Dựa vào những sự kiện cuối cùng về cuộc đời đức Phật trong kinh Đại bát niết bàn (Mahāparinirvāṇa Sūtra), chúng ta nhận thấy rằng lúc ở Vệ-xá-li đi về Câu-thi-na, Ngài vân tập tăng chúng và tuyên bố tóm lược giáo lý mà Ngài đã một đời tuyên thuyết. Đây là sự tuyên thuyết theo mong muốn của tôn giả Ānanda, vì tôn giả Ānanda lo lắng đức Phật trước khi nhập diệt không ‘có lời dặn dò đối với tăng chúng’. Đức Phật đã giải thích rằng Phật pháp là ‘nơi nương tựa’ cho Tăng-già, và sau đó Ngài dạy Phật pháp là thầy của Tăng-già sau khi Ngài đã nhập diệt. Ngoài ra không có ‘dặn dò’ thêm gì cả.
Sự tóm lược giáo lý ở Vệ-xá-li trong tất cả các bộ phái Phật giáo dường như giống nhau. Ngoại trừ vị trí quan trọng của các bản kinh Đại bát Niết bàn, chúng ta nhận thấy có nhiều kinh điển khác nhau giữa các bộ phái đưa ra danh mục bảy chủ đề tương tự, từ giáo lý tứ niệm xứ cho đến bát chính đạo. Những trường phái Đại thừa cũng không nằm ngoài điều đó; chẳng hạn như lập luận của trường phái trung Quán đã hệ thống hóa bảy chủ đề này trong Hiện quán trang nghiêm luận (Abhisamayālaṅkāra) đối với kinh Đại Bát Nhã về con đường và phương pháp tu tập, được gọi ở đây (và nhiều kinh điển khác) là ba mươi bảy phẩm trợ đạo, tức là bộ phận tinh túy trong hết thảy diệu pháp vô thượng của đức Phật, cũng là đặc tính giác ngộ của đức Phật, của hàng bồ tát và hàng thanh văn.1 Lập luận của Duy thức tông (Vijñānavāda) cũng nói rõ những chủ đề này ở hầu hết kinh luận căn bản của họ trong tác phẩm Biện trung biên luận (Madhyāntavibhaṅga), phần lớn Chương 4 tập trung ở những vấn đề này.
1. Abhisamayālaṅkāra (Hiện quán trang nghiêm luận), phẩm 31. Xem tr. 578 ở dưới).
Những chủ đề này đã tập thành giáo lý căn bản của Phật giáo mà đức Phật tuyên thuyết ở buổi đầu, dường như được xác nhận làm chứng cứ lịch sử của bộ phận thứ ba trong Ba tạng giáo lý, tức Mātṛka hay Abhidharma (Luận). Như chúng ta đã đề cập ở phần giới thiệu, nói về Mātṛka, ban đầu hầu như được hình thành từ bảy chủ đề này. Rất có khả năng là do sự tóm lược giáo lý của đức Phật ở Vệ-xá-li đã tạo nên ý tưởng cho sự phát triển của Mātṛka (Luận mẫu) và không ngừng gia công trau chuốt trở thành Abhidharma (A-tỳ-đạt-ma).
Chúng ta không thể quên mô tả sự giác ngộ và lời dạy của đức Phật về giáo lý bốn sự thật cao quý ở thời kỳ đầu thật sự là một điểm đặc thù và rõ ràng là luận điểm xuất hiện với tần suất cao trong giáo pháp của đức Phật. Thật sự những kinh văn bình giảng về bảy chủ đề này trở thành nền tảng của giáo lý, tất nhiên thảo luận về những chủ đề này cũng sẽ dẫn đến bốn sự thật cao quý. Đức Phật thường giảng về thuyết Duyên khởi, đồng thời là một phần của sự giác ngộ, đây cũng chính là sự mở rộng của Sự thật thứ hai. Giáo lý Vô thường đã được đức Phật nhấn mạnh trong giáo lý thời đầu cũng như về sau là một phần của thuyết Duyên khởi. Tránh rơi vào hai cực đoan, cho dù các trường phái Phật giáo diễn giải theo nhiều cách khác nhau, nhưng đây vẫn là toàn bộ nội dung trong bài thuyết pháp đầu tiên được đức Phật tuyên thuyết cho năm vị tỷ-kheo. Phương pháp trung đạo tránh xa hai cực đoan này không gì khác ngoài bát chính đạo, tức chủ đề thứ bảy.
Do đó, những học thuyết trọng tâm này trong hệ thống giáo lý của đức Phật được kết tập thành Ba tạng giáo lý và được các tông phái Phật giáo truyền thừa như một di sản tạo thành một chuỗi chặt chẽ, rồi được chú giải và thảo luận liên quan các mặt của bảy chủ đề này mà đức Phật đã tuyên thuyết ở Vệ-xá-li. Chúng ta tạm thời chưa thảo luận về những gì các trường phái sau này lý giải và vận dụng bảy chủ đề này.
Sự tóm lược giáo lý ở Vệ-xá-li là một mục lục thuần túy. Để hiểu tường tận những giáo thuyết này cần phải tham khảo các kinh điển khác, tuy nhiên phải luôn chú ý để thấy rằng những chú giải mà chúng ta quan sát là quan điểm chung của toàn bộ Phật giáo, chứ không phải là diễn giải của một bộ phái đơn độc. Một số chủ đề được mô tả chi tiết hơn ngoài kinh Đại bát Niết bàn; còn đối với một số chủ đề khác muốn có sự thảo luận đầy đủ hơn, chúng ta phải tham khảo những kinh điển khác trong Kinh tạng của Ba tạng giáo lý. Đối với giáo lý tứ niệm xứ, chúng ta đã tiếp xúc trong phần đã trích dẫn của kinh Đại bát Niết bàn; giáo lý tứ như ý túc đã được đề cập cách đây không lâu ở đền Cāpāla; giáo lý thất giác chi có trình bày trong danh mục của một trong những nhóm của bảy pháp mà đức Phật tuyên thuyết trong bài pháp cho những vị tỷ-kheo tại thành Vương xá sau khi nói về người dân xứ Bạt-kỳ ở đoạn mở đầu của kinh Đại bát Niết bàn; giáo lý bát chính đạo có đề cập nhiều lần ở trong kinh này (là một trong bốn sự thật cao quý và cũng được thuyết giảng cho du sĩ Subhadra) nhưng không được nói chi tiết. Trong Kinh tạng của Ba tạng giáo lý có một kinh khá dài nói về giáo lý tứ niệm xứ, mô tả tường tận vấn đề này và cũng nói về những đề mục khác liên quan đến giáo lý này (như bát chính đạo, thất giác chi và bốn sự thật cao quý); đồng thời còn có một bộ sưu tập của những kinh ngắn cùng với chủ đề này.2 Tương tự còn có bộ sưu tập những kinh ngắn tóm lược về các chủ đề khác.3 Bây giờ chúng ta lần lượt nghiên cứu về bảy chủ đề này để thấy biểu hiện của những giáo lý này như thế nào qua sự mô tả trong Ba tạng giáo lý.
2. Thượng tọa bộ, D No. 22 tương đương với M No. 10 = Madhyama (trung a-hàm) tiếng Trung Quốc T 26 No. 98. S V 141 trở xuống = Saṃyukta (tạp A-hàm) tiếng Trung Quốc (T 99) quyển 24.
3. S V 1 trở xuống = T 99 quyển 28, 27, 26, không có sưu tập trong những kinh khác, chỉ có rải rác trong quyển 31... (xem ở trên).