Trong thời gian vua Aśoka trị vì, khoảng 100 năm (hoặc 110 năm theo một số ghi chép khác) sau khi đức Phật nhập Niết bàn (năm 386 hoặc 376 TTL), những vị tỷ-kheo ở Vaiśalī đã nới lỏng một số giới luật. Đặc biệt, họ đã nhận vàng, bạc và tiền từ những đệ tử tại gia. Một vị tỷ-kheo đến từ nơi khác thấy vậy bèn phản bác hành vi phá hỏng giới luật này, và vì vậy đưa ra một loạt thủ tục theo giới luật quy định rất thú vị trong Tăng-già để chỉ ra điều đúng sai, sự kiện này có ghi lại trong Luật tạng.9 Trong những phiên bản tu chỉnh Luật tạng hiện còn thống nhất ở điểm này, rằng Tăng-già ở Vaiśalī mất kỷ luật, điều này cho thấy rằng cộng đồng Phật giáo lúc bấy giờ vẫn còn bảo trì sự thống nhất, và khắc phục được sự ảnh hưởng của việc chia rẽ. Có lẽ ý nghĩa quan trọng nhất của sự việc này cho thấy ở đây minh bạch hơn bất cứ văn bản cổ xưa nào trong tổ chức dân chủ thời kỳ đầu của tăng- già phát huy tác dụng như thế nào, đặc biệt điều gì xảy ra nếu giữa hai tăng đoàn độc lập có sự bất đồng, không phải trong đó có một tăng đoàn hợp pháp; Tăng-già Phật giáo không phải tập đoàn cầm đầu độc đoán hoặc quyền lực trung tâm, làm thế nào để có thể xử lý những sự việc xảy ra như thế.
9. Xem Lamotte HBI (Lịch sử Phật giáo Ấn Độ), đã dẫn.
Tất cả những phiên bản của Luật tạng đều nhất trí rằng nguyên nhân chính dẫn đến tranh luận là vấn đề quyên cúng tiền mặt. Văn bản của trường phái Đại chúng bộ chỉ đề cập sơ lược đến điều này, nhưng văn bản của thượng tọa bộ và những văn bản hiện còn khác (những văn bản của những chi phái xuất phát từ thượng tọa bộ nhiều hơn Đại chúng bộ) có thêm chín lý do tinh tế tương tự. Hiện tại vẫn chưa thể xác định phải chăng trường phái Đại chúng bộ đã che giấu những điều này, cho là không quan trọng, hoặc bởi vì bản thân họ sau này tận hưởng chúng, hoặc phải chăng chúng được những người theo thượng tọa bộ thêm vào sau này. Có năm loại lý do, đó là: Một loại liên quan đến ăn uống, một loại liên quan đến chỗ ngồi, hai loại liên quan đến trình tự hội nghị của Tăng-già, một loại liên quan đến hành vi của một vị tỷ-kheo phải chăng cần mô phỏng giống với hành vi của vị thầy mình (không tuân thủ nguyên tắc của Luật tạng) hay không. Thực tế, văn bản của Đại chúng bộ miêu tả toàn bộ tiến trình sự việc này rất ngắn gọn, và đây là lý do để đặt vấn đề về văn bản gốc được các vị tỷ-kheo cùng nhất trí truyền thừa từ cộng đồng Tăng-già ở Vaiśalī, họ không thể xem nhẹ sự việc này, nhưng hy vọng mô tả hết sức nhẹ nhàng và dè dặt. Chúng ta sẽ thảo luận lập trường của trường phái Đại chúng bộ sau trong chương này; điểm chính ở đây là trong văn bản của họ không nói chi tiết về việc này nhưng có nguyên vẹn trong những phiên bản khác của Luật tạng, điều này gợi cho thấy rằng lý do hy vọng giảm thiểu tính căng thẳng này trái ngược với sự mô tả của họ về sự kiện đã diễn ra đáng tin cậy hơn sự mô tả của những trường phái thuộc Thượng tọa bộ.
