thuộc phái Chính mạng luận (Ājīvaka) tên gọi là upaka, vị Sa-môn này ca ngợi phong thái biểu hiện an lạc của đức Phật và hỏi Ngài học pháp môn từ vị thầy nào. Đức Phật trả lời rằng Ngài không theo vị thầy nào cả, rằng Ngài đã giải thoát, các lậu hoặc đã diệt tận, rằng Ngài đã giác ngộ. Vị Sa-môn Chính mạng luận này vốn thuộc phái hoài nghi, nên nói rằng “Có thể như vậy à”, lắc lắc đầu và rẽ sang đường khác (điều này cùng có thể được hiểu là đi vào con đường sai lạc: sự hồ nghi này chắc chắn là cố ý, phản ứng của Sa-môn tà mạn này tượng trưng cho tất cả những người không sẵn sàng tiếp nhận một học thuyết mới).
Đức Phật tìm được những người bạn đồng tu trước đây đang ở trong một công viên (nay gọi là Sārnāth) gần thành Vārāṇasī. Đầu tiên họ có ý đối xử vô lễ với Ngài, bởi vì Ngài đã từ bỏ phương pháp tu khổ hạnh mà Ngài từng cùng tu với họ và cho đó là việc hoàn tục. Điều này cho thấy truyền thống khổ hạnh cực đoan mà đức Phật sắp thành từng theo học, cuối cùng Ngài nhận thấy vô ích và từ bỏ, sau đó đạt được giác ngộ là nhờ sống quân bình và ăn uống hợp lý. Truyền thống khổ hạnh này không thấy kể trong bản kinh mà chúng ta đang khảo sát ngoại trừ điểm này, nhưng có đề cập nhiều ở những bản kinh về sau.
Tuy nhiên, lúc đức Phật đến công viên, năm người bạn đồng tu trước đây bản thân họ không thể đối xử thiếu tôn kính và quy y làm đệ tử của Ngài. Đức Phật bảo họ tại sao (như đã nói ở trên) vẫn ở trong ràng buộc của nguyên lý sinh ra và phát hiện sự vô dụng của chúng, thế rồi Ngài đạt đến tịch diệt. Thế rồi họ khởi phát trí tuệ và minh giác: Chúng tôi hoàn toàn giải thoát, đây là đời sống cuối cùng của chúng tôi, bây giờ không còn tái sinh nữa.
Từ điểm này, chúng ta dẫn chứng một số kinh khác để hiểu được quan điểm thống nhất của các trường phái Phật giáo đối với giáo lý được biên tập lần đầu. Bây giờ chúng ta không chú ý đến những sự kiện mà đức Phật thuyết ra và sau này được các đệ tử của Ngài ghi nhớ, mà chú ý vào những sự kiện về sự nghiệp làm thầy hướng dẫn của Ngài do các đệ tử của Ngài trực tiếp ghi nhớ và được biên tập lại trong Ba tạng giáo lý (Tripiṭaka). Kinh tạng (Sūtra) trong bản tu chỉnh Ba tạng giáo lý của thượng tọa bộ có đoạn nói về sự kiện ‘lần đầu chuyển bánh xe pháp’. Đoạn kinh này tương tự với đoạn kinh thuộc Luật tạng (Vinaya)13 của cùng bản tu chỉnh ở trên, nhưng xen vào một số chi tiết trong chuỗi sự kiện sau khi thành đạo. Ngoài ra, ba trường phái khác (Nhất thiết hữu bộ, hóa địa bộ và Pháp tạng bộ) có những phần tương đương với Luật tạng nằm trong ba tạng của họ hiện còn với bản dịch Ba tạng giáo lý tiếng Hán,14 mà bộ phận tương đương này có đầy đủ toàn bộ sự việc được tường thuật lại giống nhau. Những bộ phái này đều thuộc hệ phái thượng tọa bộ. Đối với một nhóm lớn khác thuộc một trong những bộ phái thời kỳ đầu là Đại chúng bộ, chúng ta phải quay về những văn bản khá muộn sau này, bao gồm cả Luật tạng của mỗi trường phái của nó, như Đại phẩm (Mahāvastu) của phái xuất thế bộ, tác phẩm này hiện còn với ngôn ngữ gốc. Mặc dù công nhận đây là văn bản hình thành khá muộn so với Luật tạng nguyên thủy của Đại chúng bộ (tác phẩm này hiện còn với bản dịch tiếng Hán và không có đoạn tường thuật về việc này), nhưng có thể giúp chúng ta thấy được đoạn tường thuật về sự việc này được các trường phái thời kỳ đầu chấp nhận một cách rộng rãi (Kinh tạng thuộc bản tu chỉnh Ba tạng của Đại chúng bộ hiện không còn). Bây giờ chúng ta khảo sát Kinh tạng của thượng tọa bộ.
13. Vin I 10 trở xuống. Mahāvastu (Đại sự) III 331 của trường phái xuất thế bộ.
14. T 1435, T 1421 và T 1428 độc lập.
“Ở đó (công viên gần Vārāṇasī), đức thế tôn (Bhagavant, sự tôn xưng đối với đức Phật) tuyên thuyết cho năm vị tỷ-kheo: Này các tỷ- kheo, có hai cực đoan mà người xuất gia (người từ bỏ nhà cửa hoặc từ bỏ thế tục) không nên bước theo. Hai cực đoan đó là gì? Một là đắm chìm trong dục lạc, hưởng thụ dục lạc, đeo đuổi việc dung tục, hạ tiện, thô tục, thế tục, không mang lại lợi lạc; và hai là ép xác làm cho thân thể suy nhược, đau đớn, bất tịnh, không mang lại lợi lạc. Này các tỷ-kheo, không đi theo hai cực đoan này. Như Lai (tathāgata, danh hiệu của đức Phật) đã nói về con đường trung đạo, có thể đạt đến chính trí, đạt đến trí tuệ, mang lại sự vắng lặng, bình đẳng, chính giác và tịch tịnh (nirvāṇa). Này các tỷ-kheo, con đường trung đạo do Như Lai thuyết ra… Đây là con đường vô thượng, có tám chi phần, đó là: Chính kiến, Chính tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mạng, Chính tinh tấn, Chính niệm và Chính định”.
Để tránh hai cực đoan, làm cho thân thể ‘đau đớn’ (khổ hạnh) cũng như hưởng thụ dục lạc, rõ ràng là đáp án cần thiết cho những người bạn đồng tu trước đây từng nghĩ đức Phật đã quay lại thế tục. Bát chính đạo là con đường trung đạo xa rời hai cực đoan, cũng là Sự thật thứ tư trong bốn sự thật cao quý, con đường dẫn đến sự tịch diệt đã thảo luận ở trên. Hai bản kinh này tiếp tục miêu tả giáo lý bốn sự thật cao quý, chúng ta tạm gác lại cho đến khi chúng ta nghiên cứu giáo lý này.
