Giai đoạn cuối đời của đức Phật được chép lại khá dài trong kinh Đại Niết-bàn (Mahāparinirvāṇa Sūtra) có trong Kinh tạng thuộc Ba tạng giáo lý này. Chúng ta có thể tìm thấy bộ kinh này trong nhiều bản tu chỉnh Ba tạng giáo lý.37 Ở đây chúng ta sẽ căn cứ vào bản của thượng tọa bộ, là một bản kinh được gìn giữ tốt nhất, cắt bỏ những phần không hợp lý của các bản khác, được dịch sang tiếng anh cùng với những chú thích nhỏ và có tính liên tục.
37. D No. 16 = T 1 No. 2, những phiên bản tiếng Trung Quốc khác là T 5 (khác với bản tiếng Pali), T 6 và T 7 (cả hai đều gần giống); MPS (Waldschmidt) là bản của Nhất thiết hữu bộ bằng tiếng Phạn (những văn bản tương tự với Luật tạng của trường phái này có trong bản tiếng Tây Tạng và Trung Quốc).
Bản kinh bắt đầu với lời giới thiệu đức Phật đang trú tại thành Vương xá. Lúc bấy giờ vua A-xà-thế đang có dự định thôn tính nước Bạt-kỳ. Trước khi thực hiện ông ta phái đại thần Varṣākāra đến bái kiến đức Phật, bày tỏ thăm hỏi và thông báo cất binh tấn công, nghe ý kiến của Ngài rồi về bẩm báo lại, bởi vì những lời đó không thể là không thật. Varṣākāra mang đặc mệnh này đến tìm gặp vị ‘tướng sĩ vô hại’, thấy Ngài (đang ngồi), bên cạnh là Ānanda đang đứng hầu quạt cho Ngài. Đức thế tôn quay sang Ānanda nói:
“Này Ānanda, con có từng nghe người nước Bạt-kỳ thường hội họp, đóng góp cho hội họp không? - Bạch thế tôn, con từng nghe như thế… - Người nước Bạt-kỳ thường hội họp và góp ý cho hội họp, phát triển cường thịnh, không suy yếu. Này Ānanda, con có từng nghe người nước Bạt-kỳ hội họp trong hòa hợp, giải tán trong hòa hợp và đồng lòng chấp hành công việc cho nước Bạt-kỳ hay không? - Dạ con từng nghe… - Cũng như… phát triển cường thịnh, không suy yếu. Con có từng nghe người nước Bạt-kỳ không ban hành những điều không nên ban hành và không hủy bỏ những điều đã được ban hành, sống đúng với nguyên tắc cổ truyền của người Bạt-kỳ được ban hành từ xưa? - Bạch thế tôn, con từng nghe như thế… - Con từng nghe người Bạt-kỳ tiếp đãi, tôn kính, trọng vọng những người lớn tuổi và lắng nghe ý kiến của họ hay không? bạch thế tôn, con có nghe như vậy… - Con có từng nghe người Bạt-kỳ không cưỡng bắt phụ nữ và con gái trong những bộ tộc của họ, cưỡng ép sống chung với họ hay không? - Bạch thế tôn, con có nghe rằng họ không làm vậy… - Con có nghe người Bạt-kỳ cúng dường, cung kính, tôn trọng, nơi thờ tự của người bạt- kỳ, tại nhà và ở khắp nơi, không bỏ các lễ cúng có từ trước, từ xưa đã bày hay không? - Con có nghe người Bạt-kỳ tôn kính các bậc ‘đáng kính’ (A-la-hán, thường được dùng trong Phật giáo đối với những bậc ‘toàn giác’ đã chứng đắc giác ngộ, tịch diệt, thường đồng nghĩa với thuật từ chính đẳng giác (samyaksaṃbuddha) ở trong Ba tạng giáo lý, ‘hoàn toàn giác ngộ’, cũng là một trong những đặc tính của đức Phật; ở đây rõ ràng được dùng với nghĩa rộng hơn hoặc với nghĩa cổ xưa hơn) của người Bạt-kỳ, bảo đảm an toàn, sắp xếp chỗ ở và bảo vệ, cho dù những bậc ‘đáng kính’ ấy chuẩn bị đến trong tương lai và những vị đã đến sống trong nước được an ổn hay không? - Bạch Thế Tôn, con có nghe…”.
Đức Phật nói với đại thần Varṣākāra rằng, chính Ngài đã dạy người dân nước Bạt-kỳ về bảy nguyên tắc này làm cho đất nước họ trở nên giàu mạnh khi Ngài ở Vệ-xá-li và hiện nay họ đã cường thịnh và không bao giờ chờ đợi họ bị suy yếu. Vị đại thần này đánh giá rằng chỉ cần làm được một nguyên tắc trong đó thôi cũng đủ chứ đừng nói làm tất cả. Đối với vua A-xà-thế mà nói thì ông ta không thể chiến thắng nổi người Bạt-kỳ, trừ khi lợi dụng chiến tranh tuyên truyền làm cho họ chia rẽ và đấu đá lẫn nhau. Nói xong vị đại thần này xin cáo từ.
