Trung Hoa Dân Quốc: Thanh triều duy trì nền chính trị truyền thống đế vương của Trung Quốc được gần 300 năm, nhưng tới sau cuộc khởi loạn “Thái Bình Thiên Quốc” thì bị quân cách mạng của Tôn Văn nổi lên, lật đổ chính quyền vào ngày 25-12-1911, và phải nhường quyền cai trị cho “Trung Hoa Dân Quốc” mới, và người kế thừa lãnh đạo đều do dòng dõi dân tộc người Hán. Vị Đại Tổng Thống lâm thời đầu tiên là Tôn Văn, tiếp đến Viên Thế Khải (1912) rồi lần lượt đến Đại Tổng Thống Lê Nguyên Hồng (1916), Đại Tổng Thống Từ Thế Xương (1918), tiếp đến Đại Tổng Thống Tưởng Giới Thạch (1928). Sau lãnh tụ Tưởng Giới Thạch của Đảng Trung Hoa Dân Quốc Bắc phạt thành công, thống nhất toàn lãnh thổ Trung Quốc. Năm 1941, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, quân Nhật Bản tiến vào nội địa Trung Hoa. Năm 1947, Trung Cộng Quân và Quốc Dân Đảng đối lập gây ra nội loạn, quân Trung Cộng chiếm cứ Thẩm Dương và lập ra chính quyền Nhân dân ở Mãn Châu, năm 1948 quân Trung Cộng lại tiến vào Bắc Kinh, rồi tràn tới Nam Kinh. Ngày 1 tháng 10 năm 1949 thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa do lãnh tụ Mao Trạch Đông làm Chủ tịch. Năm 1950 chiến tranh Thái Bình Dương kết thúc, Tổng thống Tưởng Giới Thạch phải rút về Đài Loan và duy trì chính thể Trung Hoa Dân Quốc cho tới hiện nay.
Phật giáo bị đàn áp: Sau khi chế độ quân chủ tan vỡ, chính thể Cộng hòa xuất hiện phong trào đả đảo chủ nghĩa Nho giáo (tư tưởng Khổng Mạnh bị dao động), đả phá chế độ gia tộc, vận động giải phóng phụ nữ, để thực hiện “Tự do chủ nghĩa” và “Dân chủ chủ nghĩa” nên Phật giáo cũng bị ảnh hưởng đàn áp.
Phật giáo cuối đời nhà Thanh, sau khi bị loạn Thái Bình Thiên Quốc phá hủy, cũng bị suy kém, may có cư sĩ Dương Nhân Sơn tận lực hộ trì Phật pháp. Nhưng từ cuối đời vua Đức Tông Quang Tự trở về sau, Phật giáo lại gặp nhiều sự bức hại, tài sản của tự viện phần nhiều bị tịch thu, các chùa biến thành trường học hoặc nơi hội họp công cộng, hay làm chỗ đồn trú cho quân lính. Đương thời nhờ có Ngài Kính An (1851 - 1912) chùa Thiên Đồng đứng ra vận động hộ pháp quyết tử vì đạo, nên triều đình cũng đã nhân nhượng ban bố lệnh bảo hộ tài sản các tự viện. Song lệnh đó cũng vẫn chưa được thực hiện triệt để, tiến đến chính quyền Trung Hoa Dân Quốc, Ngài Kính An lại cấp tốc tổ chức thành lập Trung Quốc Phật giáo Tổng hội tại Thượng Hải, rồi đệ đơn thỉnh cầu lên Đại Tổng thống lâm thời là Tôn Văn, xin ra lệnh bảo hộ Phật giáo. Chính phủ lâm thời đã chấp thuận lời thỉnh cầu đó, và hạ lệnh bảo hộ, nên Phật giáo cũng tạm thời được ổn định.
Cách mạng văn hóa: Chính quyền cách mạng thành lập, công nhận quyền tự do tín ngưỡng và tự do tư tưởng, nên năm Dân Quốc thứ 2 (1913) trong Hiến pháp đã quy định quyền Tự do tín ngưỡng. Nhưng từ năm Dân quốc thứ 6 trở đi, có Trần Độc Tú và Hồ Thích, Giáo sư Trường Đại học Bắc Kinh chủ trương vận động cải cách văn học, tức là đả phá lối văn cổ điển để thay thế bằng thứ văn bạch thoại mới gọi là “Bạch thoại văn học”, và cải cách tất cả những nền đạo đức cũ, lễ giáo cũ, văn minh cũ để thích ứng với các ngành học thuật triết học tôn giáo, xã hội và giáo dục mới, tức là phản kháng tư tưởng văn hóa cũ để khai triển tư tưởng văn hóa mới.
Trần Độc Tú và Ngô Ngu v.v., còn xuất bản tờ tạp chí Tân Thanh Niên để làm cơ quan tuyên truyền ngôn luận cho tư tưởng cách mạng xã hội, đả phá tư tưởng Nho giáo, hô hào cải cách chế độ gia tộc giải phóng con người. Nhưng đó chỉ là gián tiếp bài xích Phật giáo, mà nguyên nhân trực tiếp bài xích Phật giáo lại do Thai Sảng Thu, giáo sư trường Đại học Giang Tô, khởi xướng ra tư tưởng “Miếu sản hưng học” ở năm Dân quốc thứ 17 (1928). Đại khái lời tuyên ngôn của ông là: “Cần phải đả phá giai cấp tăng phiệt, hãy giải phóng cái khổ của tăng lữ ở dưới chế độ tăng phiệt, hãy tịch thu tất cả những tài sản của tự viện để bổ sung vào sự nghiệp giáo dục”. Để thực hiện mục đích đó, Thai Sảng Thu liền cấp tốc thành lập các đoàn thể, hô hào vận động ở các địa phương, nên phong trào vận động đó lan tràn khắp trong nước. Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng đó, nên năm Dân quốc thứ 17 (1928) đã ban bố điều lệ “Tự miếu đăng ký” để điều tra tất cả về tài sản của các chùa miếu, sau lại công bố sắc lệnh “Thần từ tồn phế tiêu chuẩn”, nghĩa là xét xem những thần từ nào nên để lại, những thần miếu nào nên phá đi, mục đích để bài trừ mê tín. Đó cũng là cái họa đau đớn của Phật giáo đương thời.