Từ đây cho đến những ngày cuối đời của đức Phật, chúng ta phải dựa vào Luật tạng của Ba tạng giáo lý. Ở trước chúng ta đề cập đến một số Luật tạng đã liên tục tường thuật về tổ chức cộng đồng Tăng-già của Phật giáo và những sự kiện khác ở một giai đoạn ngắn sau khi bắt đầu vận chuyển bánh xe pháp. Sau đó, họ không dựa vào thứ tự niên đại mà chuyển sang phân loại theo chủ đề về tổ chức và giới luật để sắp xếp ghi chép. Đại phẩm (Mahāvastu) tường thuật một cách cân đối những sự kiện xa xưa này nhưng hoàn toàn không liên quan đến phạm vi tổ chức hay giới luật gì cả. Sự phân loại theo chủ đề của những vấn đề này dựa trên tác phẩm Skandhaka (Kiền Độ) thuộc Luật tạng do Đại chúng bộ đề xuất, nói chung giống với bộ Khandhaka của Thượng tọa bộ, chỉ thiếu phần tường thuật mở đầu.
Ghi chép của Đại chúng bộ và Xuất thế bộ15 (những điều này chúng ta bám theo những tài liệu xa xưa nhất là có thể tìm thấy, còn ghi chép của các trường phái khác thì có sẵn để bổ sung) nhất trí rằng sau đó đức Phật đã giảng cho năm người bạn đồng tu một lần nữa với nhiều bài pháp cao hơn. Đó là giáo lý vô ngã (anātman), không có ngã, cũng có thể được dịch thành ‘không có linh hồn’ (vì ít nhất Bà-la-môn thường dùng thuật ngữ ātman để diễn tả linh hồn về sau này), và phân tích quán sát các hiện tượng kinh nghiệm thành năm uẩn hay năm tổ hợp (skandha): sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Tổ hợp nào cũng không có ngã, không có tự ngã, bởi vì bản thân nó không thể chủ động điều khiển được chính nó, nên được gọi là “Phải như thật liễu tri…”. Chúng ta sẽ thảo luận giáo lý này ở chương sau.
15. Vin I 13 và Mahāvastu III 335 trở xuống. Đồng thời cũng có trong S III 66 trở xuống.
Những tư liệu này tiếp tục nói về một pháp thoại giữa đức Phật và các vị tỷ-kheo: “Này các tỷ-kheo, các con nghĩ thế nào, sắc pháp là thường hay vô thường? - Bạch thế tôn, là vô thường. - Nếu là vô thường thì khổ hay vui?16 - Bạch thế tôn, là khổ. - Nếu nó là vô thường, khổ, có tính chất biến chuyển thì nó có được xem đây là của tôi, tôi tức là sắc, đây là ngã của tôi (ātman) chăng? - Bạch thế tôn, là hoàn toàn không thể. - Này các tỷ-kheo, do đó, trong trường hợp này, tất cả sắc pháp, cho dù ở quá khứ, hiện tại hay tương lai, cho dù ở trong hay ở ngoài, thô hay tế, thấp hèn hay cao thượng, xa hay gần, đều phải được quán sát đúng như thật tướng của nó bằng chính kiến, rằng đây không phải là của tôi, tôi không là nó, đây không phải là ngã của tôi”. Cuộc đối thoại này tiếp tục nói về những tổ hợp khác, từ thọ uẩn đến thức uẩn, được thay thế vào sắc uẩn, câu trả lời giống nhau. Đức Phật kết luận rằng phàm là một đệ tử giỏi, tu tập những gì mà mình nghe được, như thật quán sát sắc, thọ, tưởng, hành và thức; như thật xả ly hết thảy và nhờ vào sự xả ly mà vị ấy sẽ được giải thoát, vị ấy sẽ có được trí tuệ biết rằng mình đã giải thoát và an trú trong giải thoát ấy. Vị ấy hiểu được rằng sinh đã tận, sống đời phạm hạnh thanh tịnh, nhiệm vụ đã hoàn thành, về sau không còn gì sót lại với thế gian này nữa. Năm vị tỷ-kheo đều chứng đắc giải thoát sau bài pháp thoại này”.
16. Chúng ta theo văn học của thượng tọa bộ; trường phái xuất thế bộ cũng có những kinh văn tương tự nhưng thêm vào một số đoạn giải thích.
Từ đây trở đi, những văn bản đó còn tiếp tục (Đại phẩm không tiếp tục, cũng không dựa vào thứ tự của niên đại, đa số những tình huống ở dưới đều không thấy chép) mô tả đức Phật thu nhận thêm nhiều đệ tử mới gia nhập cộng đồng Tăng-già. Có nhiều thanh niên thuộc tầng lớp con em các thương gia ở Vārāṇasī ‘xuất gia’ theo đức Phật. Cha mẹ và thân quyến của họ cũng đến quy y làm đệ tử tại gia, như vậy một cộng đồng mới được hình thành: họ tu hành ở nhà và cúng dường thức ăn cho chư tăng đi khất thực cùng với những đồ dùng cần thiết, những đệ tử tại gia nam và nữ này trở thành cộng đồng chính quy của Tăng-già, thường được gọi là ‘chúng tại gia’. Khi có được 60 đệ tử xuất gia, đức Phật bảo họ đi về tất cả các hướng để thuyết pháp truyền đạo.
Càng về sau tổ chức cộng đồng Tăng-già càng mở rộng. Thời gian đầu đức Phật ủy quyền cho chư Tăng có thể thu nhận đệ tử mới gia nhập Tăng-già, nhưng về sau vấn đề này càng trở nên cần thiết, nên đức Phật có thêm định chế: thành viên mới phải có đầy đủ tư cách. Điều này rất quan trọng nhằm tránh xung đột với người có quyền lực thế gian và pháp luật, cũng như đề phòng người có động cơ không tốt trà trộn. Ví dụ có câu chuyện kể rằng (đây là câu chuyện xảy ra sau khi đức Phật đến hoằng pháp ở Ma-kiệt-đà từ lâu), vua Tần-bà-sa-la ra lệnh cho các vị tướng điều động binh lính đi giải quyết sự quấy nhiễu ở biên cương, một số binh lính nghĩ rằng đánh nhau không phải là việc tốt bèn trốn khỏi quân đội và xin gia nhập Tăng-già. Chiếu theo pháp luật của thế gian dĩ nhiên việc che giấu và xúi giục đào ngũ là một trọng tội, vì thế nhà vua đến than phiền, nhân đó đức Phật chế ra một điều luật rằng những ai đang phục vụ triều đình không được nhận vào Tăng-già. Đây cũng là một sự cần thiết về sau khi chế định những nguyên tắc không nhận người bệnh và tàn tật gia nhập Tăng-già. Nô lệ cũng không được gia nhập trừ khi thoát được thân phận nô lệ, nếu không sẽ dẫn đến phiền toái với luật thế gian. Trộm cướp, người đang nợ và tội phạm giết người lợi dụng danh nghĩa xuất gia để trốn tránh trách nhiệm, cũng bị từ chối. Nói chung quy định dưới 20 tuổi không được tiếp nhận vào Tăng-già.