Không lâu sau đó đức Phật triệu tập tất cả các vị tỷ-kheo ở vùng lân cận đến giảng đường và giảng giải cho họ về bảy nguyên tắc làm cho Tăng-già hưng thịnh. Những nguyên tắc này dựa vào bảy nguyên tắc đã nói cho người dân nước Bạt-kỳ: thường hội họp; làm việc trong đoàn kết; tuân thủ những nguyên tắc đã ban hành; tôn trọng bậc trưởng lão trong Tăng-già và lắng nghe sự khuyên bảo của họ; không được dục vọng lôi kéo mà dẫn đến luân hồi; thường sống tĩnh lặng và tôn trọng thành tựu của người cùng tu để cùng nhau tu tập hướng đến đời sống cao thượng và an lạc giải thoát. Bản kinh này tiếp tục đưa ra nhiều nhóm bảy nguyên tắc khác, tuy nhiên nhóm đặc biệt cho Tăng-già là bảy yếu tố giác ngộ (thất giác chi, chúng ta sẽ gặp lại những yếu tố này ở phần dưới).
Một thời gian sau sự kiện này, đức Phật cùng với đại chúng tỷ-kheo rời thành Vương xá, du hóa lên phía bắc và tây Ấn Độ, thực tế là đến nước Cộng hòa Bạt-kỳ (nhiều kinh điển ghi lại chặng đường này có nhiều giai đoạn). Trên đường đi, đức Phật ghé lại một ngôi làng tên là Pāṭaligrāmaka thuộc lưu vực sông hằng. Ở đây có nhiều gia chủ đệ tử tại gia đến gặp Ngài. Đức Phật đã giảng cho họ nhiều bài pháp khác nhau, vấn đề về đạo đức hoặc các việc làm tốt đẹp,38 như sau:
38. Văn bản của Nhất thiết hữu bộ dùng từ ‘cẩn thận’, ‘không phóng dật’, nhưng thực tế quan điểm thì giống.
“Này các gia chủ, với phẩm chất xấu, mất đạo đức, có năm điều bất lợi. Năm điều đó là gì? bất lợi thứ nhất là có một tính cách tồi, mất đạo đức, thiệt hại lớn về tài sản vì giao thiệp với người xấu… thứ hai là tiếng xấu lan truyền (tức tiếng xấu đồn khắp), do người có phẩm chất xấu dẫn đến mất đạo đức… thứ ba là ở chỗ hội họp của các đạo sĩ, du sĩ (Bà-la-môn), cư sĩ hay Sa-môn, anh ta đến thể hiện sự biến chất, mất đạo đức, đến với tư cách tồi, đi ô nhục… thứ tư là người có phẩm chất tồi, mất đạo đức lúc chết bị hoang mang… thứ năm là người mất phẩm chất, mất đạo đức sau khi chết thi thể bốc mùi thối, tái sinh vào hoàn cảnh thê thảm hoặc đọa vào địa ngục để trả quả báo. Đây là năm điều bất lợi đối với người mất tư cách, mất đạo đức”.
“Này các vị cư sĩ, có năm điều lợi ích đối với những người có phẩm chất lương thiện, có đạo đức. Năm điều đó là gì? Thứ nhất là người có phẩm chất lương thiện, có đạo đức, họ cần cù chăm sóc công việc để gia tăng của cải vật chất… Thứ hai là tiếng lành đồn xa… Thứ ba là họ đến tham dự với hội chúng đạo sĩ, du sĩ, cư sĩ hay của những người hiền triết đều với tư cách nghiêm túc tự tin, không thẹn thùng… Thứ tư là khi chết tâm không hoang mang lo sợ… Thứ năm là sau khi chết thân thể không bốc mùi thối, người có phẩm chất thiện lương, có đạo đức được sinh vào cảnh giới tốt đẹp hoặc cõi trời. Đây là năm điều lợi ích của những người có phẩm chất thiện lương và đạo đức”.
“Sau đó, đức Phật giảng dạy, hướng dẫn, khuyến tấn trong nhiều đêm và làm cho những đệ tử tại gia ở Pāṭaligrāmaka trở nên phấn chấn với những bài giảng về giáo lý, và rồi từ biệt họ”. Đêm đó cư sĩ Phật tử cung thỉnh đức Phật ở lại một ngôi nhà trong làng này.
Lúc bấy giờ đại thần Varṣākāra (theo kinh điển của thượng tọa bộ còn có một vị đại thần khác) đang ở làng Pāṭaligrāmaka ‘xây dựng thành lũy để phòng ngự nước Bạt-kỳ’. Rõ ràng vua A-xà-thế thấy được sức mạnh thật sự của người Bạt-kỳ nên đã có biện pháp phòng ngự. Làng Pāṭaligrāmaka nằm ở biên giới tiếp giáp sông hằng, một vị trí chiến lược quan trọng trên tuyến đường thông thương giữa thành Vương xá và Vệ-xá-li, được một sườn núi che chắn trên một nhánh lớn của sông hằng. Do đó, việc quyết định xây thành lũy ở đó, thật tế là xây dựng một thành phố có thành lũy bao quanh và không nghi ngờ gì đây là một công sự chuẩn bị cho tương lai vượt sông. Ngôi làng này sau được đổi tên là hoa thị thành (Pāṭaliputra), nhanh chóng trở thành một thành phố lớn và những vị vua sau này của vương quốc Ma-kiệt-đà thay nhau trị vì ở đây. Khi những kẻ thống trị của vương quốc Ma-kiệt-đà mở rộng đế chế lên toàn Ấn Độ, thì hoa thị thành có giai đoạn trở thành đế đô lớn nhất chưa từng có ở Ấn Độ. Ở một thế kỷ đầu sau khi đức Phật nhập Niết bàn, có lẽ những người ghi chép của Phật giáo đã kết nối vị đạo sư của họ với thủ đô mới và hưng thịnh này.
