Con số có thể thấy về ‘căn’ (indriya) được bình luận rất nhiều chỗ trong Ba tạng giáo lý, nhưng chúng ta đang khảo sát Ngũ căn được cô đọng trong giáo lý tóm tắt mà các truyền thống Phật giáo đều như nhau, đó là tín (śraddhā), tấn (vīrya), niệm (smṛti), định (samādhi) và tuệ (prajñā).17 Những kinh ngắn được kết tập có cùng chủ đề này trong Tạp A-hàm đưa ra giải thích như sau: tín có nghĩa rằng một Phật tử phải tin chắc vào sự giác ngộ của Như Lai. Tấn là sự cố gắng đúng đắn để trừ bỏ các bất thiện pháp và thực hiện các thiện pháp. Niệm bao gồm tất cả những sự ghi nhớ về điều thiện đã làm hoặc những việc tu tập về Tứ niệm xứ đã nói ở trên. Định là giữ tâm không cho tán loạn, tập trung chuyên chú và chứng nhập bốn cảnh giới thiền định. Tuệ là hiểu biết về sự sinh khởi và hoại diệt của các pháp và bốn sự thật cao quý.
17. Văn bản của thượng tọa bộ S V 193 trở xuống = kinh Saṃyukta (Tạp A-hàm) T 99 quyển 26 (bắt đầu từ kinh số 2). Bản tiếng Phạn tr. 153 của kinh Saṃgīti).
Hơn nữa, tín còn liên quan đến ‘quả dự lưu’, nghĩa là phát khởi tín tâm đối với giáo lý và bắt đầu bước lên trên con đường đạo. Một chỗ khác trong kinh điển nói về bốn niềm tin, đó là tin Phật, Pháp, Tăng và Giới (do vậy, một Phật tử phải có niềm tin bất hoại đối với bốn phạm trù ở trên).18 ‘Cần’ được xem như tứ chính cần. ‘Tuệ’ là nền tảng hiểu biết, nếu bốn căn khác không có sự dẫn dắt của tuệ căn thì không thể bền bỉ được.
18. Xem tr. 188 (chú thích) và tr. 284 ở dưới.
Tu tập thành tựu viên mãn Ngũ căn là hành giả trở thành A-la-hán, thoát ly hết thảy phiền não trói buộc. Thành tựu ở cấp độ nhỏ hơn thì hành giả chứng nhập đến giai đoạn giữa của con đường đạo.
Ba chủ đề được thảo luận ở trên, tức Niệm xứ, Chính cần và thần túc, dường như tạo thành một chỉnh thể trật tự, tức một hệ thống tu tập thực hành và là hai nhân tố tất yếu hỗ trợ dẫn đến giác ngộ. Tuy nhiên, Ngũ căn vẫn chưa rõ để tiếp tục từ điểm này. Từng chi phần của Ngũ căn chồng chéo lên những chủ đề ở trước và mỗi chi phần dẫn đến mỗi lý tưởng mới mà chúng ta tự nhiên sẽ phải tìm kiếm mối quan hệ đối với hệ thống này. Trên thực tế, rõ ràng sự sắp xếp trước sau của bảy chủ đề này dựa vào thứ tự pháp số của từng đề mục khác nhau: bốn, năm, bảy, tám. Chủ đề hiện tại được sắp xếp ở vị trí này, bởi vì nó có năm mục. Chỉ ba chủ đề có bốn mục, do đó sự sắp xếp này là một quy trình tự nhiên.
Lướt qua những dẫn chứng trong kinh điển ở trên, nếu chúng ta quan sát toàn bộ giáo lý căn bản như là một sự hướng dẫn đi đến con đường giải thoát của đức Phật, thì tín nên đặt ở vị trí khởi đầu. Trước khi bắt đầu bước lên con đường để xác nhận chân lý giác ngộ, người tu tập phải tin tưởng rằng - chấn chỉnh điểm mơ hồ và dần dần lộ diện - có cái gì đó hiển bày trong đó, vì thế phát khởi tín tâm là bước đầu ‘đi vào dòng chảy’ giác ngộ.
Một ‘căn’, chẳng hạn như tín căn, theo một số kinh điển, có nghĩa là một gốc rễ của tâm (tâm căn, cũng dùng từ ‘indriya’ = căn) giống như nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, và thân căn thuộc ‘cơ quan’ của thân thể.
Trong khi tín căn biểu thị cho thấy khả năng của bước khởi đầu, thì tinh tấn là căn tạo năng lực cho sự chuyên cần ở bước tiếp theo. Sự thực hành vận dụng của Niệm căn đã được thảo luận rất nhiều ở trên.
Đến đây, Định căn đã thể hiện như một yếu tố trọng tâm qua những thần túc, mỗi thần túc vận hành thông qua căn này. Tuy nhiên, ở đây, cần nói về một chủ đề mới và quan trọng nhất, đó là Thiền định (dhyāna). Hầu như chúng ta đều biết về sự tu tập của bốn cảnh giới thiền định không chỉ có trong Phật giáo, mà đã được các vị sa-môn truyền dạy từ rất sớm như đạo sĩ Ārāḍa và udraka, và đức Phật cũng có học từ họ. Điều này có lẽ cho thấy thiền định không được xem là một chủ đề riêng biệt trong giáo lý tóm lược căn bản của đức Phật, nhưng thường được biết đến và dung hợp trong những chủ đề khác, tuy nhiên rất cốt yếu. Thế nhưng trong Ba tạng giáo lý thường nói về tứ thiền định, đây là công thức cho Phật tử thực hành như sau.19
19. Thượng tọa bộ D I 73 trở xuống, M I 21 trở xuống, S V 318 (Sớ giải ví dụ như Dhsa 164 trở xuống), tương đương những bản tiếng Trung Quốc có trong T 1 No. 27, T 125 k. 23, tr. 666, T 99 quyển 29 No. 18. Kinh Lalitavistara (Phổ diệu kinh) của Nhất thiết hữu bộ, tr. 343 trở xuống. Mahā- vastu của Xuất thế bộ, I, tr. 228.