Sau những sự kiện ở Vārāṇasī, đức Phật quay trở lại uruvilvā thuộc vương quốc Ma-kiệt-đà. Ở đây nhiều bộ tu chỉnh của Luật tạng (Đại phẩm có xác nhận) đều nói về một sự kiện kỳ lạ khi đức Phật gặp ba vị du sĩ khổ hạnh trên đầu có búi tóc (jaṭilas), tất cả thuộc dòng họ Kāśyapa (Ca-diếp) và mỗi vị có nhiều đồ đệ đi theo. Đức Phật xin tá túc qua đêm trong miếu thờ lửa của uruvilvā Kāśyapa (vị đạo sĩ này dĩ nhiên là Bà-la-môn chính thống đang giữ lửa thánh). Vị đạo sĩ này từ chối ngay với lý do là có một con rắn (nāga) hung dữ trong đó. Đức Phật không sợ con rắn đó và kiên trì xin ở lại, vị đạo sĩ đành chịu. Đêm khuya, con rắn bò ra phun lửa và khói vào đức Phật, nhưng uy lực thần thông của đức Phật quá lớn khiến con rắn phải hàng phục. Khâm phục thần lực kỳ diệu của đức Phật, ba vị đạo sĩ thuộc dòng họ Kāśyapa cùng với các đồ đệ phát tâm quy y và gia nhập Tăng-già của đức Phật.
Tiếp đến, đức Phật nhận lời cung thỉnh của vua Tần-bà-sa-la tiếp tục đi về thành Vương xá (Rājgṛha), thủ đô của nước Ma-kiệt-đà. Nhà vua rất hoan hỷ khi nghe đức Phật thuyết pháp và quy y làm đệ tử tại gia. Theo Luật tạng của thượng tọa bộ, sau đó nhà vua cúng dường một công viên cho Tăng-già làm tịnh xá.
Tiếp đó (Đại phẩm có xác nhận) có nói về câu chuyện đức Phật thu nhận hai vị đệ tử xuất sắc nhất là Xá-lợi-phất (Śāriputra) và Mục-kiền-liên (Maudgalyāyana) như thế nào.17 Một du sĩ tên là Sañjayin, chỉ nói trong Đại phẩm (không thấy đề cập ở trong kinh văn của những trường phái khác) xác nhận rằng ông ta là thủ lĩnh của phái bất khả tri luận, đang trú ngụ ở thành Vương xá cùng các đồ đệ. Trong những đồ đệ này, một số là bạn thân với Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên. Xá-lợi-phất đã gặp một vị tỷ-kheo đệ tử của đức Phật, có ấn tượng sâu sắc đối với biểu hiện trầm tĩnh và hoan hỷ trên nét mặt của vị tỷ-kheo này, và đã hỏi vị ấy theo học vị thầy nào, giáo lý của vị thầy đó là gì. Vị tỷ-kheo trả lời rằng ông ta không học được nhiều từ giáo lý đó nhưng có thể nói được ý nghĩa của giáo lý đó (artha) một cách ngắn gọn. Xá-lợi-phất vốn nổi tiếng thông minh nên không cần giải thích chi tiết, chỉ cần một chút gợi ý của giáo lý thì có thể đủ cho Xá-lợi-phất thâm nhập lý giải. Cho nên, Xá-lợi-phất chỉ xin chút ý nghĩa đó mà không cần nói tường tận. Vị tỷ-kheo đó bảo ông, bậc đạo sư đã dạy rằng tất cả các pháp đều do nhân duyên sinh ra.
17. Vin I 39 trở xuống, Mahāvastu III 56 trở xuống.
Điều này đủ để Xá-lợi-phất thâm nhập vào giáo lý này. Ngay lập tức ông trở về báo cho Mục-kiền-liên và họ quyết định đến gặp đức Phật. Đầu tiên họ bảo Sañjayin cùng đi, ông ta từ chối, nhưng tất cả đồ đệ của Sañjayin lại đi. Đức Phật hoan nghênh hai người bạn này gia nhập Tăng-già của Ngài và bảo rằng sau này họ sẽ là những đệ tử giỏi nhất của Ngài.
Luật tạng của thượng tọa bộ và những trường phái khác sau đoạn này còn kể lại tỉ mỉ về tổ chức của Tăng-già. Trong Tăng-già chế định nguyên tắc của hội đồng trưởng lão (upādhyāyas) để hướng dẫn tư cách và uy nghi cho những vị tỷ-kheo mới. Định hình nhiều nguyên tắc đối với việc gia nhập Tăng-già, đa số đã được thảo luận ở trên. Một sự kiện liên quan với những vấn đề này nói về việc đức Phật trở lại thăm thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu), nơi Ngài được sinh ra. Đại phẩm viết rằng18 lần về thăm này trong một thời gian dài. Giữa những tình tiết đó, Luật tạng của thượng tọa bộ chỉ nói về một việc quan trọng, đó là tình huống phát tâm xuất gia của La-hầu-la (Rāhula), con trai của đức Phật.
18. Mahāvastu III 90 trở xuống (câu chuyện về Rāhula ở tr. 142 trở xuống).
Những văn bản cổ xưa chúng ta không thấy đề cập đến đức Phật đã có một đứa con trai, nhưng những ghi chép muộn hơn có nói nhiều về sự việc này và hôn nhân của Ngài lúc còn sống trong xa hoa và quyền quý trước khi xuất gia. Luật tạng của thượng tọa bộ viết một cách đơn giản rằng19 đức Phật đi từ thành Vương xá về Ca-tỳ-la-vệ, thăm lại vua cha Tịnh Phạn (Śuddhodana) của dòng họ Śakya. Lúc đó mẹ của La-hầu-la bảo: “Này La-hầu-la, đó là cha của con. Đến và xin được kế thừa vương vị”. La-hầu- la làm theo như vậy. Đức Phật quay lại hỏi Xá-lợi-phất rồi nhờ Xá-lợi-phất nhận La-hầu-la làm sa-di và cho gia nhập Tăng-già.
19. Vin I 82.
Lúc bấy giờ, vua tịnh Phạn đưa ra một yêu cầu với đức Phật. “Kể từ khi đức Phật rời hoàng cung xuất gia, tịnh Phạn này rất buồn, thế rồi con thứ hai của ta là Nanda (em cùng cha khác mẹ với đức Phật) cũng ra đi (một tài liệu khác nói rằng Nanda gia nhập cộng đồng Tăng-già) và bây giờ La-hầu-la sắp ra đi, ta cảm thấy vô cùng buồn khổ (trong một bộ Chú giải nói rằng việc này làm cho dòng tộc bị đoạn tuyệt, đây là những gì vua tịnh Phạn nghĩ về). Tình cảm nhớ con nhớ cháu như cắt vào da vào thịt, thậm chí buốt tận xương tủy của một người”. Vì thế, vua tịnh Phạn yêu cầu Tăng-già không cho phép người con xuất gia mà chưa được sự đồng ý của cha mẹ vị ấy. Đức Phật chấp nhận điều này và đưa vào áp dụng trong giới luật.