Kinh này mô tả có nhiều địa điểm ở vùng này lúc bấy giờ bị thần linh hay quỷ thần (devatā) bậc cao, vừa và thấp chiếm cứ. Có một số điểm khác nhau giữa các bản kinh, nhưng hầu hết cho rằng đức Phật có thể nhìn thấy những quỷ thần này đang chiếm cứ một số nơi trong thành phố và bảo với Ānanda rằng, những người bậc cao, vừa và thấp này sẽ ở trong những ngôi nhà tại nơi đã chiếm. Ngài nói rằng đó là kết quả thương thảo giữa một vị đại thần và thần linh để xây thành lũy. Đức Phật tiên đoán, thành hoa thị thành (gọi bằng tên mới) sẽ là thành phố chính và là trung tâm thương mại cả nước của người Aryan, buôn bán phát triển, thêm nữa sẽ có ba mối nguy hiểm đối với thành phố này: nạn lửa, nước (lũ lụt) và những cuộc nội chiến.
Đức Phật gặp lại đại thần Varṣākāra và vị đại thần này cung thỉnh Ngài cùng với chư tăng thọ trai vào ngày hôm sau. Thức ăn thật thịnh soạn. Theo kinh điển của Nhất thiết hữu bộ, vị đại thần này mong muốn rằng qua lần trai tăng cúng dường, thành phố của thần linh được phồn thịnh và hạnh phúc: phần trai tăng cúng dường lấy danh nghĩa cúng dường của họ. Kinh điển của thượng tọa bộ cũng có miêu tả đức Phật nói về việc này bằng thi kệ: “Cho dù ở nơi nào, người trí cúng dường chỗ ở và thức ăn cho người có đức hạnh, dùng lễ vật cúng thần linh (devatā), tôn kính thần linh, thật vinh dự cho người đó; họ sẽ nghĩ về người đó, như mẹ nghĩ về con mình, và người nào được thần linh che chở, luôn được gặp điều may”.
Lúc đức Phật từ biệt, vị đại thần này đi theo tiễn chân và nghĩ rằng nơi Ngài từ biệt sẽ được đặt tên là “Cổng Gautama” (Gautama là tên bộ tộc của đức Phật) và nơi Ngài đi qua sông hằng gọi là “bến Gautama”. Đức Phật rời thành (theo kinh điển của Nhất thiết hữu bộ, Ngài đi ở cổng tây) và cổng này cũng được gọi tên như vậy. Nhiều kinh điển khác nhau ở chi tiết vượt sông, nhưng cùng thừa nhận đức Phật dùng thần thông đi qua sông như không hề có nó trước mặt. Ngài biến mất ở bờ bên này và xuất hiện ở bên bờ kia. Tuy nhiên, kinh điển của Nhất thiết hữu bộ nói đến nơi Ngài đi qua sông được gọi tên là “bến Gautama”, trong khi bản của thượng tọa bộ, là bản kinh xưa hơn, chỉ nói đến “Cổng Gautama”. Xem ra thượng tọa bộ chú trọng hơn ở điểm này và đề cập đến toàn bộ khung cảnh tượng trưng cho sự giác ngộ của đức Phật ở ‘mặt khác’ bằng công phu thiền định, giải thoát luân hồi, đạt đến bỉ ngạn tịch diệt (nirvāṇa). Một lần nữa ở đây chúng ta dường như thấy kinh điển được trau chuốt hơn cách mô tả đơn thuần. Đức Phật nói lại điểm này bằng thơ: “Mọi người đắp con đê, để đi qua hồ nước; hoặc phải nhờ vào chiếc bè, khi mùa mưa lũ đến. Người trí đâu nào cần, bờ kia chỉ một bước”. Nghĩa ở đây dường như rằng trong lúc mọi người chống chọi với dòng nước lũ sinh tử thì người trí rời tham dục phiền não và đạt đến cảnh giới tịch diệt thanh tịnh.
Sau đó đức Phật tiếp tục hành trình đi qua nước Bạt-kỳ. Trên đường đi qua nhiều nơi từ Ma-kiệt-đà đến Bạt-kỳ, Ngài đã tuyên thuyết nhiều giáo lý cho các tỷ-kheo: nhiều bản kinh cho thấy sự khác nhau ở nơi diễn ra buổi thuyết giảng, nhưng suốt tiến trình của kinh điển thì có cùng nơi và cùng bài thuyết giảng. Nội dung thuyết giảng bao gồm giáo lý bốn sự thật cao quý và một bài giảng có thể khái quát thành những chủ đề: giới luật đạo đức, thiền định nhờ vào kết quả và lợi ích lớn từ sự tu tập giới luật đạo đức; trí tuệ nhờ vào thành tựu và lợi ích lớn từ việc tu tập thiền định (điều này không có trong văn bản của Nhất thiết hữu bộ); tư duy bằng trí tuệ sẽ hoàn toàn giải thoát khỏi các lậu hoặc (Nhất thiết hữu bộ thay thế bằng thuật ngữ ‘tham, sân và si’; thượng tọa bộ thêm ‘nhận thức các lậu hoặc về tham dục, khát vọng để tồn tại, tri kiến vô minh’). Ở Nādakā, đức Phật bảo với Ānanda rằng, một người đệ tử của đức Phật phải ‘xác lập tín tâm bằng tư duy hiểu biết’ về Phật, Pháp và tăng.