Để ngăn chặn hành vi nhận tiền quyên cúng của tín đồ Phật tử, tôn giả Yaśas đi đến Vaiśalī, khuyến cáo tín đồ tại gia không ủng hộ kiểu như thế. Sau đó những vị tỷ-kheo ở Vaiśalī chia cho tôn giả này một ít tiền đã quyên góp được, nhưng tôn giả từ chối. Những vị tỷ-kheo trong cộng đồng Tăng-già ở Vaiśalī rất ghét hành vi của Yaśa, thế là họ thi hành áp dụng ‘pháp không hòa hợp’ (pratisaṃharaṇīyakarman, bảy điều không ở chung) đối với Yaśa, đây là một việc làm hợp giới luật, yêu cầu Yaśa sám hối việc nói xấu và chê bai những tín đồ tại gia (phản bác sự ủng hộ của họ), bằng cách đến xin họ tha thứ. Rõ ràng họ đã thực thi một việc làm đúng giới luật, tôn giả Yaśa đành phải phục tùng quyết định của họ và làm theo như thế, đi cùng với một vị tỷ-kheo để làm chứng cho việc sám hối này (mới đúng pháp). Tuy nhiên, tôn giả đã nói lại cho những vị tín đồ tại gia một bài pháp mà đức Phật dạy về việc làm sai trái của những Sa-môn và Bà-la-môn, trong đó bao gồm cả việc nhận vàng và bạc. Như vậy, tôn giả Yaśa đã thuyết phục họ lập trường của mình là đúng và những việc làm của những vị tỷ-kheo ở Vaiśalī không phải là việc làm của Sa-môn cũng không phải là việc làm của đệ tử đức Phật.
Vị tỷ-kheo làm chứng quay về báo cáo sự việc này cho Tăng-già. Thế rồi họ phạt tôn giả Yaśas với tội danh khác rằng đã tiết lộ việc của nội bộ cho người ngoài biết (chỉ thảo luận dựa vào giới luật để biết vấn đề phải chăng có thể nhận tiền bạc quyên cúng hay không). Họ bắt đầu họp để phạt tôn giả Yaśas, bằng cách không được đi ra ngoài nếu chưa được phép của họ. Họ đã làm thế với tôn giả Yaśas bằng hình phạt quản thúc (utksepaniyakarma, tạm thời đình chỉ tư cách thành viên Tăng-già). Đây là một cách phạt tiêu chuẩn đối với những sai phạm như chưa chịu nhận tội, không chịu sửa đổi, lại không từ bỏ những ý kiến sai quấy.10
10. Xem I. B. Horner BD (Văn bản Luật tạng của thượng tọa bộ) 28, chú thích.
Tôn giả Yaśas liền rời khỏi Vaiśalī và đi tìm kiếm sự ủng hộ của những cộng đồng Tăng-già ở miền tây ấn. Những phiên bản Luật tạng ghi chép chi tiết sự vận động của tôn giả Yaśas không giống nhau nhưng thống nhất ở chỗ tôn giả Yaśas đã tìm được sự ủng hộ của cộng đồng Tăng-già ở Kauśāmbī, Mathurā (một thành phố mới hưng khởi sau này ở thượng lưu sông Yamunā) và avanti. Trải qua bao nhiêu phiền toái mới tìm được một số trưởng lão, ý kiến của họ rất đáng tôn trọng và cung thỉnh họ ủng hộ việc tuân thủ hành trì nghiêm khắc giới luật. Như vậy thấy rõ Tăng-già không có quyền lực trung tâm hoặc quyền lực cá nhân, để đưa ra lời cảnh báo, đưa ra quy chế hoặc ban hành quyết định giải quyết tranh chấp.
Những vị tỷ-kheo ở phía tây đã nhìn thấy một trong những cộng đồng Tăng-già của họ tác pháp như thế này thì vô ý nghĩa, cũng không thể ngăn cản được những vị tỷ-kheo ở Vaiśalī từ bỏ lập trường của họ và tiếp tục đưa ra cách hợp lý để bảo vệ nó. Nếu một trong những cộng đồng của họ tác pháp không đủ hiệu lực, chẳng hạn như đi đến Vaiśalī phản đối tăng đoàn vi phạm, đặc biệt để phản đối tăng đoàn lớn mạnh như ở Vaiśalī, thì cần phải triệu tập mặc dù không đầy đủ tất cả Tăng-già Phật giáo Ấn Độ, ít nhất cũng có những đại biểu đủ uy tín để tham dự hội nghị. Để đạt được điều này, họ phái sứ giả đi các hướng cung thỉnh các vị tỷ-kheo đến tham dự hội nghị ở Vaiśalī. Những vị tỷ-kheo ở Vaiśalī nghe được thông tin này cũng cố gắng tìm kiếm sự ủng hộ từ những nơi khác. Tổng cộng có đến 700 vị tỷ-kheo vân tập đến thành Vaiśalī. Thế là họ mở hội nghị của tổ chức Tăng-già thật sự, hy vọng giải quyết sự việc này (bây giờ họ có thể y theo giáo pháp thành lập một tổ chức Tăng-già trong cương giới của thành Vaiśalī, về mặt ‘đạo đức’ cũng hợp với giới luật - có thể cho rằng họ đại diện cho toàn thể Tăng-già Phật giáo; số lượng tỷ-kheo tham dự được ghi chép cẩn thận trong tất cả văn bản và rõ ràng mang nhiệm vụ to lớn).
