Chúng ta đã đọc qua nhiều kinh điển, giúp sáng tỏ rất nhiều về vũ trụ hay về luân hồi (hoặc trong chính bản thân chúng), như đức Phật đã dạy không có chỗ cho mọi sự can thiệp của thần linh. Diễn tiến của vũ trụ là diễn tiến tự nhiên dựa vào luật nhân quả, luật tự nhiên. Nó không do Chúa tạo ra, và nếu gọi là Chúa (Brahmā), nghĩ rằng ngài là Chúa và đã tạo ra chúng sinh, thì ngài thực tế là một chúng sinh khổ đau vì ảo tưởng. Thần linh cũng là chúng sinh nằm trong quy luật tự nhiên, được vận hành trong quy luật sinh và tử, giống như loài người mà thôi. Những điểm đặc thù của họ chỉ tương đối: họ hưởng thụ một tiêu chuẩn sống cao hơn con người, hoạt động và sống trong cảnh giới khá đẹp, ở đó không có thứ thô xấu, không có thức ăn thô, không có thân thể thô cứng; họ rất đẹp và tuổi thọ dài lâu, nhưng cuối cùng họ cũng chết và tái sinh ở cõi nào đó tùy theo hành động của họ tốt hay xấu. Họ dường như không có sức mạnh hơn con người hay ở những cõi khác họ. Hơn nữa những tỷ-kheo có tu tập, nhập vào thiền định không những thể nghiệm được thế giới của thần linh tốt đẹp mà còn đạt đến thế giới tốt đẹp hơn.
Tuy nhiên đức Phật dường như chấp nhận thần linh và Chúa trong hệ thống vũ trụ của Ngài khác với quan điểm của thuận thế luận (Lokāyata) là họ bác bỏ hoàn toàn các thần linh, cho là Bà-la-môn hư cấu. Theo quan điểm của đức Phật, thần linh ở chỗ nào? bên cạnh những mô tả ở trên, đặc tính của họ như thế nào? Có lẽ họ ‘Tồn tại’ chỉ ở cấp độ tục đế với những tập quán giao tiếp tao nhã hay chăng? Chúng ta hãy đi theo chuyến thăm viếng của một vị tỷ-kheo Phật giáo đến những cõi trời.61
61. D No. 11 (I tr. 215 trở xuống), T 1 No. 24.
“Ngày xưa có một vị tỷ-kheo trong cộng đồng Tăng-già nọ, trong suy nghĩ của vị ấy dấy lên ý niệm: ‘Chỗ nào mà tứ đại, tức các yếu tố đất, nước, lửa và gió, hoàn toàn dừng nghỉ?’ Sau đó vị tỷ-kheo này đạt đến loại thiền định mà trong tư tưởng thiền định của vị ấy dẫn đến cõi của các vị trời. Thế rồi vị ấy đến cõi của loài trời (thế giới của) tứ thiên vương (cõi trời thấp nhất, những vị vua trời này làm chủ bốn phương) và vị tỷ-kheo đó hỏi họ ở đâu bốn yếu tố hoàn toàn dừng nghỉ… Các vị thần linh nói: ‘Thưa tỷ-kheo, chúng tôi không biết ở đâu bốn yếu tố này hoàn toàn dừng nghỉ. Tuy nhiên có bốn vị vua trời xuất sắc hơn chúng tôi, ưu việt hơn chúng tôi, họ có thể biết…’. Thế rồi vị tỷ-kheo đi đến bốn vị vua trời và hỏi họ câu hỏi như thế… họ cũng thừa nhận không biết, và đề nghị thử đến hỏi những vị trời xuất sắc hơn, ưu việt hơn ở cõi những vị trời ba mươi ba (thần linh Vệ-đà truyền thống thường cư trú ở cõi cao hơn so với tứ thiên vương). Những vị thần này chỉ vị tỷ-kheo sang hỏi vua của họ là thiên đế thích (Śakra hay còn gọi là Indra, xem Chương 1, mục Người Aryan). Ông ta cũng không biết và đưa vị tỷ-kheo đến cõi cao hơn để gặp những vị thần cõi trời Dạ-ma (Yamā), họ lại đưa vị tỷ-kheo đến gặp chúa trời của họ là Suyāma, ông ta lại đưa vị tỷ- kheo đến cõi cao hơn để gặp những vị thần trời Đâu-suất (Tuṣita), họ lại đưa vị tỷ-kheo đến gặp chúa trời của họ là Saṃtuṣita, ông ta lại đưa vị tỷ-kheo đến gặp những vị thần ở cõi hóa lạc thiên (Nirmanarati), họ lại đưa vị tỷ-kheo đến gặp chúa trời Sunirmita, ông ta lại đưa vị tỷ-kheo đến gặp những vị thần cõi tha hóa tự tại thiên (Paranirmita-vaśavartin) và họ lại đưa vị tỷ-kheo đến gặp chúa trời Vaśavartin (‘nắm giữ sức mạnh’)”.