Trên đường đến nước Bạt-kỳ, kinh đô của vương quốc Vệ-xá- li, ở đây đức Phật có nhiều đệ tử tại gia, trong đó có một kỹ nữ nổi tiếng là Āmrapāli. Lúc bấy giờ bà rất giàu có và ở tuổi đứng đắn, nổi tiếng từ thời vua Tần-bà-sa-la, nếu chúng ta tin vào câu chuyện của ngự y Jīvaka trong Luật tạng thì bà sống trước thời của ông (vì ông ta làm ngự y cho vua Tần-bà-sa-la, sau đó còn cho cả vua A-xà-thế. Theo truyền thống thượng tọa bộ, sau đó bà xuất gia trở thành một tỷ-kheo-ni của Phật giáo và có một bài thi kệ do bà sáng tác còn giữ lại trong Ba tạng giáo lý. Bà nghe đức thế tôn đến Vệ-xá-li và đang ở lại vườn xoài của mình, bà liền lên xe ngựa đến yết kiến Ngài. Như thường lệ đón tiếp những tín đồ tại gia, Ngài giảng dạy giáo lý, khuyến tấn, khuyên bảo bà, sau đó bà cung thỉnh đức Phật và tăng chúng tham dự lễ trai tăng vào ngày hôm sau.
Người Licchavi thuộc thành Vệ-xá-li (một trong những bộ tộc liên minh thành nước Cộng hòa Bạt-kỳ), đồng thời là bộ tộc quan trọng nhất trong công cuộc thành lập nước Vệ-xá-li cũng hay tin đức Phật đến và họ chia thành bốn phái đoàn (bốn bộ tộc?) xanh, vàng, đỏ và trắng (ngựa xe, quân phục, vũ khí, trang phục…, mỗi phái đoàn mỗi màu) điều khiển ngựa xe đến yết kiến Ngài. Khi họ xuất hiện từ đằng xa, đức Phật nói với tăng chúng rằng: Các con chưa từng thấy những thiên thần cõi trời ba mươi ba (những thiên thần trong Vệ-đà), nhìn hội chúng của người Licchavi thì các con có thể hình dung hội chúng của cõi trời ba mươi ba vậy! Sau khi đến, người Licchavi tiếp nhận sự chỉ giáo như thường lệ, nhưng đến phần cung thỉnh đức Phật tham dự lễ trai tăng thì họ đã không gặp được duyên vì bà Āmrapāli đã cung thỉnh trước. Họ nắm chặt tay: Ái dà, chúng ta chậm hơn bà vườn xoài! Ái dà, chúng ta thua bà vườn xoài!
Ngày hôm sau, bà Āmrapāli tự thân tiếp đón đức Phật và tăng chúng. Theo kinh điển thượng tọa bộ, bà đã cúng dường xoài cho tăng chúng, trong khi đó kinh điển của Nhất thiết hữu bộ thì ca ngợi việc cúng dường với những phần quà và thức ăn của bà cho tăng chúng. Sau đó đức Phật tiếp tục đi vào ngôi làng gần thành Vệ-xá-li. Ở đó Ngài dặn dò tăng chúng chuẩn bị cho việc an cư mùa mưa, yêu cầu tăng chúng chia làm nhiều nhóm hòa hợp ở trong những tịnh xá xung quanh thành Vệ-xá-li, còn Ngài ở ngôi làng này. Theo kinh điển của Nhất thiết hữu bộ, sự phân bố này nhằm mục đích thích ứng với sự đói kém đang diễn ra nghiêm trọng ở đây, nhưng truyền bản kinh điển của thượng tọa bộ thì không nói đến điều này, còn chú sớ của họ chỉ nhắc đến ngôi làng mà đức Phật đến ở không cung cấp đủ chỗ ở và thức ăn cho lượng lớn tăng chúng như thế.
Suốt thời gian an cư mùa mưa này, đức Phật bị bệnh nặng, những cơn đau trông thật nguy kịch. Ngài tiếp nhận đau đớn một cách bình tĩnh, Ngài nghĩ rằng trước lúc nhập diệt (diệt độ) mà không dặn dò chúng đệ tử, không từ biệt tăng chúng thì không hợp lý. Thế rồi Ngài chấn chỉnh bệnh tật bằng sức tinh tấn, do đó bệnh tật cũng giảm bớt. Sau khi những cơn đau thuyên giảm, Ngài ngồi ở ngoài tịnh thất. Tôn giả Ānanda mô tả sự lo buồn của bản thân rằng: thấy đức thế tôn có bệnh, thân thể của tôi bủn rủn như say, tôi như mất trí nhớ, tôi không thể nhớ giáo lý. Nhưng nếu trước khi diệt độ, đức Thế Tôn phải có một số dặn dò đối với Tăng-già thì nỗi buồn của tôi cũng giảm bớt. Đức Phật hiểu được tâm trạng này và dạy:
“Này Ānanda, tăng chúng mong những điều gì ở ta? ta đã tuyên thuyết hết giáo lý không còn giữ lại gì, không giấu giếm điều gì cả. Này Ānanda, đối với giáo pháp mà Như Lai (đức Phật) đã tuyên thuyết không có ‘điểm bí yếu của một bậc thầy’ (nghĩa là Ngài không giữ lại cho mình gì cả). Nếu ai nghĩ rằng Như Lai lãnh đạo Tăng chúng hoặc Tăng chúng phụ thuộc vào Như Lai, thì để vị ấy nói lời dặn dò với tăng chúng. Như Lai không nghĩ rằng Như Lai lãnh đạo Tăng chúng hoặc Tăng-già phụ thuộc vào Như Lai. Tại sao Như Lai phải dặn dò gì đó cho tăng chúng? Này Ānanda, Như Lai bây giờ đã già, luống tuổi, thời gian đã hết, giai đoạn cuối của đời người, 80 năm. Như một chiếc xe cũ nát được tháp cạp lại để đi, cũng vậy, thân thể của Như Lai nay được chắp vá lại để sống. Này Ānanda, Như Lai đã đến lúc, nhiếp tâm về một, rời hết thảy kinh nghiệm, nhập vào vô tận định và an trú trong đó, lúc này thân thể của Như Lai được an tường”.
