Tứ niệm xứ kinh (Smṛtyupasthāna sūtra) bắt đầu như sau:4 “Như vậy tôi nghe, lúc bấy giờ đức thế tôn ở nước Kuru. Trong nước Kuru có một thành phố tên là Kalmāṣadamya. Đức thế tôn bảo với các tỷ-kheo: ‘Này các vị tỷ-kheo!’ - Các tỷ-kheo trả lời: ‘thưa vâng, bạch thế tôn!’ Đức thế tôn dạy: ‘Này các tỷ-kheo, con đường này là con đường duy nhất làm cho các chúng sinh thanh tịnh, vượt thoát phiền não và khổ đau, tiêu trừ lo buồn và áp lực, đạt đến chính giác, tiến nhập tịch tịnh, đó gọi là bốn niệm (upasthāna)5 trú (smṛti).6 Bốn điều đó là gì? Này các tỷ-kheo, một vị tỷ-kheo sống thể nghiệm với thân thể (hoặc ‘vật chất’, kāya) để quán sát thân thể, nhiệt tâm tinh cần (ātāpin), tỉnh giác (saṃprajāna), chính niệm (smṛtimant), diệt trừ tham dục (abhidhyā) và sân hận (daurmanasya) ở đời; thể nghiệm với cảm thọ để quán sát cảm thọ (vedanā), nhiệt tâm tinh cần, tỉnh giác, chính niệm, diệt trừ tham dục và sân hận ở đời; lấy tâm quán sát tâm (citta), nhiệt tâm tinh cần, tỉnh giác, chính niệm, diệt trừ tham dục và sân hận ở đời; thể nghiệm các pháp để quán sát các pháp (dharma), nhiệt tâm tinh cần, tỉnh giác, chính niệm, diệt trừ tham dục và sân hận ở đời”.
4. Theo kinh văn của Nhất thiết hữu bộ, M No. 10 = D No. 22 (ngoại trừ những phiên bản D có thêm phần bốn sự thật cao quý và bát chính đạo).
5. Đôi khi được viết hoặc được dịch như thuật ngữ prasthāna, nhưng nghĩa thì không khác. Tham khảo trang kế tiếp ở chú thích 3.
6. Những kinh văn thêm vào trong bản tiếng Trung Quốc: Để tiêu trừ ‘các chướng ngại’, hành giả phải tu tập những điều này và những mặt hỗ trợ giác ngộ (thất giác chi).
“Này các tỷ-kheo, thế nào là một vị tỷ-kheo sống lấy thân quán sát thân? (Này các tỷ- kheo, đối với điều này, một vị tỷ-kheo đi vào rừng hoặc ở dưới một gốc cây hoặc ở một ngôi nhà vắng. Vị ấy ngồi kiết-già, giữ thân thẳng và giữ chính niệm7 trước mặt).8 Vị ấy thở vào, chính niệm tỉnh giác. Vị ấy thở ra, chính niệm tỉnh giác. Thở vào dài vị ấy biết rằng vị ấy thở vào dài, hoặc thở ra dài vị ấy biết rằng vị ấy thở ra dài. Thở vào ngắn vị ấy biết rằng vị ấy thở vào ngắn, hoặc thở ra ngắn vị ấy biết rằng vị ấy thở ra ngắn. Vị ấy luyện tập bằng cách nghĩ rằng ‘tôi thở vào cảm nhận toàn thân tôi’. Vị ấy luyện tập bằng cách nghĩ rằng ‘tôi thở ra cảm nhận toàn thân tôi’. Vị ấy luyện tập bằng cách nghĩ rằng ‘tôi thở vào làm an tịnh những xung động của thân tôi’. Vị ấy luyện tập bằng cách nghĩ rằng ‘Tôi thở ra làm an tịnh những xung động của thân tôi’”.
7. upa-sthā (thiết lập, thiết trí, an lập) xuất phát từ thuật ngữ upasthāna.
