Vào thời đức Phật, Ma-kiệt-đà chỉ là một trong những nước kình địch lẫn nhau. Đức Phật đã truyền bá giáo lý ở đây, theo ghi chép, Ngài từng gặp hai vị vua kế thừa nhau, đều là người cùng thời. Những lần gặp gỡ này có thể là sự thật lịch sử, bởi vì những vị vua Ấn Độ cho dù chính sách của họ như thế nào, nói chung đều rất hứng thú tiếp xúc với các nhà triết học. Nhưng thái độ của hai vị vua này đối với Phật pháp không rõ ràng: họ có lẽ cho rằng một số quan điểm của Phật pháp rất hợp với chính trị nhưng không theo tuyệt đối hoàn toàn. Trên thực tế, đức Phật ở lại Ma-kiệt-đà thời gian khá ít, truyền bá giáo lý ít nhất trong sáu vương quốc ở đây. Nếu bảo rằng đức Phật có ý tạo mối quan hệ đặc thù với những vị vua ở Ma-kiệt-đà thì tuyệt đối không đúng. Bởi vì cần phải quan sát tình hình sau này đối với lịch sử chính trị của Ấn Độ thì bất kỳ gợi ý nào về mối quan hệ này đều đáng nghi ngờ. Như thế Phật giáo truyền bá đầu tiên hầu hết ở ngoài biên giới của Ma-kiệt-đà. Đức Phật đã đến phần lớn những đất nước này trước khi Ma-kiệt-đà xưng bá, và Ngài đã xây dựng những tổ chức Tăng-già hoàn toàn phi chính trị và xuất thế gian ở những đất nước này. Tuy nhiên, một thế kỷ rưỡi sau, sự lan truyền của Phật giáo bị sự bành trướng của Ma-kiệt-đà càn lướt, vì thế ở giai đoạn này khó tìm thấy một cộng đồng Tăng-già độc lập nằm ngoài ranh giới của đế quốc này. Sau đó mối quan hệ đặc thù này được phát triển, chúng ta sẽ thấy vấn đề này ở chương kế tiếp.
Năm 483 TTL, ba năm sau khi đức Phật nhập Niết bàn, vua A-xà-thế (nước Ma-kiệt-đà) đã chinh phục nước cộng hòa Bạt-kỳ (đại thần của nhà vua là Varṣākāra mà chúng ta gặp ở Chương 3, đã thành công trong việc làm xáo trộn nội bộ Bạt-kỳ, đồng thời nước Ma-kiệt-đà cũng đã phát triển hoàn thiện chiến xa và những cỗ máy phóng lao mới), như vậy nó mang tính quyết định mở đầu cho sự nghiệp phát triển đế quốc của ông ta.6 Vương quốc Kośala bị chinh phục sau đó không lâu. udāyibhadra, con trai của vua A-xà-thế kế thừa vương vị, đã dời đô về thành Pāṭaliputra (xem tr. 116 ở trên). Khoảng năm 410 TTL, có phát sinh một cuộc bạo loạn của những ‘người dân thành thị’ (nāgaras) chống lại triều đại haryaṅka. Họ đã lật đổ vị vua bạo tàn và bầu đại thần Śiśunaga lên trị vì đất nước, lập nên một triều đại mới. Bản thân vua Śiśunaga vốn là hậu duệ thuộc hàng quý tộc của nước bạt- kỳ (đặc biệt là thuộc bộ tộc Licchavi, một bộ tộc liên minh với nước cộng hòa này), cha của ông ta là một ‘chiến binh’ (rājan) và mẹ của ông ta là một kỹ nữ,7 vương triều của ông ta có nhiều tên gọi, như triều đại Licchavi hoặc triều đại Śiśunaga. Chúng ta có lẽ nên nói về ‘sự đáp đền’ của người Bạt-kỳ lúc bấy giờ, mặc dù nó không phải theo xu hướng tái lập của nền cộng hòa. Kết quả hầu như hồi phục sự phồn vinh một thời của thủ đô Vệ- xá-li thuộc nền chính thể cộng hòa này. Khoảng năm 410 TTL, Śiśunaga đã chinh phục vương quốc hùng mạnh avanti ở phía tây Ấn Độ (thủ đô là ujjanyinī), và thống nhất Ấn Độ thành một đế quốc ‘Trải dài từ bờ tây sang bờ đông và vươn lên phía bắc’. Hình như người tiền nhiệm của ông là Darśaka (vị vua cuối cùng của vương triều haryaṅka) đã thôn tính vương quốc Paurava bao quanh Kauśāmbī (sau đổi thành vương quốc Vatsa, tên gọi của một nước quanh Kauśāmbī) và đưa dân chúng vào sự cai quản của mình.8 Vốn những vị vua của vương quốc avanti cũng từng mưu đồ đưa vương quốc Paurava dưới sự bảo hộ của họ, và có lẽ cũng là một đối thủ sừng sỏ của Ma-kiệt-đà trong ngôi vị đế quốc Ấn Độ. Do đó, Śiśunaga đã kết thúc sự cạnh tranh này, và cuối cùng giải quyết vấn đề ai là kẻ kế thừa đế quốc Paurava.
6. Xem các nguồn khác nhau Da (Trường A-hàm chú), tr. 522.
7. Vaṃsatthappakāsinī (Đại sử nghĩa sớ) I, tr. 155 trở xuống.
8. Xem kịch bản Svapnavāsavadatta (Bà-tu-đạt mộng trung ký) của Bhāsa, tuy nhiên niên biểu của các vị vua rất khó đồng bộ với ghi chép của Ba tạng giáo lý.
Nếu chúng ta hoài nghi mối quan hệ khăng khít của cộng đồng Tăng-già Phật giáo với nước cộng hòa Bạt-kỳ hơn vương quốc Ma-kiệt-đà, do sự ca ngợi của đức Phật đối với chế độ cộng hòa này, thì chúng ta chắc chắn nhận ra chứng cứ vương triều Licchavi cực kỳ kính ngưỡng Phật giáo, đặc biệt là con trai của Śiśunaga và người thừa kế Hắc đế Aśoka (Kālāśoka).