“Này Ānanda, như vậy con hãy làm hòn đảo cho chính mình, chính mình là nơi nương tựa cho chính mình, không nương tựa vào gì khác; lấy giáo pháp làm hòn đảo, lấy giáo pháp làm nơi nương tựa, không nương tựa vào gì khác. Này Ānanda, làm một tỷ-kheo như thế nào được gọi là sống xem mình như một hòn đảo, nương tựa vào chính mình, không nương tựa vào gì khác, lấy giáo pháp làm hòn đảo, lấy giáo Pháp làm nơi nương tựa, không nương tựa vào gì khác? Này Ānanda, được như vậy, một vị tỷ-kheo sống với sắc thân này (hoặc tất cả sắc pháp), quán sát sắc thân, tinh cần, tỉnh giác, chính niệm, diệt tận tham muốn và sân hận đối với thế gian này; đối với thọ, quán sát thọ, tinh cần, tỉnh giác, chính niệm, diệt tận tham muốn và sân hận đối với thế gian này; đối với tâm, quán sát tâm, tinh cần, tỉnh giác, chính niệm, diệt tận tham muốn và sân hận đối với thế gian này; đối với các pháp, quán sát các pháp, tinh cần, tỉnh giác, chính niệm, diệt tận tham muốn và sân hận đối với thế gian này. Như vậy một tỷ-kheo sống với chính mình như một hòn đảo… không nương tựa vào gì khác. Này Ānanda, những ai sống như vậy, hoặc sống theo Như Lai, chính mình là hòn đảo, chính mình là nơi nương tựa cho chính mình, không nương tựa vào gì khác; lấy giáo pháp làm hòn đảo, lấy giáo pháp làm nơi nương tựa, không nương tựa vào gì khác; những vị nào thích tu tập như thế, là người cao thượng nhất trong tất cả các tỷ-kheo”.
“Vào buổi sáng, đức thế tôn (kinh văn tiếp tục) sau khi tẩy rửa xong, đắp y trì bát và vào thành Vệ-xá-li khất thực. Khất thực trở về, sau khi thọ trai xong, Ngài bảo với tôn giả Ānanda: ‘Này Ānanda, giúp ta soạn một chỗ (nghĩa là chuẩn bị cho đức Phật một chỗ ngồi), chúng ta sẽ đi đến nghỉ trưa ở miếu Cāpāla’. ‘Dạ vâng, thưa thế tôn’. Tôn giả Ānanda vâng mệnh đức thế tôn, mang tọa cụ và đi theo đức thế tôn. Thế rồi đức thế tôn đi đến miếu Cāpāla và ngồi lên chỗ đã chuẩn bị. Tôn giả Ānanda đứng lên vái chào đức thế tôn và ngồi xuống một bên. Đức thế tôn bảo Ānanda: ‘thành Vệ-xá-li rất xinh đẹp, này Ānanda… miếu Cāpāla rất thanh bình’. (Ngài có nói thêm một số nơi ở Vệ-xá-li và Bạt-kỳ cũng đẹp, hầu như tất cả, kể cả những miếu thờ và cây thiêng)”.
Trong khung cảnh này, kinh văn tiếp tục mô tả đức Phật giảng về Tứ thần túc (sẽ được thảo luận ở dưới) và ngụ ý rằng nếu Ngài vận dụng những thần thông này thì có thể sống lâu hơn, có thể kéo dài cả một tiểu kiếp. Tuy nhiên, Ānanda không hiểu ẩn ý này và để cơ hội qua đi (bởi vậy sau này tôn giả Ānanda bị Tăng-già khiển trách rất nặng), và lúc đó ma vương (cách gọi khác của Māra, một loại thần chết và dục lạc - được nhân cách hóa trong giáo lý Phật giáo) đến thỉnh Ngài nhập diệt, đức Phật chấp thuận, bởi vì Ngài đã hoàn thành công việc tuyên thuyết giáo pháp. Ngài bảo với ma vương rằng ba tháng nữa Ngài sẽ nhập diệt. Khi Ngài tuyên bố giải thoát khỏi đời sống này đã làm rung chuyển quả đất. Sự rung chuyển này được cho là điềm báo cho một sự việc cực kỳ trọng đại, ở đoạn này có vẻ là sự mô tả thêm thắt đơn thuần nhưng rõ ràng rất cổ xưa, bởi vì tất cả kinh điển của nhiều truyền thống khác nhau đều có ghi chép lại. Tín đồ Phật giáo ghi lại sự kiện nhập diệt của đức Phật không thể không đề cập đến điều báo trước này và muốn đấng đạo sư của họ giải thích về điều đó. Tôn giả Ānanda hỏi tại sao quả đất rung động và đức Phật bảo với tôn giả Ānanda những nguyên nhân dẫn đến quả đất rung động và liên quan đến lần rung động này. Ngài dạy rằng quả đất chẤn Động khi một ‘chúng sinh tương lai sẽ giác ngộ’ (bồ-tát) nhập vào thai mẹ và khi được sinh ra. Quả đất chẤn Động khi đức Như Lai thành đạo, khi Ngài bắt đầu vận chuyển bánh xe pháp, khi Ngài quyết định rời khỏi đời sống này, tức khi Ngài nhập vào sự tịch diệt tối hậu.
