Sau khi đức Phật nhập diệt (parinirvāṇa), kim thân của Ngài được hỏa táng, Tăng-già chọn ra 500 vị A-la-hán (‘bậc cao quý’, ‘bậc viên mãn’) cùng nhau làm việc biên tập kinh điển và giới luật, để phòng tránh giáo lý chân thật bị lẫn lộn với tà giáo. Trong mỗi bản tu chỉnh của Luật tạng hiện còn đều có phụ lục kể về vị tỷ-kheo trưởng lão, là Kāśyapa (Ca-diếp), để phân biệt với những người cùng tên, cho nên thường thêm vào tiếp đầu ngữ “mahant”, gọi là Mahākāśyapa (Đại ca-diếp hoặc Ma-ha-ca-diếp) đã chủ trì hội nghị này như thế nào, làm việc một cách hệ thống nhớ lại tất cả những lời dạy của đức Phật, và được hội nghị đồng ý trở thành thánh điển chính thức, hiện thân cho lời dạy của đức Phật.1 Những phiên bản này chi tiết có khác nhau nhưng về mặt tổng thể thì đồng nhất. Những vị A-la-hán vân tập ở thành Rājagṛha bởi đây là một thành phố lớn mới có thể đủ điều kiện hỗ trợ cho hội nghị lớn diễn ra trong nhiều tháng. Chúng ta chú ý lần nữa các tổ chức Phật giáo thành lập ở các thành phố lớn như thế nào; rõ ràng không thể có cách khác để triệu tập đại hội với quy mô lớn như tầm vóc của toàn bộ cộng đồng này được vận hành theo nguyên tắc dân chủ.
1. Xem Lamotte HBI 136 trở xuống, cùng với ghi chú của ông ở phần thư mục tham khảo.
Tôn giả Ānanda là người tụng lại bài ‘Pháp’ (dharma) đầu tiên, tôn giả là vị thị giả cho đức Phật, đã nghe Ngài thuyết pháp nhiều hơn ai khác. Tôn giả Kāśyapa đã hỏi tôn giả Ānanda về tất cả những bài thuyết giảng này..., tôn giả Ānanda đã nhớ lại tường tận và vì thế đại chúng đồng ý sự kể lại của tôn giả là chính xác. Như vậy những lời dạy này được biên tập thành Kinh tạng (Sūtra Piṭaka) như chúng ta đã biết (thuật ngữ piṭaka có lẽ biểu thị ‘sự truyền thừa’ của một số văn bản).
Tương tự, tôn giả Upāli tụng lại giới luật, một bậc trưởng lão chuyên môn ở lĩnh vực này, và tập thành Luật tạng (Vinaya Piṭaka, những nội dung này thỉnh thoảng được trình bày ở Chương 3).
Liên quan đến tạng thứ ba cần phải biên tập để hình thành Ba tạng giáo lý (Tripiṭaka) có nhiều ý kiến khác nhau. Ba tạng giáo lý của thượng tọa bộ và Đại chúng bộ không đề cập đến việc tụng lại tạng thứ ba này, và do bởi sự đồng ý của hai trường phái như thế nên có thể xác nhận kinh điển truyền thống lâu đời nhất hiện còn nguyên gốc chỉ là hai tạng. Tuy nhiên, ghi chép của trường phái Đại chúng bộ có đề cập đến Luận tạng (Abhidharma) được kết tập sau khi nghe tụng lại. Ba tạng giáo lý của trường phái hóa địa bộ không đề cập đến tạng thứ ba này. Luật tạng của Nhất thiết hữu bộ và Pháp tạng bộ thì đề cập đến việc tôn giả Ānanda tụng lại Luận tạng cũng vừa tụng lại Kinh tạng. Ẩm quang bộ (Kāśyapīya=Haimavata) đề cập đến Luận tạng nhưng không nói đến việc tụng lại. Những kinh điển về sau này của Nhất thiết hữu bộ có mô tả trong A dục vương kinh (Aśokāvadāna), rằng tôn giả Kāśyapa tụng lại Mātṛkā hay Mātṛkā Piṭaka (hai phiên bản của Luận tạng). Có một truyền bản tương tự được tìm thấy trong Luật tạng của Căn bản thuyết nhất hữu bộ, một chi phái của Nhất thiết hữu bộ, đã tu chỉnh và mở rộng trong Ba tạng giáo lý của họ. Cho dù Mātṛkā hay Abhidharma có thật sự được tụng lại trong hội nghị kết tập lần thứ nhất hay không, nhưng tất cả những trường phái có từ sớm này đều có tạng thứ ba, Abhidharma Piṭaka (Luận tạng), như chúng ta sẽ thấy khi thảo luận về chúng.