Nguyên tắc rèn luyện cho những vị sa-di nhỏ tuổi lúc này mới được hình thành và quy định hình thức xử lý đối với những sai phạm của họ. Hình thức xử lý chỉ cấm người phạm giới tạm thời không được đi đến một số nơi nhất định, ngoại trừ trường hợp phạm trọng giới mới bị trục xuất khỏi Tăng-già. Nếu phát hiện người xuất gia với tư cách và động cơ không đúng cũng bị khai trừ. Luật tạng của thượng tọa bộ có nói đức Phật chế định đầy đủ thủ tục chính quy về các hình thức yết-ma (karma) để thọ cụ túc giới (upasampadā) chính thức gia nhập Tăng-già (đây là bước thứ hai và cũng là bước cuối cùng một tỷ-kheo được gia nhập Tăng-già, trước tiên là ‘xuất gia’ rời khỏi thế tục).
Có nhiều nguyên tắc vận hành những thủ tục yết-ma do Tăng-già quyết định. Điều này cho thấy rõ rằng Tăng-già đơn giản được hình thành từ một số chúng nhỏ đến từ nhiều nơi khác nhau. Nếu chúng này có đủ 20 thành viên trở lên thì họ có đủ quyền tự chủ và có thể thực hiện các pháp yết-ma, nếu không đủ số đó thì có một số pháp yết-ma không thể thành. Những đoàn thể Tăng-già ở mỗi địa phương có quy định về cương giới mà họ chính thức sinh hoạt tu tập ở đó, trong trường hợp quá chật thì cho phép mỗi chúng vân tập định kỳ ở một nơi quy định để tránh bất tiện. Tăng-già quyết định việc gì phải thông qua sự đồng ý chung mới hợp pháp: khai pháp hội nghị thì toàn thể thành viên phải đến tham dự trừ trường hợp đặc thù, chẳng hạn bị bệnh thì có thể nhờ vị khác thay mặt truyền đạt ý kiến hoặc đồng ý. Hội nghị thông qua các quyết nghị xác định hòa hợp thì công việc mới có hiệu lực đúng pháp. Quy định được thành lập phải được toàn thể nhất trí, thông qua thảo luận cẩn thận, hòa hợp, ý kiến hòa đồng. Nếu điểm này không thành công sẽ dẫn đến bất đồng, xem đó chỉ là sự nguy hiểm cực đoan. Không có uy quyền nào cao hơn được thiết lập trong cộng đồng Tăng-già, cao quý nhất là Phật, Pháp và tăng. Quyền uy tối cao mà đức Phật thành lập là giáo pháp: Ngài cho rằng Tăng-già có thể sửa đổi giới luật, nếu họ nghĩ là hợp lý, thậm chí sau khi Ngài nhập Niết bàn (có thể thông qua sự đồng ý của toàn thể cộng đồng Tăng-già), mặc dù việc này thật sự không diễn ra trong những người theo Ngài.
Có một sự việc liên quan đến tổ chức của Tăng-già được chép lại rằng, vua Tần-bà-sa-la đề nghị tăng đoàn Phật giáo phải tuân thủ kỳ bố-tát (poṣadha), một hình thức ngày nghỉ lễ truyền thống của đoàn thể Sa-môn, hoặc có thể gọi là đêm nghỉ lễ. Vào đêm mồng 8, 14, hoặc 15 của mỗi nửa tháng, mỗi cộng đồng tăng- già vân tập để thảo luận giáo pháp (như vậy hội nghị định kỳ này cử hành vào đêm trăng rằm và đêm cuối tháng).
Như vậy những lần về thăm lại cố hương Ca-tỳ-la-vệ dường như vào năm đầu tiên sau khi thành đạo, còn nguyên tắc về ngày bố-tát được quy định hầu như sau đó một thời gian. Dựa vào một số ghi chép cho thấy sau khi xác lập ngày bố-tát, đức Phật quy định hàng tỷ-kheo phải tụng lại giới luật vào ngày này. Hiện tại giới luật được tu chỉnh và trình bày trong bất kỳ bản Luật tạng nào đều có đoạn giới thiệu20 về câu chuyện tôn giả Xá-lợi-phất hỏi đức Phật chế định giới luật, nhờ đó mà đời sống tu hành thanh khiết được duy trì lâu dài (việc này phát sinh ở một lần thiếu lương thực, tăng chúng đói kém, tiền đồ Phật giáo dường như lâm vào khốn cảnh, xôn xao: Xá-lợi-phất nghĩ rằng chư tăng cần có một bộ luật để kiểm thúc hành vi của mình không phạm vào ác hạnh và nhờ đó mới xứng đáng nhận đồ cúng dường của hàng tại gia, thậm chí ở gian đoạn khó khăn). Thế nhưng đức Phật quyết định đợi đến khi có sự vi phạm xảy ra trước mới chế định giới luật. Kết quả lần đầu đức Phật thấy vi phạm xảy ra ở Vệ-xá-li (Vaiśālī, thủ đô của nước bạt-kỳ), theo giới bổn của xuất thế bộ,21 vào năm thứ 5 hoằng truyền chính pháp (sau khi thành đạo). Tiếp đó nhiều hành vi sai phạm khác đã xảy ra vào năm thứ 5, năm thứ 6 và sau đó, đều được thêm vào giới bổn.
20. Có trong bản của thượng tọa bộ, Vin III 3 trở xuống.
21. Prātimokṣa Sūtra (Giới bổn kinh) của trường phái Mahāsāṅghikas (-Lokottaravādins), do Pachow và Mishra biên tập, allahabad, 1956, tr. 5 của bản kinh này. Nhưng Sāratthadīpanī (Luật tạng vị chú) (I tr. 401) nói rằng năm thứ 12 mới xuất hiện lỗi nhỏ, đến năm thứ 20 mới xuất hiện lỗi lớn (xem thêm Vin AI tr. 213).
Nếu chúng ta dựa vào thứ tự bảng niên đại này thì lời đề nghị tụng lại giới luật không thể đến năm thứ 5 hoằng truyền chính pháp của đức Phật. Bản thân của kỳ bố-tát không thể có trước từ lâu đối với quy định tụng giới. Giới luật ngăn ngừa hành vi sai phạm của chư tăng được gọi là ‘biệt giải thoát’ (pratimokṣa). Ở mỗi kỳ bố-tát tụng giới hoặc trước đó, vị tăng vi phạm bất kỳ giới nào đều phải yêu cầu hối cải, mục đích là cảnh tỉnh tăng chúng không được vi phạm, đồng thời tin tưởng rằng thông qua xử phạt làm cho người phạm giới hối cải về hành vi sai phạm của mình. Có bốn sai phạm nghiêm trọng nhất bị tẩn xuất khỏi Tăng-già. Còn lại là xử phạt bằng cách mặc tẩn một thời gian để theo dõi, hoặc tạm thời đình chỉ tư cách thành viên trong Tăng-già, hoặc đơn giản là sám hối trước đại chúng. Không có vấn đề về bất kỳ hình thức xử phạt trên thân thể. Mỗi khi đọc lại giới bổn ‘giải thoát’ đến mỗi phần liên quan, tăng chúng tự kiểm điểm bản thân, nếu thanh tịnh giữ yên lặng (mặc nhiên) và tiếp tục sang phần khác.