Lúc bấy giờ tôn giả Ānanda mới nhận ra mình có thể cung thỉnh đức Phật kéo dài sự sống đúng khi Ngài ngụ ý, và cung thỉnh Ngài ở lại thêm vì lợi ích của mọi người, nhưng điều đó quá muộn, sự quyết định đã được đưa ra. Sau đó, đức Phật giảng về vô thường vì Ngài không muốn chống lại quy luật tự nhiên. Có lẽ tình huống sự việc có thể sống lâu hơn, ma vương đến cung thỉnh và sai lầm của tôn giả Ānanda, cùng với sự thảo luận về điềm báo trước liên quan đến đời sống của đức Phật đều không có trong kinh văn nguyên thủy, nhưng được thêm vào từ rất sớm. Chúng ta hiện tại đã tiếp cận những truyền thuyết về đức Phật, hơn cả đời sống thật của Ngài, đây là giai đoạn đầu của câu chuyện sẽ phát triển thành một thiên huyền thoại, là nguồn cảm hứng cho nghệ thuật ở những thế kỷ tiếp theo.
Sau đó đức Phật bảo tôn giả Ānanda vân tập tăng chúng ở giảng đường (kinh điển Nhất thiết hữu bộ nói ở miếu Cāpāla, nhưng kinh điển thượng tọa bộ nói ở sảnh đường nổi tiếng của Cung điện Một Cột, trong một khu rừng lớn gần thành Vệ-xá-li. Cung điện Một Cột này có một phòng dành riêng cho đức Phật ở tầng trên, trên ‘cột’ có đỉnh vòm quá tầm tay với kiểu kiến trúc Ấn Độ cổ đại). Đức Phật ngồi trên tòa chuẩn bị sẵn và giảng thuyết cho chư Tăng.
“Này các tỷ-kheo, pháp mà ta đã chứng ngộ và tuyên thuyết, các con phải học cho thuần thục, tinh tấn thực hành, phát huy và tu tập làm cho lớn mạnh, vì lòng thương tưởng với đời, vì lợi ích và hạnh phúc của hết thảy mọi người, vì lòng từ bi với thế gian làm cho loài trời và loài người đạt được lợi ích, phúc lạc và hạnh phúc chân thật. Đó là những pháp gì…? Có thể tóm lược như sau: tứ niệm xứ, tứ chính cần,39 tứ như ý túc,40 Ngũ căn, Ngũ lực, thất giác chi, bát chính đạo”.
39. T6 và T7 rõ ràng ở đây được hiểu là pradhāṇa (tu trì), giống với kinh văn Pali; những phiên bản tiếng Trung Quốc được hiểu là prahāṇa (đoạn trừ).
40. TI (tr. 16 cột 3) và T6 có thêm vào 4 thiền định sau chỗ này.
Ở chương sau, chúng ta sẽ nói về những pháp tóm lược này trong phần giáo lý của đức Phật. Sau khi đưa ra sự tóm lược này, đức Phật từ biệt lần cuối thành Vệ-xá-li và tiếp tục hoằng dương chính pháp từ làng này sang làng khác. Ngài giảng đi giảng lại giới, Định, tuệ và giải thoát, nhưng khi đến thành bhoganagaraka, Ngài đã giảng giải một số giáo pháp hoàn toàn mới. Đó là Kinh và Luật quy chuẩn để xác nhận giáo pháp Ngài đã dạy. Giả sử một vị tỷ-kheo tuyên bố mình đã nghe những lời từ đấng đạo sư, hoặc từ tăng chúng, hoặc từ các vị tỷ-kheo trưởng lão, thì những lời đó phải dùng kinh điển để kiểm chứng và đối chiếu với Luật. Nếu phù hợp với Kinh hoặc Luật thì những điều đó có thể được chấp nhận vị ấy nhớ chính xác; nếu không phù hợp với những lời đức Phật dạy thì những điều đó phải bị loại bỏ.
