Tôi lái xe đến nhà hàng. Sau khi đỗ xe, tôi ngả người ra ghế nghĩ ngợi một lúc. Tôi biết Charlene đã đến và đang đợi bên trong để gặp tôi nói chuyện. Nhưng tại sao chứ? Cô ấy đã bặt vô âm tín suốt sáu năm nay. Tại sao cô ấy lại xuất hiện vào đúng lúc này, khi tôi vừa trải qua một tuần trong rừng, suy ngẫm về hướng đi tiếp theo trong cuộc đời mình?
Tôi bước xuống xe, đi bộ đến nhà hàng. Phía sau tôi, những tia nắng cuối cùng của hoàng hôn buông dần xuống phía tây, phủ lên bãi đỗ xe ẩm ướt những vệt sáng màu vàng ánh da cam. Mới một giờ trước, mọi thứ đều bị tẩm ướt bởi cơn dông ngắn bất chợt. Giờ đây, ánh hoàng hôn dần tắt phía xa khiến mọi thứ trông thật ảo diệu. Trời chiều mùa hè dịu mát và tươi mới trở lại. Trên cao, vầng trăng khuyết đang treo lơ lửng…
Vừa đi tôi vừa nhớ đến hình ảnh Charlene của những tháng ngày xưa cũ. Cô ấy vẫn còn xinh đẹp và đầy nhiệt huyết? Thời gian đã làm cô ấy thay đổi ra sao? Tôi sẽ nghĩ thế nào về Thủ bản mà cô ấy đã nói đến - cổ vật được tìm thấy ở Nam Mỹ khiến cô nóng lòng muốn kể cho tôi nghe?
“Em sẽ quá cảnh tại sân bay trong hai giờ”, cô nói qua điện thoại. “Anh đến gặp em ăn tối được không? Em đoán anh sẽ rất thích thú với những gì được viết trong Thủ bản này. Đây chính là thể loại thần bí mà anh quan tâm.”
Thể loại thần bí mà tôi quan tâm? Ý cô ấy là gì?
Bên trong nhà hàng rất đông khách. Vài người đang đợi bàn. Quản lý nhà hàng báo rằng Charlene đang đợi tôi rồi hướng dẫn tôi đến khu vực sân thượng ở phía trên nhà ăn chính.
Tôi đi lên cầu thang và thấy một đám đông đang tập trung quanh một bàn ăn. Trong đám đông đó có hai viên cảnh sát. Đột nhiên hai viên cảnh sát này quay lại, đi nhanh về phía tôi rồi chạy thẳng xuống cầu thang. Khi những người còn lại dần tản ra, tôi thấy phía sau họ là một phụ nữ vẫn đang ngồi tại bàn, có lẽ cô đang là tâm điểm của sự chú ý... Cô ấy chính là Charlene!
Tôi nhanh chóng tiến đến chỗ Charlene. “Charlene, có chuyện gì vậy? Em không sao chứ?”
Charlene quay đầu lại với vẻ mặt tức giận, nhưng khi nhìn thấy tôi, cô đứng dậy ngay, nở nụ cười rạng rỡ như ngày nào. Tôi để ý thấy tóc cô có chút thay đổi, nhưng gương mặt cô vẫn y hệt như trong trí nhớ của tôi: những đường nét thanh tú, khuôn miệng rộng, đôi mắt xanh to.
“Anh tin nổi không”, cô vừa nói vừa trao cho tôi cái ôm thân ái. “Mấy phút trước em vừa vào phòng vệ sinh thì ngoài này ai đó đã lấy mất túi xách của em.”
“Có gì trong đó không?”
“Không có gì quan trọng cả, chỉ vài quyển sách và tạp chí em mang theo đọc trong chuyến đi. Thật điên rồ. Những vị khách ở bàn khác nói có người vừa đi vào, cứ thế lấy chiếc túi rồi đi ra. Họ đã kể lại sự việc cho cảnh sát. Cảnh sát cho biết sẽ rà soát trong khu vực.”
“Có lẽ anh nên giúp cảnh sát tìm chiếc túi?”
“Không, không cần đâu. Quên chuyện đó đi anh. Em không có nhiều thời gian và em muốn nói chuyện với anh.”
Tôi gật đầu đồng ý. Charlene đề nghị chúng tôi ngồi xuống. Người phục vụ đến nên chúng tôi xem thực đơn rồi chọn món. Sau đó, chúng tôi nói chuyện, hỏi thăm nhau trong khoảng mười, mười lăm phút. Tôi cố không để cho Charlene thấy tình trạng đơn độc hiện tại của mình, nhưng Charlene đã nhận ra vẻ đăm chiêu ở tôi. Cô chồm người về phía tôi và lại nở nụ cười quen thuộc.
“Thật sự thì đã có chuyện gì xảy ra với anh vậy?”, cô hỏi.
Tôi nhìn sâu vào mắt cô như cách cô đang nhìn tôi lúc này. “Em thật sự muốn nghe toàn bộ câu chuyện?”
“Tất nhiên rồi”, cô đáp.
“Ồ, thật ra hiện tại anh đang dành thời gian cho bản thân và đang sống cạnh bờ hồ. Anh đã luôn làm việc cật lực và giờ đây anh đang nghĩ đến việc thay đổi hướng đi đời mình.”
