Trong lời nói chuyện với tôn giả Ānanda tại miếu Cāpāla (tr. 121 ở trên), đức Phật có đưa ra giả định nếu sử dụng thần lực (saṃskāra), Ngài có thể sống lâu hơn. Thần lực này chính là “bốn như ý” hoặc “Tứ thần túc” (ṛddhipāda). Trong Ba tạng giáo lý có nhiều chỗ trình bày sự thi triển thần thông ở một hình thức ngắn gọn.15 Kinh văn diễn tả như sau: “Một vị tỷ-kheo tu tập thần túc sẽ chứng được ý chí tập trung với sức mạnh chuyên chú, dục như ý túc (chandas). Vị ấy tu tập thần túc sẽ chứng được tâm tập trung với sức mạnh chuyên chú, tâm như ý túc (citta). Vị ấy tu tập thần túc sẽ chứng được tinh cần với sức mạnh chuyên chú, cần như ý túc (viṛya). Vị ấy tu tập thần túc sẽ chứng được quán sát tập trung với sức mạnh chuyên chú, quán như ý túc (mīmāṃsā). Ngoài ra kinh điển rất ít nói về những điều này, nhưng tứ thần túc thường xuất hiện trong ngữ cảnh cùng với tứ chính cần và ít nhất Thượng tọa bộ giải thích rằng động cơ thể hiện thần thông của một vị tỷ-kheo chỉ để giáo hóa mà thôi.16 Nên chú ý rằng có ba mặt khác nhau trong tứ thần túc, tức ý chí, tâm và tinh cần, đã được đề cập trong công thức của tứ chính cần. Tuy nhiên, có lẽ điểm cần nhấn mạnh trong tứ thần túc là chúng liên quan đến thiền định (samādhi).
15. Bản của thượng tọa bộ: D III 221 trở xuống; trong bản tiếng Trung Quốc ở kinh Saṃgīti (Kết tập kinh) (T 1 No. 9); bản tiếng Phạn của Nhất thiết hữu bộ, tr. 94.
16. Ví dụ như xem S V. 268 trở xuống.