Đức Phật đi đến điểm kế tiếp là thành Pāpā, thủ đô của nước cộng hòa nhỏ Nam Malla, nằm ở chân rặng himālaya, phía tây bắc nước Bạt-kỳ. Ở đây, Ngài được một vị cư sĩ đệ tử tại gia Cunda (Thuần-đà) làm nghề thợ rèn đón tiếp và cung thỉnh chư tăng tham dự trai tăng. Theo kinh điển của thượng tọa bộ mô tả đức Phật sau buổi trai tăng này cảm thấy bệnh tình càng thêm nặng, nhưng kinh điển của Nhất thiết hữu bộ thì không nói đến điều này. Ngay sau đó, đức Phật tiếp tục hành trình hướng về thành Câu-thi-na (Kuśinagarī), cách đó khoảng ba dặm. Đây là điểm cuối hành trình của Ngài. Thành Câu-thi-na là thủ đô của nước cộng hòa nhỏ bắc Malla. Hai nước Malla nhỏ này cách nhau một dòng sông. Trên đường đi đức Phật gặp Putkasa, một đại thần nước Malla, ông ta từng quy y với đạo sĩ Ārāda, cũng là vị thầy Sa-môn mà trước đây đức Phật theo học đạo. Putkasa rất khâm phục phong thái định tĩnh của đức Phật, tin rằng định lực này hơn hẳn đạo sĩ Ārāda và xin quy y với đức Phật. Ông ta cúng dường đức Phật hai bộ ca-sa có đính vàng và đức Phật đắp vào, thế là tôn giả Ānanda cảm thấy da của đức Phật sáng lên. Nhân đó đức Phật đã nghĩ về Cunda, có thể ông ta cảm thấy hối hận vì sau khi cúng dường thức ăn làm cho đức Phật càng nhanh nhập diệt. Thế rồi Ngài dạy tôn giả Ānanda đến bảo với Cunda không phải hối hận, vì sự cúng dường bữa ăn cuối cùng cho đức Phật trước lúc nhập Niết bàn cũng có công đức giống với sự cúng dường bữa ăn trước lúc Ngài thành đạo.
Sau khi qua sông hiraṇyavatī, đức Phật đi vào khu rừng upavartana gần thành Câu-thi-na (đây là một cánh rừng có nhiều cây śāla cao lớn hay còn gọi là cây Shorea robusta). Ở đây, tôn giả Ānanda chuẩn bị một chiếc giường giữa hai cây này, đầu hướng về phía bắc. Đức Phật nằm nghiêng về phía tay phải, chân trái xếp lên chân phải, chính niệm và tỉnh giác. Tăng chúng đứng quanh. Đức Đạo sư bảo với tôn giả Ānanda không nên quá đau buồn và giảng về vô thường: phàm làm người đã có sinh ra, do nhân duyên hòa hợp mà thành, thì phải có mất đi, không thể không hoại diệt; mọi thứ thân yêu và quý mến đều theo quy luật sinh, trụ, dị, diệt. Vào canh cuối đêm này, Như Lai sẽ nhập Niết bàn. Ngài dạy rằng sau khi nhập Niết bàn nên hỏa táng cơ thể của Ngài. Những vị vua khi băng hà được hỏa táng, tro cốt để vào chiếc bình và tôn trí ở trong tháp (stūpa): đức Phật cũng nên được làm như vậy. Đức Phật còn dạy tôn giả Ānanda rằng có bốn nơi thiêng liêng liên quan đến Ngài làm phát khởi tín tâm cho mọi người: đó là nơi Như Lai Đản sinh, thành đạo, chuyển bánh xe pháp và nhập Niết bàn (bản kinh này nói về lợi ích của người hành hương đến chiêm bái bốn thánh tích này, từ đó những nơi này được biết đến rộng rãi).
Tôn giả Ānanda được ủy thác đi thông báo cho những người Mallas ở thành Câu-thi-na đến viếng đức Phật trước khi Ngài nhập Niết bàn. Một du sĩ tên là Subhadra (Tu-bạt-đà-la) đang ở đây hay tin, ông ta nghĩ rằng có thể đức Phật giải trừ những nghi hoặc của mình, ông ta bèn đi đến khu rừng xin tôn giả Ānanda cho phép vào hỏi đức Phật. Ban đầu tôn giả Ānanda từ chối, nghĩ rằng lúc này không để bất kỳ ai đến đặt câu hỏi làm phiền đức Phật. Tuy nhiên, đức Phật nghe thấy lời qua tiếng lại và yêu cầu tôn giả Ānanda để cho Subhadra vào gặp Ngài. Sau khi đảnh lễ đức Phật, Subhadra giải thích rằng có nhiều nhà triết học hướng dẫn và dạy nhiều học trò và nhiều người nghĩ họ là tốt, ví dụ như Ājivaka, ajita, Sañjayin và những thủ lĩnh của Kỳ-na-giáo. Như vậy, chủ trương của những học thuyết mà họ đưa ra thật sự đúng hay không? Đức Phật bảo với ông ta không nên phí sức suy nghĩ về những điều như thế, chỉ cần quan sát trong những chủ trương các học thuyết và nguyên tắc của bất cứ trường phái nào, thấy có con đường bát chính đạo tối thượng thì họ là những vị Sa-môn chân chính, sẽ tìm thấy được nhiều cấp độ chứng đắc trên con đường đạt đến giải thoát; còn ở đâu không có con đường bát chính đạo thì ở đó không có Sa-môn chân chính. Trong giáo lý của đức Phật có tìm thấy con đường bát chính đạo, ở đó có những vị Sa-môn chân chính. Những chủ trương của các phái khác chỉ là sáo rỗng. Subhadra trở thành đệ tử cuối cùng của đức Phật ở những giây phút sắp nhập Niết bàn của Ngài. Kinh này tiếp tục mô tả như sau:
“Lúc bấy giờ đức thế tôn bảo với tôn giả Ānanda: Này Ānanda, có lẽ các con nghĩ rằng từ đây giáo pháp đã mất đi vị thầy giảng dạy, thầy của chúng ta không còn nữa. Các con không nên nghĩ như vậy. Sau khi diệt độ, giáo lý và giới luật mà thế tôn đã dạy và tuyên thuyết là thầy của các con”.