Theo ý kiến thống nhất của các bộ phái, Kinh tạng được kết tập thành năm bộ A-hàm, ‘sự truyền tụng’ (thuật ngữ này thường được gọi như thế, nhưng thượng tọa bộ dùng thuật ngữ Nikāyas, ‘sưu tập’). Thứ tự sắp xếp sau đây cũng tương đồng (thượng tọa bộ, Đại chúng bộ và hóa địa bộ): (1) Dīrgha Āgama (Trường A-hàm, gồm 30 kinh dài nhất); (2) Madhyama Āgama (Trung A-hàm, gồm 150 kinh vừa); còn cả nghìn kinh ngắn được sắp xếp theo hai cách như ở sau); (3) Saṃyukta Āgama (Tạp A-hàm, kinh văn được sắp xếp thành chủ đề, chẳng hạn như những kinh văn nói về thuyết Duyên khởi mà chúng ta đã nghiên cứu ở Chương 5); (4) Ekottara Āgama (Tăng nhất A-hàm, chủ đề kinh được sắp theo số trong từng phần 1, 2, 3… cho đến 11); (5) Kṣudraka Āgama (Tiểu A-hàm, nằm ngoài bốn bộ A-hàm trên, nhưng có một số kinh văn liên quan mà các trường phái Phật giáo đều cho là không quan trọng, có lẽ do các vị đệ tử của đức Phật sáng tác, không phải lời dạy của Thế Tôn, hoặc vì có vấn đề về tính chân thật, những kinh văn như thế được tuyển tập vào Tiểu A-hàm).
Thứ tự niên đại tuyển tập truyền thống này cũng phù hợp với trật tự tính xác thực của chúng, có lẽ khá dễ dàng thêm vào đó những đoạn văn ngắn trong hàng loạt phân đoạn, hoặc một sáng tác có tính nguồn gốc khả nghi được thêm vào tiểu tạng của một trường phái. So sánh những điều liên quan với nhiều phiên bản tu chỉnh của Ba tạng giáo lý hiện còn mà chúng ta đã nói ở những chương trước thì điểm này sẽ nhanh chóng sáng tỏ. Cho thấy rằng một số trường phái đã không có tiểu tạng này, mặc dù kinh điển vẫn có một số kinh ngắn được sáp nhập vào Luật tạng, nên nói Bốn A-hàm nghĩa là đại biểu cho toàn bộ Kinh tạng.
Chỗ đáng chú ý nhất trong Tiểu A-hàm là phần lớn kinh điển này bằng thi kệ, ngược lại các kinh điển trong Ba tạng giáo lý hầu hết là văn xuôi. Hay nói cách khác, liên quan đến tính chân thật của tiểu tạng dù nói thế nào vẫn đều là thể loại thi ca, làm cho giáo lý thêm sinh động, nhưng có khả năng giải thích đi xa hệ thống giáo lý. Khi chúng ta tìm hiểu giáo lý của đức Phật, tự nhiên chúng ta sẽ nhận ra và bỏ qua, nhưng chúng lại có ý nghĩa to lớn đối với văn học, đồng thời liên quan đến sự lưu hành của Phật giáo ở những thế kỷ sau khi đức Phật nhập Niết bàn, thực tế đã có nhiều kinh điển được biên tập vào giai đoạn đó.