Dường như trong ghi chép của Luật tạng không sắp xếp sự kiện theo thứ tự niên đại về những quy định của tổ chức và điều luật được chế định sau này. Có lẽ nguyên tắc an cư tập trung mùa mưa cũng được chế định rất sớm. Quả thật đi lại rất khó khăn vào mùa này, và điều quan trọng hơn là người đi lại có khả năng giẫm đạp lên hoa màu khi mà đường đi không thể vượt qua. Vì thế, nhiều tổ chức Tăng-già Phật giáo đòi hỏi an cư không đi lại suốt mùa mưa, mỗi vị tỷ-kheo ở một chỗ ít nhất ba tháng (Sớ giải của thượng tọa bộ chú thích quy định về khoảng thời gian này được ban hành sau khi thành đạo 20 năm).22 Trong thời gian an cư, chư tăng chỉ được phép đi lại trong phạm vi cương giới do Tăng-già quy định (hoặc có việc cần họ cũng có thể ra ngoài phạm vi đó) tự nhiên dẫn đến nhu cầu chỗ ở. Nhu cầu chỗ ở tập trung cho toàn thể Tăng-già được xây dựng gần nhau, vì thế cuối cùng ‘tu viện’ có tính định cư được hình thành. Sự việc này ở thời đức Phật không rõ lắm, nhưng Luật tạng ghi chép rất chi tiết về những nguyên tắc áp dụng cho loại hình xây dựng được phép này, và cách sử dụng đúng đắn đối với đồ dùng, dụng cụ của họ.
22. AA (Tăng nhất A-hàm chú) II 97.
Ngoài ra còn một số nguyên tắc thuộc các bộ phận khác chủ yếu liên quan đến y áo, thức ăn và thuốc thang của tỷ-kheo.
Cuối cùng của chủ đề về mặt tổ chức, có một sự kiện quan trọng được mô tả có lẽ diễn ra ở đoạn cuối sự nghiệp của đức Phật. Đó là sự thành lập cộng đồng Ni giới. Đức Phật đã chấp nhận điều này ở thành Vệ-xá-li,23 do dì Mahāprajāpatī của Ngài năn nỉ, và bà trở thành người hướng dẫn Ni chúng. Đức Phật hiển nhiên sợ cộng đồng này có khả năng mang lại đàm tiếu cho toàn thể Tăng-già và làm cho Phật giáo nhanh suy yếu. Ngài hy vọng đề phòng nguy hiểm này bằng cách đưa ra một số quy định để giúp họ chế ngự mình và nghiêm túc dựa vào sự chỉ giáo của cộng đồng tỷ-kheo Tăng.
23. Trường phái xuất thế bộ nói ở thành Śrāvastī (Roth tr. 6).
Trước khi chúng ta rời khỏi Luật tạng, điểm cần chú ý mà Luật tạng đem lại là chứng cứ đặc thù về tính cách của đức Phật. Sự chế định giới luật rõ ràng không phải xuất phát từ sự chủ quan của đấng đạo sư, mà về sau bất đắc dĩ mới chế định một số điều luật và nếu cần có thể bỏ những điều ít quan trọng.24 Ngài luôn mở rộng lòng từ bi nghĩ đến những tình huống có thể lượng thứ, đặc biệt là bệnh tật, bao gồm cả những căn bệnh tinh thần. Ngài chỉ quan tâm đến giáo lý và phương pháp tu tập bát chính đạo, còn sự ngăn cấm hay giới luật phải tự động thật sự hỗ trợ con đường tu tập đó mà không phải là bộ phận đứng tách rời. Trên thực tế, lý do chế định giới luật thường được tín đồ tại gia Phật giáo hoặc không phải Phật giáo với ý kiến chung là: hành vi biểu hiện bên ngoài của Tăng-già là để thu hút niềm tin và sự kính trọng, thậm chí có thể liên quan đến những vật chất tầm thường như y áo…, vốn không liên quan đến việc tu hành, điều này cần chú ý khi phát biểu. Rõ ràng, ở một số trường hợp, giới luật được chế định để kiểm thúc hành vi của những người thật sự không mong muốn truy tìm ‘đời sống cao thượng’ mà giả mạo gia nhập hàng ngũ của người xuất gia với động cơ sai trái và lợi dụng.
24. Nguyện vọng này có ghi lại trong kinh điển, D II 154.
Hai tình huống trong Luật tạng cho thấy rất rõ thái độ của đức Phật với sự khoan dung và từ bi vô lượng của Ngài, điều này được tìm thấy mọi nơi trong giáo lý của Ngài và ở đây đưa ra làm bằng chứng thực tế. Tình huống thứ nhất,25 một vị tướng tên là Siṃha ở nước bạt-kỳ, vốn là một thí chủ kiền thành của Kỳ-na giáo, nghe danh tiếng đồn khắp khi đức Phật đến truyền bá ở thành Vệ-xá-li lần nữa, thế là ông ta tự thân quyết định đến bái kiến Ngài. Siṃha rất vui mừng khi gặp được đức Phật và ông ta xin được chấp nhận làm một đệ tử tại gia. Sau khi tiếp nhận, đức Phật khuyên ông ta không nên cắt bỏ sự ủng hộ định kỳ có từ lâu cho những vị đạo sĩ của Kỳ-na giáo.
25. Vin I 232 trở xuống, đặc biệt tr. 235.
Tình huống thứ hai26 liên quan đến một vị tỷ kheo đang mắc bệnh đau bụng. Đức Phật cùng với một vị thị giả thâm tín nhất của Ngài là Ānanda (em họ của đức Phật) đang thiền hành quanh tu viện, thấy một vị tỷ-kheo bệnh đang nằm, người dính đầy phân của mình mà không ai giúp đỡ. Ngài tiến lại và hỏi: “Này tỷ-kheo, con đau bệnh gì thế?”. Vị tỷ-kheo ấy trả lời: “Bạch thế tôn, bụng con không ổn”. “Thế con có thị giả giúp đỡ không?”. “Dạ không, thưa thế tôn”. “Tại sao chư tăng không giúp con?”. “Thưa thế tôn, con không làm gì được cho chư tăng cả, vì thế chư tăng không giúp con”. Thế rồi thế tôn bảo với tôn giả Ānanda: “Này Ānanda, mang nước đến đây, chúng ta sẽ tắm cho vị tỷ-kheo này”. “Thưa vâng”. Tôn giả Ānanda đồng ý với thế tôn mang nước đến. Thế tôn xối nước và Ānanda tắm sạch sẽ cho vị ấy, thế rồi thế tôn đỡ đầu và tôn giả Ānanda đỡ chân, đưa vị ấy nằm lên giường. Nhân việc này, đức thế tôn vân tập toàn thể chúng tăng và hỏi họ: “Này các vị, có một vị tỷ-kheo đang ở đây như thế và bị bệnh như thế không? “Bạch thế tôn, có như thế”. “Này các vị, vị tỷ-kheo đó bị bệnh gì?”. “Bạch thế tôn, vị ấy đau vì bụng không được ổn”. “Này các vị, hiện tại vị ấy có thị giả giúp đỡ không?”. “Bạch thế tôn, vị ấy không làm được gì cho chư tăng cả, vì thế vị ấy không được trợ giúp”. “Này các vị, các vị không có cha và mẹ bên cạnh, ai giúp đỡ các vị? Nếu các vị không giúp đỡ người khác thì ai sẽ giúp đỡ các vị? Này các vị, vị nào muốn giúp đỡ Ta, vị đó nên giúp đỡ người bệnh”.
