Bởi vì thỉnh thoảng đức Phật có nói về những thuật ngữ ‘chúng sinh’, ‘tái sinh’ (và ‘vũ trụ’ luân chuyển), rồi chấp nhận quan điểm rằng có một số loại linh hồn thường hằng, thì Ngài cũng bác bỏ ở chỗ khác, nếu thế thì dường như trong giáo lý của Ngài có vài chỗ không rõ ràng và không nhất quán. Đối với vấn đề nan giải này, tất cả các trường phái Phật giáo đều thống nhất trong hai cách nói được phân biệt trong Ba tạng giáo lý. Đôi khi đức Phật sử dụng ngôn từ thông dụng hàng ngày, chẳng hạn như ‘chúng sinh’, ‘con người’, để diễn đạt cách nhìn thông thường đối với những thực thể bất biến đi từ kiếp này sang kiếp khác. Ở những trường hợp khác khi nói về vòng Duyên khởi, Ngài diễn đạt chúng như những thực thể vô thường, như tham ái sinh khởi nhờ duyên vào điều kiện nhưng không có người ‘tham ái’. Cách nói thứ hai này liên quan trực tiếp đến ‘chân lý’ trong cách diễn đạt của Ngài, hơn nữa chính Ngài xem đây là vấn đề ‘thâm diệu khó thấy’. Trừ khi chúng ta quy cho Ngài hoặc những người biên tập Ba tạng giáo lý một sự khó tin đối với chỗ khác biệt thâm diệu vi tế trong những lời dạy của đức Phật, nếu không chúng ta phải chấp nhận sự diễn đạt này theo hai cấp độ tuyên thuyết, lời nói phổ thông và lời nói diễn đạt chân lý. Thật sự chúng ta phải đi theo phương pháp nghiên cứu của chúng ta để thống nhất với giáo lý của tất cả các trường phái Phật giáo, mà quyết định cuối cùng vẫn dựa vào bản thân của Ba tạng giáo lý sớm nhất mà chúng ta bây giờ có thể phục hồi nguyên trạng Ba tạng giáo lý này để nhận chân rõ ràng rằng có hai cấp độ tuyên thuyết của đức Phật.
Giải thích điều này của các trường phái Phật giáo là phân biệt ngôn ngữ thông dụng hàng ngày, tức tục đế (saṃvṛti), sự che đậy (concealing) làm không thấy được ngôn ngữ triết học là tuyệt đối hay chân đế (pramārtha). Để hiểu tất cả kinh điển trong Ba tạng giáo lý, trước tiên chúng ta phải xác quyết phải chăng hình thức sau, được gọi là ‘liễu nghĩa’ (nītārtha, nghĩa của nó được rút ra), tức nghĩa như chúng biểu thị, là sự tuyên thuyết rõ ràng và chân thật; còn hình thức đầu, được gọi là ‘bất liễu nghĩa’ (neyārtha, nghĩa của nó được rút ra theo yêu cầu), tức yêu cầu mô tả lại mới có thể liên hệ đến quan điểm triết lý của sự thật tuyệt đối.
Trong Ba tạng giáo lý có kinh Kết tập (Saṅgīti)59 thuộc Trường A-hàm của Ba tạng giáo lý, nói về bốn loại tri thức (jñāna), trong đó một loại là tri thức ‘bất liễu nghĩa’ giống với phiên bản của thượng tọa bộ (tiếng Trung Quốc gọi là ‘tri thức thông tục’), và một tri thức liên quan đến học thuyết (có trong cả hai phiên bản). Hai tri thức còn lại, một là tri thức liên quan đến sự suy luận (tiếng Trung Quốc: sự suy luận đối với điều chưa biết), tức chân lý luôn chân thật (xem tr. 176 ở trên), hai là tri thức liên quan đến những tư tưởng của người khác. Ở đây đem tri thức thứ nhất ‘bất liễu nghĩa’ so sánh với ba loại hình tri thức ở sau, ít nhất cũng là cách trực tiếp và phân biệt của các trường phái Phật giáo đưa ra. Có một bản kinh trong Tăng nhất A-hàm60 của thượng tọa bộ mô tả rõ hơn: “Có hai loại phỉ báng Như Lai. Hai loại đó là gì? Đó là người không hiểu được ý nghĩa của giáo lý (neyārtha, bất liễu nghĩa), cho đó là ý nghĩa của kinh (nītārtha, liễu nghĩa); và người hiểu được ý nghĩa của giáo lý (liễu nghĩa), cho là không hiểu được ý nghĩa của giáo lý (bất liễu nghĩa)”.
59. D No. 33 (III 226–xem 277), T 1 No. 9 (tr. 51a, 18). Bản tiếng Phạn của Nhất thiết hữu bộ (tr. 100) giống với bản của thượng tọa bộ. Liên quan đến tục đế (nhận thức thông thường), xem Soothill, Dictionary of Chinese Buddhist Terms, tr. 385. Tiếng Pali saṃmuti có lẽ nghĩa gốc ‘thói quen thế tục’ của con người.
60. a I tr. 60. Có khả năng là một bộ kinh của Nhất thiết hữu bộ đã được trích dẫn trong AK Bhāṣya (Câu-xá luận thích), tr. 136 và sớ thích của Yaśomitra, tr. 174 cũng dùng thuật ngữ nīta (liễu nghĩa) và neya (bất liễu nghĩa).
Điều này có thể hiểu là nguyên tắc giải thích được các trường phái Phật giáo tuân thủ. Bởi vì hai thuật ngữ này có thể tìm thấy trong kinh điển của Nhất thiết hữu bộ (xem chú thích ở trên) cũng như trong thượng tọa bộ, ít nhất đây là một nguyên tắc dường như khá cổ điển, nếu khảo sát trong bốn bộ A-hàm (Āgama) bản tiếng Trung Quốc thì có thể tìm thấy những ý nghĩa tương tự. Kết tập kinh (Saṇgīti) chỉ nói về thuật ngữ thứ hai làm tiêu chuẩn nhưng dường như để khẳng định cùng sự phân biệt, thậm chí còn làm phức tạp thêm đối với hai loại ‘tri thức’ này.
Cho dù nguyên tắc giải thích này không phải là quy định của đức Phật, nhưng thực tế ít nhất cũng được ghi chép lại trong những bản tu chỉnh của Ba tạng giáo lý (khả năng có ba cách nhận thức, nếu chúng ta chấp nhận trích dẫn tham khảo ở trên của kinh Kết tập) (Saṇgīti), và được tất cả các trường phái mà chúng ta đã biết tuân thủ, cho thấy rõ rằng nó trở thành công thức ở những thế kỷ sau khi đức Phật nhập Niết bàn. Đối với đức Phật, nhận thức này dường như là điều đương nhiên. Chúng ta có thể nhận thấy rằng, mấy thế kỷ sau có một vài trường phái chính xác đã không chấp nhận đưa các cấp độ tuyên thuyết này gán vào một số kinh điển. Một trường phái mới thuộc Đại thừa (Mahāyāna), đặc biệt cho lưu hành một số kinh có quan điểm mới, muốn làm giảm thiểu những phần có tính xác thực trong Ba tạng giáo lý, giải thích rằng phải khám phá nghĩa chân thật trong nghĩa yêu cầu được rút ra trong những lời dạy ‘ẩn ý’ với ngôn ngữ thông thường hàng ngày; chỉ trong những kinh điển đặc thù của họ mới có những thuật ngữ được định nghĩa mang tính triết học (nhưng về sau này chính họ cũng bất đồng).