Tuy nhiên, bản kinh này không giải thích điều đó, bây giờ dựa vào truyền thống Phật giáo, chúng ta đã đến được nơi cao nhất của ‘dục giới’ (xem tr. 166 ở trên) hay trú xứ đầu tiên của thức (xem tr. 191 ở trên). Nhưng chúa trời tha hóa tự tại (Vaśavartin) không biết về bốn yếu tố hơn những vị thần linh thấp hơn ông ta và chỉ có thể hướng dẫn vị tỷ-kheo đến cõi trời sắc giới, trú xứ thứ hai của thức, để gặp những vị thần linh cõi Phạm thiên (thân thể của họ được tạo thành từ vật chất vi tế không có trọng lượng). Vị tỷ-kheo này đã đạt đến thiền định mà trong cảnh giới thiền định đó xuất hiện con đường dẫn đến Đại Phạm thiên (bản kinh này thực tế hướng dẫn sự thể nhập từ dục giới sang sắc giới; Sơ thiền sinh ra sự thể nhập này hoặc trú xứ của thức). Vị tỷ-kheo ấy hỏi các thần linh cõi Phạm thiên với câu hỏi như thế, nhưng họ cũng thừa nhận là không biết. Họ bảo vị tỷ-kheo ấy rằng: “Có một vị Đại Phạm thiên (Brahmā), Thượng đế, chúa chí tôn... (những cách xưng hô như ở trước)… Ngài siêu việt hơn chúng tôi; Ngài có lẽ biết…”. Vị tỷ-kheo ấy hỏi vị Thượng đế ấy đang ở đâu. Họ bảo: “Chúng tôi cũng không biết vị Thượng đế ở đâu, ngài ở lối nào, cảnh giới là gì. Nhưng thưa tôn giả, khi ngài đến sẽ phát ra ánh sáng: Ánh sáng ấy phát sinh và chói sáng, thì Thượng đế xuất hiện. Đây là điều báo trước khi Thượng đế xuất hiện”.
“Không lâu sau Thượng đế xuất hiện. Sau khi vị tỷ-kheo đến gặp Thượng đế và hỏi: ‘Thưa ngài, chỗ nào mà tứ đại, tức các yếu tố đất, nước, lửa và gió, hoàn toàn dừng nghỉ?’ Thượng đế nghe câu hỏi xong nói với vị tỷ-kheo: ‘Này tôn giả, ta, Thượng đế, thiên đế, chúa trời, vua trời, bất bại, thấy hết vũ trụ, vô địch, tự tại, chúa sáng tạo, chúa tể mọi vật, tạo hóa, tạo chủ, đệ nhất, bậc truyền dạy, bậc thầy, bậc cha của tất cả chúng sinh đã đến đây và sẽ như thế’. Vị tỷ-kheo ấy lại hỏi Thượng đế: ‘Thưa ngài, tôi không hỏi ngài là Thượng đế, thiên đế, chúa trời…, mà hỏi chỗ nào mà tứ đại tức các yếu tố đất, nước, lửa và gió, hoàn toàn dừng nghỉ?’ Nhưng Thượng đế lập lại câu trả lời như thế… và vị tỷ-kheo hỏi lại câu đó lần thứ ba… thế rồi Thượng đế nắm cánh tay của vị tỷ-kheo kéo qua một bên, và bảo vị tỷ- kheo ấy: ‘Này tôn giả, do như vậy, các vị thần cõi Phạm thiên biết rằng không có gì mà thượng đế không thấy, không có gì mà thượng đế không biết, không có gì mà thượng đế không thể nghiệm. Do đó, ta không giải thích trước mặt họ. Này tôn giả, ta không biết chỗ nào mà tứ đại hoàn toàn dừng nghỉ…’. Thế rồi Thượng đế bảo vị tỷ-kheo ấy trở lại Trái đất gặp đức Phật, và đức Phật bảo với vị tỷ-kheo ấy rằng tứ đại hoàn toàn dừng nghỉ chỉ khi thức dừng nghỉ (nghĩa là chúng dừng hẳn khi một người đạt đến tịch tịnh Niết bàn).