26. Vin I 301 trở xuống.
Mặc dù đức Phật rất quan tâm đến tổ chức Tăng-già, nhưng đức Phật phải đối mặt với một việc nghiêm trọng trong nội bộ ở cuối sự nghiệp hoằng pháp của Ngài. Từ những câu chuyện ghi chép trong Phật giáo về sau này, giúp chúng ta biết được câu chuyện về vua Tần-bà-sa-la của nước Ma-kiệt-đà nhường ngôi cho thái tử A-xà-thế (trước khi đức Phật nhập Niết bàn 8 năm, khoảng năm 494 TTL. Trước đó một chút, Đề-bà-đạt-đa, anh họ của đức Phật đã được gia nhập Tăng-già, ông ta ấp ủ hoài bão trở thành lãnh đạo chư tăng. Câu chuyện này được kể trong Luật tạng27 liên quan đến việc ban hành quy định ngăn chặn sự chia rẽ, sự việc này cũng có nói một phần trong Đại phẩm (tuy nói không nhiều nhưng có thêm thắt bổ sung), và cũng có viết trong một số văn bản của Nhất thiết hữu bộ.28
27. Vin II 184 trở xuống.
28. Liên quan đến điều này mời xem từ điển của Edgerton, tr. 271; và Luật tạng của trường phái Mūlasarvāstivāda, Gilgot MS, bộ phận do Gnoli và Venkatacharya biên tập.
Đề-bà-đạt-đa đề nghị với đức Phật rằng, hiện nay Ngài đã già, nên nghỉ ngơi để ông ta lãnh đạo Tăng-già.29 Đức Phật đã không đồng ý. Đề-bà-đạt-đa vốn kết thân với thái tử A-xà-thế, nhân lúc đức Phật từ chối lời đề nghị và đặc biệt đức Phật dặn dò tăng chúng đề phòng sự chia rẽ của ông ta, vì vậy trong tâm nuôi dưỡng uất ức, ông ta thổ lộ sự tình với thái tử, mong được trợ giúp. Ông ta gợi ý rằng thái tử cũng có cũng tâm sự như ông ta, đang chờ lên ngôi vua. Nếu như thái tử có thể giết vua thì Đề-bà-đạt-đa (Devadatta) cũng có thể giết đức Phật, để rồi một người lên ngôi vua, một người làm Phật. A-xà-thế (ajātaśatru) đồng ý và thực hiện âm mưu sát hại vua cha. Nhưng bị quần thần ngăn chặn, âm mưu của thái tử bị bại lộ, nhưng vua Tần-bà-sa-la (bimnisāra) hiểu được thái tử muốn điều hành đất nước. Nhà vua thoái vị và nhường A-xà-thế lên ngôi. Thế rồi Đề-bà-đạt-đa yêu cầu thái tử giết đức Phật. A-xà-thế phái thích khách đến nhưng đều thất bại. Cứ mỗi lần đối diện với đức Phật thì họ liền xin quy y làm đệ tử của Ngài. Thế rồi Đề-bà-đạt-đa tự mình ra tay giết đức Phật bằng cách đẩy tảng đá từ một hẻm núi nhằm vào Ngài. Đức Phật tránh được nhưng bị thương nhẹ ở chân. Sau những nỗ lực sát hại thất bại, Đề-bà-đạt-đa lên kế hoạch chia rẽ tăng đoàn bằng cách đưa ra những điều luật nghiêm khắc: chư Tăng phải sống trong rừng và không vào làng xóm; phải mặc y làm từ những mảnh vải cũ lượm được và không nhận y mới; không nhận lời mời đến nhà người ăn cơm, chỉ được đi khất thực; không được ở trong nhà cố định, chỉ ở ngoài trời; chỉ ăn chay (đức Phật cho phép nhận bất cứ thức ăn gì mà người khác cho, kể cả thịt, chỉ cần không phải giết để lấy thịt cho việc bố thí đó). Đức Phật dạy rằng vị tỷ-kheo nào muốn, có thể theo những lời đề nghị này, nhưng Ngài từ chối vì chúng quá khiên cưỡng. Có một vài tỷ-kheo ủng hộ Đề-bà-đạt-đa, nhân đó mà gây ra một sự chia rẽ.
29. Vin II 188.
Có một bằng chứng nhỏ cho thấy sau này Đề-bà-đạt-đa có một vài thành công và nhóm phân rẽ của ông tồn tại trong vài thế kỷ. Nếu như vậy thì những ghi chép về bạo lực và sự dính líu đến mưu đồ lãnh đạo Tăng đoàn của ông do người sau viết lại hơi khoa trương. Cho dù sự thật thế nào, tham vọng của Đề-bà-đạt-đa đều xuất phát từ sự lủng củng nghiêm trọng trong cộng đồng Phật giáo. Theo Luật tạng chép,30 có thời gian có đến 500 vị tỷ-kheo theo ông ta, nhưng sau đó Xá-lợi-phất khuyên họ quay trở lại. Những ghi chép sau này31 nói rằng Đề-bà-đạt-đa qua đời trước đức Phật. Đối với vua A-xà-thế, sau khi đạt được mục đích, ông ta không không để ý đến vị trí của Đề-bà-đạt-đa, và ông ta đã cải tà quy chính, phát tâm quy y với đức Phật, như chúng ta đọc được trong kinh điển.