“Đã từ bỏ tham dục (kāma), đã từ bỏ các pháp bất thiện (akuśala), một vị tỷ-kheo chứng và nhập vào Sơ thiền, trong đó còn tầm (vitarka) và tứ (vicāra), được sinh ra từ xả (viveka) nên có được hỷ (prīti) và lạc (sukha). Tu tập làm cho tầm và bốn an tịnh, vị ấy nhập và chứng Nhị thiền, bên trong các tâm sở (cetas) đều thanh tịnh (saṃprasāda) và đồng nhất tính (ekotibhāva - đồng nghĩa với nhất tâm), không còn tầm và bốn an tịnh, được sinh ra từ thiền định (samādhi) nên có được hỷ và lạc.20 Do tu tập đoạn trừ hỷ, vị ấy nhập và chứng tam thiền, trú vào xả (upekṣaka), chính niệm (smṛtimant) và tỉnh giác (saṃprajāna), cảm nghiệm lạc thọ trong thân thể của vị ấy (trong thể tâm thức của vị ấy, theo sự giải thích của thượng tọa bộ), (định) mà các bậc thánh (ārya có thể được dịch là ‘bậc cao quý’ hay ‘thượng nhân’) mô tả chính xác là sự xả ly, chính niệm, cảm thọ lạc. Diệt trừ cả vui và khổ nhờ vào sự dập tắt sự hưng phấn (saumanasya) và hỷ (daurmanasya) trước đây, vị ấy chứng và nhập tứ thiền, ở đây không còn khổ và vui, duy chỉ có thuần tịnh (pariśuddha) của xả (upekṣa) và chính niệm”.
20. Bản của Nhất thiết hữu bộ và xuất thế bộ dùng ‘tâm thanh tịnh và chuyên nhất’ thay cho tiến trình nhập định.
Chính đức Phật đã công nhận và vận dụng ý nghĩa của sự tu tập này, được thảo luận ở chương đầu: Vào đêm thành đạo của Ngài, đức Phật đã vận dụng phương pháp này để tập trung tâm trước khi chứng đắc ‘Tam minh’ (bao gồm cả bốn sự thật cao quý); rồi trước lúc nhập Niết-bàn không lâu, Ngài lại chứng nhập một lần nữa.
Định căn sẽ được thảo luận tiếp ở mỗi chủ đề còn lại cùng với sự thực tập thiền định. Đặc biệt khi mô tả về bát chính đạo, chúng ta sẽ quay trở lại với đề mục này.
Tuệ hiển nhiên là một căn phải khởi tác dụng tích cực đối với tất cả các giai đoạn tu tập hay thực hành bát chính đạo. Không có tuệ căn thì những căn khác ‘không thể duy trì lâu dài’, vì thế những căn khác muốn phát huy hiệu lực thì phải dùng tuệ căn làm điều kiện tiên quyết. Ở cuối giáo lý bát chính đạo chúng ta sẽ thấy sự hiểu biết trí tuệ về duyên khởi và hoại diệt, và bốn sự thật cao quý, tức chính là nội dung của sự giác ngộ. Khi đọc giáo lý bát chính đạo, chúng ta sẽ thấy trí tuệ được đặt ở đầu con đường đạo, nhưng nếu chúng ta quan sát ở chủ đề hiện tại thì tuệ căn là một phần của sự tu tập tìm cầu giác ngộ, đương nhiên tuệ căn nằm ở sau định căn. Ở đây, theo thứ tự luận bàn thì rõ ràng Ngũ căn đứng đầu trong việc luân lưu tu tập thực hành.
Chi phần đầu tiên của bát chính đạo là hiểu biết về bốn sự thật cao quý, một sự nghiên cứu và lý giải khoa học; giác ngộ có nghĩa là nhận đúng bản chất của mọi sự vật như chúng là. Chúng ta có thể tạm thời gác lại giáo lý bốn sự thật cao quý, duyên khởi và hoại diệt, hay nói cách khác là nhân duyên, đợi đến khi nói về bát chính đạo sẽ thảo luận tiếp.
Đối với công dụng của tuệ căn, chúng ta sẽ càng thấy rõ hơn khi quay nhìn lại đoạn đối thoại ngắn của đức Phật được đề cập trong lần du hóa cuối cùng trước lúc nhập Niết-bàn, được trích dẫn từ chương trước: Một đệ tử phải ‘xác lập tín tâm’ đối với Phật, Pháp và tăng, nhờ đó có được trí tuệ; trí tuệ được thấm nhuần từ thiền định mang lại kết quả lớn, lợi ích lớn; tâm có trí tuệ trở nên viên mãn tự tại, trừ bỏ hết thảy lậu hoặc. (tr. 118 ở trên).