Các bộ phận chính của Tiểu A-hàm mà các trường phái đều có: (1) Khaḍgaviṣāṇagāthā (‘Kệ tụng về sừng tê giác’, đây là bài thơ do một bậc thánh ở trong rừng đơn độc làm ra, thường gọi là Bích-chi Phật (pratyekabuddha), ‘Độc giác Phật’ hoặc ‘Duyên giác Phật’, nghĩa là người tự chứng đắc giác ngộ ở trong rừng mà không qua sự giáo huấn của một vị Phật, và vị ấy sau khi chứng đạo cũng không giảng dạy cho bất kỳ ai); (2) Munigāthā (‘Kệ tụng về sự vắng lặng’ cùng chủ đề với bài thơ trên); (3) Śailagāthā (‘Kệ tụng của Śaila, một bài đối thoại bằng thơ giữa đức Phật và vị Bà-la-môn tên là Śaila); (4) Arthavargīyāṇi Sūtrāṇi (‘Những bài kinh về lợi lạc’, nhưng tên kinh ở đây có lẽ là một biến thể của tiếng Phạn đối với bản kinh gốc bằng tiếng Prakrit, còn bản tiếng Pali thuộc thượng tọa bộ gọi là Aṭṭhaka - được dịch thành Aśṭaka, có nghĩa ‘… nhóm pháp số tám’ - gồm 16 thi kệ ngắn có nội dung liên quan đến giáo lý, đạo đức hoặc giới đức); (5) Pārāyaṇa (‘Kinh đến bờ kia’, mười đoạn đối thoại tóm tắt bằng thi kệ giữa đức Phật và những vị Bà-la-môn về giáo lý, hầu hết là câu hỏi và trả lời đơn thuần); (6) Sthaviragāthā (‘Kệ tụng của các trưởng lão tăng’, các bài thơ tự thuật của những vị cao tăng đại đức); (7) Sthavirigāthā (‘Kệ tụng của các vị trưởng lão Ni’, tương tự ở trên); (8) Ityukta (‘bổn sự kinh’ hoặc ‘Như thị thuyết kinh’, bộ tuyển tập những bài giảng ngắn bằng văn xuôi có thêm thơ được cho là đức Phật thuyết; sớ giải của thượng tọa bộ cho rằng những bản kinh này do một vị tì nữ ở Kauśāmbī nhớ lại, cô ấy là một đệ tử tại gia và thường đến nghe đức Phật thuyết pháp cùng với những vị tỷ-kheo, sau đó cô ấy đến Thủ đô Paurava truyền bá bản kinh này, còn những vị tỷ-kheo chỉ biết được sau lần kết tập thứ nhất. Như vậy có thể thấy rằng các vị tỷ-kheo đã quên những lời dạy này).
Ba phần còn lại của bộ sưu tập này dường như chỉ là hợp tuyển văn học có nguồn gốc từ Ba tạng giáo lý, đó là (9) Udānas (Kinh Phật tự thuyết, chúng ta đã có ví dụ của một bài thơ này ở trên, tr. 115); (10) Dharmapadas (Pháp cú kinh); và (11) Jātakas (những câu chuyện tiền thân của đức Phật, ví dụ một vị Bà-la-môn làm quốc sư cho vua Đại Phương Quảng trong câu chuyện đã nói ở trên, tr. 248 trở xuống, là một kiếp trước đây của đức Phật, do đó đây cũng là một câu chuyện tiền kiếp (bổn sinh); tuy nhiên chuyện tiền kiếp hiện còn cũng là một thể loại riêng biệt hoàn toàn bằng thơ, trong đó là những bài thơ tưởng nhớ, là một kiểu nhớ lại một câu chuyện). Phần cuối cùng, nếu nó được xem là một phần (xem tr. 292) cốt lõi thì sẽ là (12) Avadāna (Thí dụ kinh hoặc Nhân duyên kinh, là những bản kinh của các vị tỷ-kheo và tỷ-kheo-ni, hầu hết là đời sống trước đây của họ).2
2. Ở (13) Peṭakopadeśa (tam tạng chỉ yếu) là văn bản có khả năng xuất phát từ kinh tập Kṣudraka.