30. Vin II 199.
31. Xem DPPN (từ điển thuật ngữ Pali) I, tr. 1110, có dẫn chứng tư liệu.
Phần Kinh tạng của Ba tạng giáo lý có vô số câu chuyện phân bổ khắp giáo lý của đức Phật, trong đó chúng ta có thể chọn một số điểm quan trọng liên quan ở đây. Có nhiều bản kinh, đặc biệt là những kinh ngắn, đức Phật giảng thuyết cho những vị đệ tử tỷ-kheo của Ngài với một số lượng lớn; trong số những kinh điển dài hơn, đức Phật thuyết Pháp cho các vị Bà-la-môn (brahmans), Sa-môn (śramaṇas), vua và quý tộc, thiện nam và tín nữ thuộc nhiều thành phần khác nhau trong các thành thị (hầu hết những bài đàm thoại này diễn ra ở vùng ngoại ô, thành phố lớn ở lưu vực sông Hằng (Ganges), đặc biệt ở thành Xá-vệ (Śrāvastī), thủ phủ của Kiều-tát-la (Kośala), vương quốc lớn nhất thuộc lưu vực sông hằng). Đối với những người sống ‘trong ràng buộc của thế tục’ không muốn rời khỏi nó, đức Phật thường giảng về đạo đức xã hội và hữu nghị tốt đẹp, thực hành như vậy sẽ mang lại hạnh phúc trong đời sống cũng như trong công việc. Trong bài giảng của Ngài thường mang sắc thái sinh động, ví dụ khi Ngài nói về những câu chuyện minh họa sự suy đồi của xã hội do một vị vua dùng biện pháp sai để ngăn chặn tội phạm,32 hoặc nói về phương pháp thực hành và niềm tin buồn cười của những Bà-la-môn,33 hoặc khi Ngài mô tả sự áp đặt vô lý cho ‘Phạm thiên’ (Brahmā), giả vờ có sức mạnh vô địch và toàn năng, tuyên bố đã tạo ra vũ trụ này, thực tế thì lo sợ sự ngốc nghếch của mình bị lộ ra giữa công chúng.34
32. D No. 26 = T 1 No. 6, tr. 244 sách này).
33. D No. 3, 4, 5, 13, 25 (một Sa-môn khổ hạnh chứ không nhất thiết là một Bà-la-môn) và 27= T 1 No. 20, 22, 23, 26, 8 và 5. Tham khảo tr. 238, 256 sách này).
34. D No. 11, cũng ở No. 1 (tr. 17 trở xuống) = T No. 24, cũng như No. 21, xem ở tr. 226 sách này)
Tuy nhiên, phẩm chất của đức Phật lan tỏa khắp muôn phương được minh họa trong những lời thuyết pháp của Ngài, đó là sự tĩnh lặng, an lạc giải thoát, không dao động đối với chân lý, sự chứng đắc con đường ‘trung đạo’ của Ngài và tuyên thuyết ra là một minh chứng, gặp những người ngộ nhận Ngài truy vấn đến cùng, mục đích làm sáng tỏ chân lý từ trong họ, chứ không thuyết giảng với họ. Hầu như thừa để nói rằng toàn bộ sự tiếp cận này là lý trí chứ không phải tình cảm. Tuy nhiên, đặc tính từ bi thì không thể xem nhẹ; mặc dù không chiếm ưu thế nhưng lại rất căn bản. Từ bi còn cho thấy là động lực thuyết pháp và thành lập tổ chức của đức Phật, là nguồn cảm hứng cho giáo lý đạo đức mặc dù cuối cùng cũng đặt trên nền tảng của lý trí: lân mẫn và quan tâm vì lợi ích cho hết thảy chúng sinh luôn được xiển dương. Đức Phật thường nói về một phương pháp thực hành thiền định chắc chắn và hướng dẫn cho cả đệ tử tại gia lẫn xuất gia (dùng để trừ bỏ ‘chướng ngại’). Loại thiền định này làm cho tâm phát triển lan tỏa khắp bốn phương sung mãn ‘từ’ (từ ái), bi (thông cảm lân mẫn), hỷ (niềm vui khi người khác được tốt đẹp, được may mắn) và xả (buông xả nhẹ nhàng thanh thản). Bằng cách quán chiếu hết thảy chúng sinh cũng giống như mình (sarvātmatā, nghĩa là đặt mình vào vị trí của người khác). ai có thể làm cho tâm nạp đầy như vậy, dâng cao và không thể đo lường thì nó lan tỏa khắp vũ trụ.35
35. Đối với những liên quan này mời xem PTC dưới mục appamāṇa, nguyên văn cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena. Bản tiếng Trung Quốc như T 99 phần 27 No. 32.
Đặc điểm nổi bật nhất của đức Phật là lời nói của Ngài luôn thích hợp với người nghe, lúc luận bàn thì lịch sự nhã nhặn mang lại lợi ích: không bài xích quan điểm và cách tu hành của người khác, không thách thức người khác để chứng tỏ mình đúng. Phương pháp của Ngài dường như chấp nhận quan điểm của người khác rồi dùng hỏi và đáp để hoàn chỉnh nó, cho đến khi cùng nhau đồng ý và đi đến một kết luận. Trong khi thảo luận, Ngài dẫn dắt đối tượng hướng về chân lý mà Ngài đã phát hiện, như vậy người khác dường như có cảm giác tự tìm hiểu, bằng bất cứ hình thức nào đã đạt được, và đạt đến những chân lý cao hơn trước đây mà vị ấy đã biết, hoặc thể nhập vào những lý tưởng đạo đức. Phương pháp này minh họa rất rõ trong những lần thảo luận với Bà-la-môn, chẳng hạn ngoài những lời đối thoại đã đề cập ở trước mang tính biếm chỉ (ở đoạn đối thoại tương tự không bình thường với những đạo sĩ khổ hạnh về việc ai có thể và ai không thể là Bà-la-môn). Trong những đoạn đối thoại như thế có thể tìm thấy đức Phật nhiều lần biểu hiện sự phê phán chế độ xã hội phân tầng mang tính cha truyền con nối (cái gọi là ‘giai cấp’), đặc biệt chủng tính thầy tế cha truyền con nối của chính những người Bà-la-môn: trong những đoạn đối thoại với Bà-la-môn cho thấy họ được đức Phật dẫn vào thừa nhận rằng một Bà-la-môn chân chính là một người có phẩm cách nên được gọi là Bà-la-môn chứ không phải do sinh ra mà có.
Những đoạn đối thoại trong kinh điển muộn nhất kể về câu chuyện vua A-xà-thế đến bái kiến đức Phật để thỉnh vấn về việc củng cố vương vị của mình sau khi cha của ông nhường ngôi (bất hạnh thay vua Tần-bà-sa-la bị giam hãm và bỏ đói trong ngục, đoạn này có nói trong sớ giải của thượng tọa bộ).36
36. D No. 2 = T I No. 27. (Chú giải trường A-hàm, DA 132 trở xuống. MSV Gilgit III phần 4, 213 trở xuống và trong phần của Giáo sư Tucci đã xuất bản.