Dĩ nhiên ngụ ý của câu chuyện này là đặt đức Phật lên trên mọi thần linh và Thượng đế, và sự giác ngộ hơn cả mọi tri thức hạn hữu của họ, nhưng liên hệ với lịch sử mà chúng ta đọc trong kinh Phạm võng (Brahmajāla) về một số quan điểm của những người chấp thường hằng, cho thấy điều thú vị là Thượng đế nằm trong tiến trình đi xuống. Dường như Thượng đế đã bắt đầu ngộ nhận vị trí sai lầm của ngài nhưng ảo giác về sự sáng tạo ra vạn vật, toàn năng, toàn tri và chúa tể không thể duy trì lâu dài và bây giờ ngài được khắc họa trong đoạn đối thoại này như một người cố ý che giấu thân phận. Ngài có được quyền năng hơn hẳn các thần linh ở thế giới Phạm thiên chỉ là vì ngài được sinh ra đầu tiên trong vòng luân hồi của vũ trụ chứ không phải vì phẩm chất đặc thù của ngài. Ngược lại điều này cho thấy rằng ngài là người đầu tiên chết đi từ cõi ánh sáng do bởi phúc báo đã hết trước tiên.
Đến đây chúng ta không cần phải nói về thái độ của đức Phật đối với Thượng đế (Brahmā) nữa. Thượng đế chẳng khác gì một ‘chúng sinh’ (thậm chí ở cấp độ ‘bất liễu nghĩa’ thuộc thế gian thông thường), cũng còn trong sự ràng buộc của vòng duyên sinh. Do không còn phúc báo ở cõi cao hơn nên được sinh ra ở cõi có chút địa vị. Chủ trương của Bà-la-môn giáo cho rằng Thượng đế là vĩnh hằng, do dựa vào bản chất sai lầm của những thần linh cõi Phạm thiên và rồi được những đạo sĩ Bà-la-môn giáo tuyên truyền ở thế gian này.
Điều này đức Phật chỉ ra trong những câu chuyện được biên chép về các vị thần, là loại thần học hoàn toàn hư cấu, khác với bản chất thật sự của thần linh. Hai điểm này có thể nói rõ ở đây. Thứ nhất thần học chính xác được tái tạo hoàn toàn trong dân gian hoặc trong thần thoại của Bà-la-môn giáo ở thời đại của đức Phật (mà việc hư cấu này là cách đặc thù mang tính tuyên truyền). Thứ hai sự sắp xếp thứ bậc của các vị thần ở một số lĩnh vực là để tương xứng với cảnh giới tu tập thiền định của Phật giáo, nhưng phải phối hợp nghiêm túc ở cấp độ triết lý. Kết luận chính xác rằng dường như đức Phật đã vận dụng uyển chuyển một số khái niệm Bà-la-môn giáo cũng như những khái niệm phổ cập hiện hành, chấp nhận chúng nếu dựa trên cơ sở nhớ lại những đời sống trước đây được sinh vào cảnh giới thần linh, nhưng hoàn toàn bác bỏ ý tưởng cho rằng thần linh khác với bản chất của con người với năng lực sáng tạo hoặc có sức mạnh khống chế trong vũ trụ này. Họ tồn tại nhưng vẫn theo quy luật tự nhiên như con người. Những vị Sa-môn hay tỷ-kheo có thể đạt đến những cảnh giới thiền định của các vị thần linh, có thể nói chuyện với các thần linh, nhưng những thần linh đó không có đủ năng lực để giúp con người, hoặc họ cũng không có gì để dạy dỗ con người, thậm chí cúng cấp hay thờ phượng họ cũng vô ích. Đối với vấn đề nhận thức mà nói thì con người ưu việt hơn: Các đức Phật chứng đắc giác ngộ ở ngay thế giới của con người. Đối với những tiêu chuẩn của hành vi tốt mà chúng ta đã khảo sát tóm tắt ở cuối phần thảo luận về bát chính đạo trong chương trước, hoàn toàn không liên quan đến thần học, có được những nhận thức này là nhờ vào sự nghiên cứu quán chiếu theo lý Duyên khởi, nghĩa là bản chất tuần hoàn hay luân hồi của vũ trụ, và từ sự nghiên cứu quán sát xã hội (liên quan đến vấn đề xã hội, chúng sẽ được phân tích nhiều hơn sau này).