8. Những phần trong ngoặc không có trong bản tiếng Trung Quốc.
(“Này các tỷ-kheo, giống như thợ tiện khéo léo hoặc người học nghề tiện biết rằng mình khi tiện dài biết tiện dài, hoặc biết rằng khi mình tiện ngắn biết tiện ngắn; vị tỷ-kheo cũng như vậy, biết thở ra dài… vị ấy luyện tập…). Như thế, vị ấy sống thể nghiệm quán sát thân bên trong thân (tức chính thân thể của vị ấy), hoặc vị ấy sống thể nghiệm quán sát bên ngoài thân (tức vật chất), (hoặc vị ấy sống thể nghiệm quán sát thân cả bên trong thân và bên ngoài thân); hoặc vị ấy sống thể nghiệm quán sát tính duyên khởi đối với thân, hoặc quán sát tính hoại diệt đối với thân, hoặc vị ấy quán sát cả tính duyên khởi và tính hoại diệt đối với thân.) Hoặc vị ấy chính niệm được mặc định9 trong tư duy rằng ‘thân là như thế’ (cho đến khi đầy đủ chính trí, đầy đủ giác trí.10 Vị ấy sống không còn chấp trước và không tham chấp đối với mọi thứ trên thế gian này). Này các tỷ-kheo, một vị tỷ-kheo sống thể nghiệm trên thân để quán sát thân”.
9. pratyupasthita.
10. -mātra, ‘đo lường’. Phần trong ngoặc không có trong bản tiếng Trung Quốc.
Kinh này tiếp tục miêu tả rằng một vị tỷ-kheo cần phải luyện tập với cách như vậy khi vị ấy đang đi, đang đứng, đang ngồi hay đang nằm. Trong mỗi tư thế biểu hiện trên thân thể của vị ấy, vị ấy biết nó như thế. Cũng vậy, cho dù vị ấy đang đi ra hay trở về, đang nhìn, đang cầm nắm vật gì, đang co hay duỗi, đang ăn, đang nhai, đang nếm, đang ngủ, đang đi, đang nói hay đang biểu hiện bất cứ động tác nào của thân thể, vị ấy cần phải quán sát những yếu tố và vật chất hữu cơ tạo thành cơ thể này và quán sát sau khi chết nó xảy ra như thế nào, sự phân hủy dần dần của nó và còn lại những chiếc xương rã rời. Với cách như vậy, vị ấy tư duy trong đầu sự ‘hoại diệt’ của cơ thể và tu tập tâm không chấp trước vào nó.
Đây là niệm xứ thứ nhất: Quán niệm thân. Niệm xứ thứ hai liên quan đến cảm thọ. Kinh này tiếp tục mô tả: “Này các tỷ-kheo, liên quan đến điều này, một vị tỷ-kheo thể nghiệm cảm thọ vui biết rằng vị ấy đang cảm thọ vui; cảm thọ buồn biết rằng vị ấy đang cảm thọ buồn; cảm thọ không vui không buồn biết rằng vị ấy đang cảm thọ không vui không buồn. Hoặc cảm thọ vui thuộc thân thể… hoặc cảm thọ vui không thuộc thân thể…”. Kinh văn tiếp tục mô tả cảm thọ buồn thuộc thân thể và những khả năng cảm thọ liên hợp khác. Phần này tổng kết lại từng đoạn giống với niệm xứ thứ nhất: “Như vậy, một vị tỷ-kheo sống thể nghiệm quán sát cảm thọ liên quan đến cảm thọ bên trong…, cảm thọ bên ngoài… (và cả hai. Hoặc vị ấy sống thể nghiệm quán sát tính duyên khởi của cảm thọ, hoặc quán sát tính hoại diệt của cảm thọ, hoặc quán sát tính sinh khởi và hoại diệt của cảm thọ). Hoặc chính niệm được mặc định trong tư duy rằng ‘cảm thọ là như thế’ (cho đến khi đầy đủ chính trí, đầy đủ giác trí.11 Vị ấy sống không còn chấp trước và không tham chấp đối với mọi thứ trên thế gian này)”.
11. pratismṛti, thực tế tương tự smṛti.
