Trong khi tu tập pháp môn Tứ niệm xứ, có nói nhiều vấn đề liên quan đến sự hiện khởi của pháp chưa sinh khởi trước đó, sự trừ bỏ các pháp đã sinh, pháp đã trừ bỏ không còn sinh khởi trong tương lai (tức một sự chướng ngại, một bất thiện pháp), và tu tập làm cho viên mãn pháp đã sinh khởi (tức một giác chi, một thiện pháp). Tất cả những nội dung chủ yếu của sự tu tập đó, chính là bốn ‘chính’ (samyak) ‘cần’ (pradhāna). Những điều này được cô đọng thành một công thức có nói nhiều trong Ba tạng giáo lý.14 Kinh viết:
14. Thượng tọa bộ, ví dụ ở M III 251 trở xuống, S V 244, D II 312 trở xuống; những bản tiếng Trung Quốc T 26 No. 31 và T 99 quyển 31, No. 19; Nhất thiết hữu bộ ở kinh Mahāparinirvāṇa (Đại bát-niết-bàn kinh), MPS (Waldschmidt), tr. 174.
“Đối với vấn đề này, một vị tỷ-kheo phát nguyện (janchandas), tu tập (viāyam) quán chiếu (ā-rabh), tinh tấn chuyên cần (viṛya), gìn giữ (pra-grah) tâm chuyên cần (pra-dhā), làm cho không sinh khởi (anutpāda) các pháp xấu ác (pā-paka) và bất thiện (akuśala) chưa sinh khởi. (Thứ hai) Vị ấy phát nguyện, tu tập quán chiếu, tinh tấn chuyên cần, gìn giữ tâm này, để tiêu trừ (prahāṇa) các pháp xấu ác, pháp bất thiện mà chúng đã sinh khởi. (Thứ ba) Vị ấy phát nguyện, tu tập quán chiếu, tinh tấn chuyên cần, gìn giữ tâm này, làm sinh khởi (utpāda) tất cả các thiện pháp (kuśala) chưa sinh khởi. (Thứ tư) Vị ấy phát nguyện, tu tập quán chiếu, tinh tấn chuyên cần, gìn giữ tâm này, làm cho tất cả các thiện pháp đã sinh khởi luôn tồn tại (sthiti), không quên không mất (asaṃpramoṣa), tăng trưởng lớn mạnh (bhūyobhā-vatā), rộng khắp (vaipulya), sáng tỏ (bhāvanā - kinh điển Nhất thiết hữu bộ không có), viên mãn (paripāraṇa)”.