Sự thảo luận trong hội nghị vô cùng tận (văn bản của thượng tọa bộ nói rằng không câu nào có ý nghĩa rõ ràng, nhưng đối với một hội nghị diễn ra một cách hoành tráng với 700 vị tỷ-kheo khi cho rằng nó độc nhất vô nhị thì không quá phóng đại, vẫn ám chỉ trong đó có người phi pháp). Có một vị trưởng lão được các vị tỷ-kheo ở Vaiśalī cũng như các vị tỷ-kheo đến từ phía tây rất kính trọng, kiến nghị nên thành lập một hội đồng (udvāhikā) trong đó đại biểu được chọn từ hai bên để điều tra sự việc: Có bốn vị tỷ-kheo được chọn làm đại biểu cho chư tăng ở mạn Đông (tức cộng đồng Tăng-già ở Vaiśalī) và bốn vị tỷ-kheo được chọn làm đại biểu cho chư tăng ở mạn tây. Khi tranh luận không có hồi kết thúc và ‘phát ngôn không rõ nghĩa’ - chỗ này giống với sự mô tả của thượng tọa bộ ở trên chỉ là những lời luận bàn11 - vấn đề này được đưa lên hội đồng giải quyết, dựa vào tiêu chuẩn của Luật tạng để quyết định. Lời kiến nghị này được mọi người nhất trí thông qua, hội đồng được bầu chọn, sau đó lui về chỗ trao đổi kỹ lưỡng. Những vị trưởng lão trong hội đồng đại biểu cho các vị tỷ-kheo ở mạn tây trưng dẫn Luật tạng thuyết phục mọi người về mười vấn đề mà những vị tỷ-kheo ở Vaiśalī đã làm là vi phạm giới luật, và cuối cùng họ đồng ý báo cáo theo kết quả trên. Hội đồng trình bày báo cáo này rất thận trọng, chứng cứ này sang chứng cứ khác hợp với Luật tạng, như vậy người trong hội nghị không ai có thể phản bác được. Chư tăng đều tín phục và Tăng-già chấp nhận rằng mười điều này vi phạm giới luật. Các văn bản ghi chép đều đồng ý rằng sau khi sự việc này được giải quyết xong, 700 vị tỷ-kheo cùng nhau tụng đọc lại Luật tạng như lần kết tập thứ nhất. Văn bản của Pháp tạng bộ nói rằng giáo pháp (tức Kinh điển) cũng được tụng đọc lại ở lần này, và nhiều văn bản sau này cho rằng ở lần thứ hai đã kết tập Ba tạng giáo lý, tái khẳng định hoặc định hình phạm vi của văn bản. Giữa những ghi chép về sau này, sớ giải của thượng tọa bộ chép rằng12 hắc đế aśoka vốn tín phụng chư tăng ở Vaiśalī. Đại sử (Mahāvaṃsa) nói thêm rằng13 em gái của ông ta khuyên ông ta chuyển sang ủng hộ tăng đoàn chính thống, và hội nghị này được tổ chức dưới sự bảo trợ của ông ta. Mối quan hệ của hoàng gia không phải là không thể, nhưng có lẽ dường như chỉ là sự phản ánh của sự liên hệ thời kỳ về sau giữa vua chúa và cộng đồng Phật giáo. Ở trước chúng ta đã nói đến văn bản Luật tạng của Đại chúng bộ mô tả rất giản lược về sự kiện Vaiśalī, nhưng điểm nhấn quan trọng nhất là sự kết tập tụng đọc lại Luật tạng.
11. Luật tạng thượng tọa bộ: Vin II 95 trở xuống. Những phẩm chất của một thành viên trong cộng đồng cũng có trong a V 71 trở xuống.
12. Samantapāsādikā (thiện kiến luận tỳ-bà-sa), I 33.
13. IV 31 trở xuống.