Đối với phương diện thực hành các nghi lễ và cúng tế trong tôn giáo, điều này thật sự là một mặt rất quan trọng của bà-la-môn, chúng ta sẽ nhận thấy rằng đức Phật bác bỏ dứt khoát, bởi vì chúng gây tai họa cho xã hội.
Có một ‘vị thần’ yêu cầu chúng ta chú ý, đó là thần Chết (Māra), ở Chương 3, vị này đã thuyết phục đức Phật nhập diệt. Vị thần này biểu hiện ở một mặt khác là thần dục lạc, nổi bật trong những truyền thuyết về đức Phật, ‘quấy nhiễu’ vị Phật tương lai với ý đồ ngăn chặn sự giác ngộ của Ngài. Ở trường hợp này, dường như chúng ta hiếm gặp lần đầu trong chính cuộc đời Ngài, đơn thuần là sự nhân cách hóa cái chết, về sau mới kết nối sự tái tử và tái sinh với ái và dục. Vị Māra này đại diện cho những quy luật Duyên khởi trong vòng luân hồi của Dục giới, không giống với chủ trương của Bà-la-môn giáo hay thần linh thông thường. Tuy nhiên, về sau này trong những bộ sớ giải của Phật giáo,62 tìm thấy một vị trí cho vị thần này ở cõi của những vị thần linh tha hóa tự tại (Paranirmitavaśavartin), thống trị Dục giới, thường đến quấy rối biên giới cõi của vua trời tha hóa tự tại (Vaśavartin). Những vị thần khác63 muốn trục xuất ông ta xuống cõi dưới làm quỷ.
62. Thượng tọa bộ: Ma I 33 trở xuống.
63. Nhất thiết hữu bộ: Abhidjarmakośa (a tỳ đạt ma câu xá luận), bản dịch của La Vellée, liên quan ở mục Māra (Ma vương) trong Phụ lục.
Chúng ta có thể tổng kết chương này bằng cách liên hệ đến một bản kinh khác có nói về các vị thần linh.64 Đức Phật gặp vua Prasenajit (Ba Tư-nặc) của xứ Kośala, nhà vua hỏi nhiều vấn đề rồi sau đó đưa ra câu hỏi phải chăng thần linh tồn tại không. Đức Phật hỏi nhà vua tại sao lại đặt câu hỏi như thế. Nhà vua lặp lại phải chăng các vị thần linh có đến thế giới này. Đức Phật trả lời rằng nếu họ có tâm tàn ác (savyāvadhya, ‘bạo lực’) thì họ đến, nếu họ không có tâm tàn ác thì họ không đến. Nhà vua lại hỏi tương tự phải chăng chúa trời đại phạm (brahmā) tồn tại và phải chăng ngài đến thế giới này. Câu trả lời cũng giống vậy. Sớ giải của thượng tọa bộ giải thích điều này rằng ‘đến thế giới này’ có nghĩa là chúng sinh đó được tái sinh ở trái Đất này. Nếu tâm của những vị thần linh hoặc Thượng đế bị hoen ố bởi tàn ác và bạo lực, họ sẽ đầu thai vào trái Đất này. Rõ ràng đây là một quy luật nhân quả, do xấu ác mà dẫn đến tái sinh ở thế giới thấp hơn.
64. M No. 90 (II tr. 130 trở xuống), T 26 No. 212.