Lần kết tập thứ nhất được chép lại diễn ra suốt mùa mưa vào năm đầu tiên sau khi đức Phật nhập Niết bàn, sự kiện nhập Niết bàn này được chọn làm năm đầu của lịch sử Phật giáo. Hiện tại dường như không thể xác định chính xác phạm vi và nội dung của sự kết tập Ba tạng giáo lý, thực tế như chúng ta thấy đầu tiên chỉ có hai tạng giáo lý, chứ không phải ba, gọi là ‘giáo’ và ‘luật’ (Kinh tạng và Luật tạng). Rõ ràng có một số kinh văn được gia tăng, thậm chí trước thời phân chia bộ phái, ví dụ diễn ra ở lần kết tập thứ nhất, sau đó một thế kỷ diễn ra đại hội kết tập lần thứ hai, thực tế một số kinh điển cho thấy rằng vài điều được mô tả sau khi đức Phật nhập Niết bàn hoặc liên quan đến những sự kiện mà ai cũng biết đã diễn ra về sau này. Điều thú vị là những sự mô tả trong Luật tạng ghi lại rằng, ít nhất có một vị tỷ-kheo không đồng ý với những phiên bản trong lời dạy của đức Phật được sưu tập ở lần kết tập này mà vị tỷ-kheo ấy nhớ lại chính mình đã nghe từ đức Phật. Đó là tôn giả Purāṇa, sau kỳ đại hội kết tập kinh điển, ngài quay lại miền Nam. Các vị trưởng lão cung thỉnh ngài tụng lại những gì đã nghe được nhưng ngài từ chối một cách khiêm tốn. Nếu những vị tỷ-kheo ở xa không tham dự hội nghị kết tập lần thứ nhất, vẫn còn một lượng lớn lời dạy của đức Phật, họ nhớ lại và truyền lại cho đệ tử của họ, tuy đây hoàn toàn là sự thật nhưng không cho vào kỳ kết tập này. Trong những hoàn cảnh ấy, những lời dạy như thế được đưa vào Ba tạng giáo lý sau này hầu như là hợp lý, mặc dù phải chấp nhận có những kinh văn thiếu tính chính xác được thêm vào. Đại bát Niết bàn kinh (Mahāparinirvāṇa), như chúng ta đã đọc ở trên (tr. 122), làm cho vai trò của đức Phật tự hạn định trong tình huống này: Nếu ai tuyên bố kinh điển của mình biết mới đáng tin cậy mà không có trong Kinh tạng và Luật tạng - một lần nữa chỉ nói hai tạng giáo lý - nên đem kinh điển đó đối chiếu kiểm tra lại với Kinh tạng và Luật tạng, nếu nội dung tương đồng thì chấp nhận. Ban đầu, sự tương đồng hay mâu thuẫn này dường như dễ nhận biết, nhưng về sau khó nhận biết và phải dựa vào sự giải thích tường tận. Như vậy, các trường phái Phật giáo đã tiếp nhận nhiều kinh văn mới, trong số đó chắc chắn chứa đựng nhiều học thuyết mới.
Dường như ở thời đức Phật và một vài thế kỷ sau đó chưa có gì được viết lại, không phải vì văn tự chưa được sử dụng lúc bấy giờ mà vì không có thói quen sử dụng nó trong việc học và dạy. Văn tự chỉ được dùng trong buôn bán và hành chính, hay nói cách khác là để sử dụng với mục đích tạm thời; những học giả và triết gia xem thường nó, bởi vì đối với họ việc nghiên cứu một văn bản trước hết phải nhớ bằng con tim. Để bảo trì lượng lớn văn bản đơn giản chỉ là vấn đề tổ chức nhân lực có sẵn. Lúc bấy giờ dường như có rất ít tỷ-kheo biết về toàn bộ Ba tạng giáo lý. Nguyên nhân phân chia Kinh tạng ra làm nhiều truyền thống A-hàm trên cơ bản phản ánh hy vọng các vị tỷ-kheo có thể học được một trình độ luận lý tương xứng trong quá trình tu tập của họ. Do đó, ở tích Lan, ít nhất trong thượng tọa bộ có ghi lại3 rằng hàng