Vào một đêm trăng tròn (thời điểm có tính truyền thống cho việc thực hành thiền định và thảo luận triết học thời cổ đại Ấn Độ, cũng như thời điểm cử hành các nghi lễ tôn giáo hay đêm bố-tát định kỳ trong Phật giáo được đề cập ở trên), ngồi cùng các đại thần trên sân thượng của hoàng cung, vua A-xà-thế cảm thấy bồn chồn. Nhà vua đề nghị đi yết kiến một vài vị Bà-la-môn hoặc Sa-môn để giúp cho đầu óc của ông có được sự an tĩnh, và hỏi họ một vài ý kiến. Một số đại thần gợi ý lần lượt đến thỉnh vấn ba vị đạo sĩ của ba phái Chính mạng luận, bất khả tri luận và Kỳ-na giáo. Nhà vua nghe xong lời gợi ý này thì im lặng không nói gì. Thế rồi một ngự y tên là Jīvaka gợi ý đến gặp đức Phật (chuyện về Jīvaka có nói khá dài trong Luận tạng; ông ta thường chữa bệnh và cúng dường cho các vị tỷ-kheo). Vua A-xà-thế đồng ý và lên giá xuất phát, ngự trên thớt voi và mang theo đoàn hộ giá, hướng về vườn xoài của ngự y Jīvaka (gần thành Vương xá), mà lúc bấy giờ đức Phật cùng nhiều tăng chúng đang trú ngụ ở đây.
Khi đoàn xa giá vừa đến khu vườn, nhà vua bỗng dưng sợ có bẫy, vì nghĩ rằng trước đây ông từng theo Đề-bà-đạt-đa. Vườn xoài vô cùng vắng lặng: mặc dù có đến hàng trăm vị tỷ-kheo mà vẫn không nghe thấy một tiếng ho. Jīvaka chỉ vào những ngọn đèn đang cháy sáng trong tịnh xá để bảo đảm với nhà vua. Nhà vua xuống giá voi và tiến vào tịnh xá. Ngự y Jīvaka chỉ cho nhà vua thấy thế tôn đang ngồi thiền định đối diện cột trụ chính, quay về hướng Đông, chư tăng ngồi phía trước Ngài. Sau khi đến gần thế tôn, vua A-xà-thế đứng sang một bên, trầm ngâm trong sự im lặng hoàn toàn của tăng đoàn, trông như một mặt hồ tĩnh lặng, và trong lòng mong ước sau này thái tử udāyibhadra có được sự tĩnh lặng này của tăng đoàn (thái tử udāyibhadra là con trai thừa kế vương vị của nhà vua, hiển nhiên A-xà-thế lo sợ thái tử ảnh hưởng tính thiếu kiên nhẫn của mình mà đoạt lấy ngôi vua). Căn cứ vào sớ giải, nhà vua không nói ra, nhưng đức Phật biết được dòng suy nghĩ này của nhà vua. Đức Phật chỉ nói cho mọi người biết về sau này nhà vua sẽ trở về với thiện tâm (nghĩa trong sớ giải là nhìn thấy tăng chúng như vậy ông ta sẽ quay về với bản chất thánh thiện của mình, như dòng nước chảy từ trên ngọn đồi cao xuống thấp). Nhà vua bảo rằng thái tử udāyibhadra đứa con yêu quý của ông ta và nói ra niềm mong ước như thế. Sau đó nhà vua đảnh lễ đức thế tôn và chư tăng, rồi ngồi xuống.
Vua A-xà-thế xin được phép hỏi đức Phật cùng với sự chỉ giáo của Ngài. Câu hỏi, rằng có nhiều ngành nghề trong thế gian tạo ra kết quả có thể thấy được, mang lại hạnh phúc và lợi lạc cho chính họ cũng như cho gia đình và người thân của họ; hơn thế họ còn cúng dường cho những Bà-la-môn và Sa-môn, những việc làm tốt này có thể dẫn họ đạt đến thiên đường, còn một Sa-môn nếu có thì kết quả thấy được của họ là gì? Đức Phật hỏi ông ta đặt câu hỏi này với những thầy khác thì họ trả lời thế nào. Nhà vua thuật lại với đức Phật câu trả lời của 6 vị thầy đến từ nhiều trường phái khác do các đại thần giới thiệu. Câu trả lời của tất cả những vị thầy mà nhà vua đã đến hỏi trước đó có chép ở phần đầu của bài đối thoại này. Tất cả những câu trả lời đó đều có liên quan đến câu hỏi này rằng, những vị thầy đó đã đưa ra học thuyết và lý thuyết của họ, chẳng hạn trong phương pháp tu hành của Kỳ-na giáo không đem lại kết quả thực tế, ngoại trừ Chính mạng luận bảo rằng cho dù ai làm gì cũng chẳng có gì quan trọng, kinh nghiệm vui hay khổ đều thuộc định mệnh, và thực tế không gì có thể thay đổi được bảy nguyên tố ấy, trong khi đó vị thầy của thuận thế luận cho rằng chúng ta đều chết và người trí hay người ngu như nhau. Vị thầy thuộc phái bất khả tri luận rõ ràng thoái thác câu hỏi này bằng những lý do và bảo rằng cho dù có đáp án cũng không muốn trả lời.
Thế rồi đức Phật giảng giải cho nhà vua. Trước hết, giả sử nhà vua có một người hầu cận nghĩ rằng ‘ta là một người đàn ông, cũng giống như ông vua, tại sao ta không thể được tự do?’, sau đó anh ta gia nhập hàng ngũ của Sa-môn, được nhà vua tiếp đãi, tôn trọng như một người tu hành tự do? Nhà vua đồng ý. Nhà vua cũng đồng ý đối với trường hợp của một người nông dân chủ nhà, đóng thuế, gia tăng của cải, nếu trở thành một người Sa- môn, cũng có thể được mọi người quý trọng. Thế rồi đức Phật mô tả về một người mới gia nhập Tăng-già được đức Phật hướng dẫn, tu tập gặt hái được thành quả, định tĩnh, từ bi…, đạt được tự tại giải thoát và an lạc khi vị ấy tu tập thiền định. Nhà vua cũng đồng ý với kết quả có thể trông thấy này, và sau đó đức Phật lần lượt chỉ bày nhiều phương pháp thiền định đạt đến chính trí, bao gồm sự liễu giải bốn sự thật cao quý và trí tuệ tận diệt các lậu hoặc, giúp cho con người giải thoát khỏi luân hồi. Nhà vua đồng ý tất cả những kết quả trông thấy được ấy, thành tựu này cao hơn thành tựu kia.
Lời giải đáp của đức Phật làm cho vua A-xà-thế cảm thấy hoan hỷ và xin quy y làm Phật tử tại gia, thêm nữa nhà vua bảo rằng trước đây do ngu muội đã làm một việc xấu xa vì muốn được uy quyền tối cao mà đã ra tay sát hại mạng sống của cha mình. Đức thế tôn liệu có chấp nhận sự sám hối của nhà vua để ông ta sửa đổi cho tương lai chăng? Đức Phật bảo rằng nhà vua đã nhận thức được tội lỗi và sám hối nó một cách chân thành nên Ngài có thể chấp nhận.
Nhà vua xin phép cáo từ. Đức Phật lưu ý với chư tăng rằng nhà vua rất đau buồn và giày vò: nếu ông ta không phạm vào tội ác bất lương này thì ông ta có thể hiểu được giáo lý.