“Hiện nay các vị tỷ-kheo thường gọi nhau bằng “ngài”, từ nay không được gọi như vậy nữa. Tỷ-kheo tu trước nên gọi các tỷ- kheo tu sau bằng pháp danh hoặc tên họ, các tỷ-kheo tu sau gọi các tỷ-kheo tu trước là đại đức (bhadanta, một cách xưng hô lễ phép) hay tôn giả41”.
41. “āyasmant” (đại đức), thuật ngữ này được dùng trong hàng tại gia để tôn xưng người khác.
“Này Ānanda, sau khi thế tôn nhập diệt, nếu muốn, Tăng-già có thể bỏ bớt những học giới nhỏ”.
“Này Ānanda, tỷ-kheo Chanda (xa-nặc) phải chịu phạm phạt (brahmapunishment). - Bạch thế tôn, thế nào là phạm phạt? - Này Ānanda, Chanda thích nói gì thì nói, nhưng Tăng chúng không cần phải nói lại, không cần phải khuyến cáo, không cần phải giáo huấn”.
“Thế rồi đức thế tôn bảo với đại chúng tỷ-kheo: Này các tỷ- kheo, trong đây có vị nào có hoài nghi hay điều chưa rõ về Phật, Pháp, tăng, cách tu tập và thực hành thì có thể hỏi, chớ hối tiếc sau này, vì thầy của các con hiện còn mà các con không thể trực tiếp hỏi. Khi đức Phật nói như vậy xong, tăng chúng giữ im lặng. Đức thế tôn hỏi đại chúng lần thứ nhất và lần thứ hai…, tăng chúng vẫn không hỏi đức thế tôn ở giây phút đang còn. Hỏi lần thứ ba, tăng chúng vẫn im lặng. Sau đó, đức thế tôn nói với tăng chúng: Này các tỷ-kheo, các con không hỏi vì quá tôn kính đức Đạo sư. Như thế có thể nói cho người bên cạnh biết rồi truyền tai nhau. Khi Ngài nói như vậy, tăng chúng vẫn im lặng”.
“Lúc bấy giờ, tôn giả Ānanda thưa với đức thế tôn: bạch thế tôn, thật là hiếm có! bạch thế tôn, thật là vi diệu. Con tin chắc rằng tăng chúng ở đây không có vị nào hoài nghi hoặc có điều chưa rõ đối với Phật, Pháp, tăng, cách tu tập và thực hành. - Này Ānanda, như lời nói tin chắc của con, Như Lai thực sự biết rằng tăng chúng ở đây không có vị nào hoài nghi hoặc có điều chưa hiểu đối với Phật, Pháp, tăng, cách tu tập và thực hành. Này Ānanda, trong 500 vị tỷ-kheo ở đây, vị tỷ-kheo thấp nhất cũng nhập vào ‘dự lưu’, chứng pháp bất thoái, chắc chắn hướng đến giác ngộ hoàn toàn”.
“Thế rồi đức Đạo sư lại bảo với tăng chúng: Lành thay các vị tỷ-kheo, nay thế tôn nói với các con rằng tất cả các pháp duyên sinh đều có tính tan hoại. (Các con phải tinh tấn, chớ có phóng dật).”42
42. Không có trong văn bản của Nhất thiết hữu bộ (bản tiếng Phạn). Bản tiếng Trung Quốc có khác nhau, T1 có đoạn nói rõ sự khuyến khích một cách tinh cần.
“Đây là lời cuối cùng của Như Lai. Thế rồi đấng Đạo sư nhập Sơ thiền; ra khỏi Sơ thiền nhập Nhị thiền; ra khỏi Nhị thiền nhập vào tam thiền; ra khỏi tam thiền nhập vào tứ thiền; ra khỏi đây nhập vào Không vô biên xứ; ra khỏi Không vô biên xứ nhập vào Thức vô biên xứ; ra khỏi Thức vô biên xứ nhập vào Vô sở hữu xứ; ra khỏi Vô sở hữu xứ nhập vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ; ra khỏi đây, Ngài chứng nhập diệt tận hết thảy tưởng và thọ xứ”43.
43. Giải thích dựa vào S IV va A IV 409, tham khảo AK Bhāṣya, tr. 72.
“Thế rồi tôn giả Ānanda hỏi tôn giả aniruddha: Này tôn giả aniruddha, đức thế tôn đã diệt độ rồi à?” - Ānanda, đức thế tôn chưa diệt độ, Ngài đã nhập vào Diệt thọ tưởng định. Lúc bấy giờ, đức thế tôn ra khỏi Diệt thọ tưởng định nhập vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ… (tiếp tục chứng nhập vào các cảnh giới thiền định theo thứ tự quay về Sơ thiền…). Ra khỏi Sơ thiền Ngài nhập vào Nhị thiền; ra khỏi Nhị thiền nhập vào Tam thiền; ra khỏi Tam thiền nhập vào Tứ thiền; ra khỏi Tứ thiền liền nhập diệt”.