Niệm xứ thứ ba liên quan đến tâm, kinh văn bắt đầu mô tả: “Đối với điều này, một vị tỷ-kheo khi tâm tham biết tâm tham muốn”. Kinh văn tiếp tục nói về tâm không tham muốn, tâm sân hận và không sân hận, tâm si mê và tâm không si mê, tâm hạn hẹp và lắng dịu, tâm cao thượng (cao quý) hay không cao thượng, tâm siêu việt và không siêu việt, tâm chuyên chú và không chuyên chú, tâm giải thoát và không giải thoát. Kinh văn kết luận giống ở trước, dẫn đến thanh tịnh không còn chấp trước.
Niệm xứ thứ tư, kinh văn bắt đầu: “Này các tỷ-kheo, một vị tỷ-kheo như thế nào gọi là sống thể nghiệm dùng các pháp quán sát các pháp? Này các tỷ-kheo, đối với điều này, một vị tỷ kheo sống thể nghiệm đối với các pháp, quán sát các pháp liên hệ với năm triền cái (nivaṛaṇa). Làm thế nào…? Này các tỷ-kheo, đối với điều này, khi một vị tỷ-kheo trong tâm sinh khởi ý hướng tham dục (kāmac-chanda), liền biết trong tâm có ý hướng tham dục; hoặc khi trong tâm không sinh khởi ý hướng tham dục, liền biết trong tâm không có ý hướng tham dục. Và vị ấy cũng biết ý hướng tham dục đã sinh khởi bị diệt trừ như thế nào, và ý hướng tham dục bị diệt trừ sẽ không còn sinh khởi trong tương lai như thế nào”. Kinh văn dùng cách mô tả tương tự khi nói về bốn triền cái còn lại (để giải thoát khỏi mọi chấp trước của tâm với thế gian này), đó là sân (vyāpāda), si (styāmiddha), mạn (auddhatyakaukṛtya, trong sớ giải định nghĩa là sự tỏ ra kiêu ngạo, cho rằng ý kiến của mình hơn hẳn người khác), và nghi (vicikitsa). Phần này thường để tu tập không chấp trước.
Phần thứ nhất này chắc chắn là sự tu tập quan trọng và căn bản nhất trong việc quán chiếu các pháp, nhưng kinh điển thượng tọa bộ còn tiếp tục mô tả thêm nhiều ‘nhóm các pháp’.12
12. Bản tiếng Pali và bản tiếng Trung Quốc đều lập lại các mặt hỗ trợ sự giác ngộ. Như vậy kinh văn nguyên thủy đơn thuần dùng những thiện pháp này để khắc phục chướng ngại, xem thêm tr. 147).
Đầu tiên chúng ta có ngũ thủ uẩn (upādānaskandhas): Một vị tỷ- kheo quán sát sắc (rūpa), thọ (vedanā), tưởng (saṃjnā), hành (saṃskāra), thức (vijñāna), sự sinh khởi và biến diệt của chúng. (Chúng ta thấy ở nhiều chỗ khác về năm nhóm này, vốn được hiểu là hết thảy các hiện tượng diễn ra trong vũ trụ - ngoại trừ sự tịch diệt hay Niết-bàn, nên một người tu tập cần chứng nhập được điều đó - vì vậy tất cả những kinh nghiệm đều thuộc thế gian; chính điều đó là khả năng tạo thành nền tảng của mọi chấp trước vào thế gian).
Cũng vậy, một vị tỷ-kheo có thể quán sát các pháp liên hệ với cặp lục nhập (āyatana) hay nội xứ và ngoại xứ: Mắt và sắc trần hay những đối tượng nhìn thấy; tai và thanh trần; mũi và hương trần; lưỡi và vị trần; thân và xúc trần; ý và pháp trần (đối tượng của tâm). Trong trường hợp này, một vị tỷ-kheo phải hiểu ‘sự liên hệ’ (hay ‘sự kết hợp’, saṃyojana) qua lại phụ thuộc lẫn nhau của mỗi cặp; sự kết hợp mà nó đã không sinh khởi như thế nào (trước khi) diễn ra, sự kết hợp đã sinh khởi rồi bị đoạn trừ như thế nào; và sự kết hợp bị đoạn trừ không còn sinh khởi trong tương lai như thế nào. Kinh văn tiếp tục nói về kết quả dẫn đến không còn chấp trước. ‘Sự kết hợp’ của căn và cảnh ở trong ngữ cảnh này được hiểu là sự vướng mắc của các giác quan vào những đối tượng của chúng, làm sinh khởi các pháp tâm sở, cản trở sự tiến bộ của việc tu tập chính đạo.