tỷ-kheo được chia làm từng nhóm chuyên môn nghiên cứu mỗi bộ A-hàm hoặc Luật tạng hoặc Luận tạng, truyền thừa những kinh điển này cho đệ tử của họ và như thế bảo lưu được các truyền bản này dài lâu. Trên thực tế, một vị tỷ-kheo sau 10 năm thọ cụ túc giới chính thức gia nhập tăng- già, ngoài việc biết về giới luật mà mọi thành viên phải tuân thủ, yêu cầu vị ấy phải biết thêm một phần của A-hàm, nói chung khoảng một phần ba số lượng, những kinh điển căn bản này đều có đề cập trong Sớ giải về Luật tạng. Ví dụ, một vị tỷ-kheo học bộ Trường A-hàm cần phải biết 10 kinh dài, trong đó bao gồm Đại bát niết bàn kinh (Mahāparinirvāṇa), Đại duyên sinh kinh (Mahānidāna), Đại niệm trú kinh (Mahāsmṛtyupasthāna) mà chúng ta đã nghiên cứu ở những chương trước. Sau đó, vị ấy được xem có đủ tư cách thuyết pháp giảng dạy không. Tăng chúng của thượng tọa bộ có một chút quan điểm khác biệt về phương diện này đối với nhiều truyền thống kinh điển khác. Vì vậy, họ không đưa những kinh trong Thí dụ kinh (Avadāna) thuộc Trường A-hàm, từng được công nhận là kinh điển chân thật trong lần kết tập tụng đọc lần thứ nhất, nhưng đưa vào Trung A-hàm, như vậy họ có cách nhìn nhận khác nhau trong phạm vi Ba tạng giáo lý.
3. Trong những sớ giải của trường phái này. Xem tác phẩm Early History of Buddhism in Ceylon (Lịch sử Phật giáo thời kỳ đầu ở tích Lan) của adikāram, tr. 24 trở xuống.
Nếu có tiêu chuẩn Ba tạng giáo lý được xác lập trong đại hội kết tập kinh điển lần thứ nhất, chúng ta có thể hy vọng kinh văn lúc này thật sự được ấn định một loại hình văn tự của họ, do đó cũng cùng một ngôn ngữ. Tuy nhiên điều này xem ra không như thế. Lúc bấy giờ có nhiều vị đệ tử của đức Phật đến từ những đất nước khác và nói loại ngôn ngữ không hoàn toàn khác nhau nhưng ít nhất cũng khác về mặt phương ngữ. Hiện tại chúng ta đã biết4 rằng Phật giáo thời kỳ đầu tuân thủ nguyên tắc cho dù hoằng pháp ở đâu họ đều biết chấp nhận ngôn ngữ địa phương để giáo hóa. Có lẽ họ đã có nhiều thành tựu trong việc truyền bá giáo lý và thành lập Phật giáo ở nhiều đất nước khác là nhờ vào điểm này. Theo ghi chép, chính đức Phật cũng khuyên hàng đệ tử dùng chính ngôn ngữ của họ để ghi nhớ giáo lý của Ngài chứ không dùng ngôn ngữ của Ngài hay cổ ngữ, nhưng có thể sử dụng ngữ điệu của ngôn ngữ Vệ Đà trong Bà-la-môn giáo. Do đó, có nhiều phiên bản Ba tạng giáo lý được bảo tồn ở nhiều nước trong cõi Ấn Độ với nhiều phương ngữ và ngôn ngữ khác nhau từ thời kỳ đầu, và chúng ta vốn không thể xác định được ngôn ngữ gốc của kinh điển Phật giáo, thậm chí cũng không xác định được thông tin về ngôn ngữ mà đức Phật đã nói.5 Nhiều nhất là chúng ta có thể nói bản tu chỉnh với ngôn ngữ Ma-kiệt-đà ở mấy thế kỷ đầu đã có được địa vị vượt trội, vì thậm chí trong kinh điển Phật giáo không thuộc ngôn ngữ Ma-kiệt-đà cũng có thể thấy nhiều từ ngữ liên quan phong cách Ma-kiệt-đà. Điều này có thể phản ánh ưu thế chính trị của đế quốc Ma-kiệt-đà.
4. Lin Li-kouang: L’ aide-memorie de la vraie loi, tr. 216 trở xuống.
5. Có lẽ là phương ngữ của Kośala, tr. 42 - 43 ở trên.