Lại nữa, một vị tỷ-kheo có thể quán sát các pháp liên hệ với thất giác chi hay thất bồ-đề phần. Những giáo lý này vốn là một chủ đề độc lập, sẽ được khảo sát ở dưới, nhưng điểm quan trọng nhất là nhìn những giáo lý này phối trí như thế nào đối với việc tu tập của một vị tỷ-kheo theo như kinh Tứ niệm xứ đã mô tả. Đã đạt đến một cấp độ chính niệm và không chấp trước, người tu tập hiện tại càng tinh tấn hơn để hướng đến giác ngộ. Chi phần giác ngộ thứ nhất là bản thân của Tứ niệm xứ, nếu đã thành thục thì đây là điểm chuyển tiếp, một vị tỷ-kheo phải cẩn thận gìn giữ chớ để mất trước khi tiếp tục chuyển sang chi phần giác ngộ khác. Ở đây, trước hết một vị tỷ-kheo phải biết mình đã có niệm giác chi bên trong hay chưa, nếu chưa thuần thục thì phải luyện tập cho thuần thục, và khi đã thuần thục thì làm cho viên mãn (paripūri, cũng còn viết là pāripūri) đối với việc tu tập (bhāvanā). Sau khi chuyển sang những chi phần giác ngộ khác, kinh này vẫn như thường lệ nói về sự đạt đến cảnh giới thanh tịnh không chấp trước.
Cuối cùng,13 một vị tỷ-kheo phải quán sát các pháp liên hệ với bốn sự thật cao quý: “Này các tỷ-kheo, đối với điều này, một vị tỷ-kheo hiểu được thật tính của nó (yathābhūtam), ‘đây là khổ’; vị ấy thấy được thật tính của nó, ‘đây là nguyên nhân của khổ’; vị ấy thấy được thật tính của nó, ‘đây là sự diệt khổ’; và vị ấy thấy được thật tính của nó, ‘đây là con đường dẫn đến sự diệt khổ’”. Kinh văn cũng kết luận như trên.
13. Không có trong bản tiếng Trung Quốc, cũng không có trong M.
Như vậy kinh văn đã đưa ra các chi phần và nội dung của giác ngộ. Đoạn cuối nói rõ người tu tập Tứ niệm xứ sẽ đạt đến trí tuệ (ajñā) ở kiếp sống này (tức trở thành một A-la-hán, bậc giác ngộ giải thoát - sớ giải) hoặc bậc a-na-hàm, không còn sinh trở lại ở thế gian (anāgāmitā) mặc dù đang còn ở kiếp này. Thậm chí tu tập pháp môn này chỉ trong vòng một tuần lễ cũng có thể chứng đắc quả vị như thế. Pháp mà đức Thế Tôn nói từ đầu chí cuối là con đường này, con đường duy nhất giúp chúng sinh trở nên thanh tịnh, giải thoát khổ đau và ưu phiền, diệt trừ khổ não và phiền muộn, đạt đến chính đạo, nhập Niết-bàn, đó là Tứ niệm xứ.
Bộ sưu tập các kinh ngắn có cùng chủ đề trong Tạp A-hàm nói thêm một số ý nghĩa chi tiết hơn đối với sự mô tả này. Năm chướng ngại của triền cái tiêu biểu cho sự xấu xa (akuśala), còn Tứ niệm xứ tiêu biểu cho sự tốt đẹp (kuśala). Ở đâu một vị tỷ- kheo lấy Tứ niệm xứ làm nơi nương tựa hoặc làm hạng mục tu tập cho mình thì ở đó vị ấy sẽ an toàn khỏi thần chết. Cần phải tu tập pháp môn Tứ niệm xứ, vì sự an toàn cho chính mình và cho người khác, để bảo hộ cho người khác cũng là bảo hộ cho chính mình, và bảo hộ cho chính mình cũng là bảo hộ cho người khác.