“Em nhớ trước đây anh đã kể về căn nhà bên hồ này. Em cứ tưởng anh và chị anh đã bán nó rồi.”
“Vẫn chưa, nhưng vấn đề là thuế tài sản. Khu đó quá gần thành phố, nên thuế cứ tiếp tục tăng.”
Cô gật gù. “Vậy sắp tới anh định làm gì?”
“Anh cũng chưa biết, chắc một việc gì đó khác.”
Cô nhìn tôi hiếu kỳ. “Có vẻ anh cũng như nhiều người, luôn thấy bất mãn và tìm kiếm điều gì đó?”
“Chắc vậy”, tôi đáp. “Mà sao em hỏi vậy?”
“Thủ bản nói vậy.”
Sự im lặng đột ngột bao trùm khi tôi đáp lại cái nhìn của cô.
“Kể anh nghe về Thủ bản này đi”, tôi nói.
Charlene ngả người ra ghế như để tập hợp các ý tưởng, rồi lại nhìn vào mắt tôi.
“Lúc nói chuyện qua điện thoại, em có kể với anh rằng em đã rời tòa soạn cách nay vài năm và chuyển sang làm cho một công ty nghiên cứu chuyên thực hiện các khảo sát cho Liên Hợp Quốc về những biến chuyển trong văn hóa và nhân khẩu học. Đợt công tác gần đây nhất của em là ở Peru.
“Trong thời gian ở đó để hoàn thành một số nghiên cứu tại Đại học Lima, em cứ nghe mọi người bàn tán xôn xao về việc đã phát hiện được một Thủ bản cổ xưa, nhưng không ai có thể cung cấp cho em bất kỳ thông tin chi tiết nào về Thủ bản đó, kể cả những người trong khoa khảo cổ học và nhân chủng học của trường. Khi em liên hệ chính phủ để tìm hiểu về Thủ bản, họ phủ nhận mọi thông tin.
“Có người nói với em rằng chính phủ đang dùng mọi cách để ngăn chặn việc lưu hành tài liệu này vì một số lý do. Dù vậy, bản thân người này cũng chỉ nghe người khác nói lại.”
Charlene tiếp tục: “Anh biết em mà, em là một người hiếu kỳ. Sau khi hoàn thành công việc, em quyết định ở lại Peru thêm vài ngày để xem có thể tìm được thông tin gì không. Ban đầu, mọi manh mối em theo đuổi đều đi vào ngõ cụt, nhưng khi em đang ăn trưa tại một quán cà phê bên ngoài Đại học Lima, em để ý thấy một linh mục đang âm thầm quan sát em. Sau vài phút, vị linh mục bước đến chỗ em ngồi và nói rằng sáng hôm đó ông có nghe nói em đang tìm hiểu về Thủ bản. Ông ấy không tiết lộ danh tính nhưng đồng ý trả lời mọi câu hỏi của em”.
Cô ngập ngừng giây lát trong khi vẫn nhìn tôi chăm chú. “Vị linh mục nói rằng Thủ bản có niên đại từ năm 600 trước Công nguyên và Thủ bản tiên đoán rằng sẽ có một cuộc chuyển hóa quy mô lớn trong xã hội loài người.”
“Khi nào cuộc chuyển hóa đó bắt đầu?”, tôi hỏi.
“Trong những thập niên cuối của thế kỷ hai mươi.”
“Thời của chúng ta?!”
“Đúng vậy, thời của chúng ta.”
“Đó là kiểu chuyển hóa gì?”, tôi hỏi lại.
Charlene có vẻ hơi lúng túng trong giây lát, nhưng sau đó cô nói tiếp: “Vị linh mục nói đó là một hình thức phục hưng trong tâm thức của chúng ta, đang diễn ra rất chậm. Bản chất cuộc chuyển hóa không liên quan đến tôn giáo, nhưng nó là sự chuyển hóa về mặt tâm linh. Chúng ta sẽ phát hiện ra điều gì đó thật mới mẻ về sự sống của loài người trên hành tinh này, về ý nghĩa sự tồn tại của chúng ta. Theo vị linh mục, những tri thức này sẽ tạo ra một sự thay đổi lớn lao trong nền văn hóa nhân loại”.
Charlene dừng lại lần nữa rồi nói tiếp: “Vị linh mục nói rằng Thủ bản được chia thành nhiều phần hoặc chương, mỗi phần dành riêng cho một sự khai sáng nhất định về cuộc sống. Thủ bản dự đoán trong khoảng thời gian này, con người sẽ lần lượt đạt đến những sự khai sáng nói trên, từ sự khai sáng này đến sự khai sáng khác. Trong quá trình đó, chúng ta chuyển dần từ lối sống hiện nay sang một nền văn hóa hoàn toàn tâm linh trên Trái đất này”.
Tôi lắc đầu, nhướng mày hoài nghi: “Em thật sự tin tất cả những điều này?”.
“À. Em nghĩ là…”
“Em nhìn xung quanh xem”, tôi ngắt lời, chỉ vào đám đông đang ngồi trong phòng ăn bên dưới. “Đây là thế giới hiện thực. Em có thấy sự thay đổi nào đang diễn ra không?”
Ngay khi tôi vừa nói xong, có một sự náo động xảy ra ở một bàn ăn cạnh bức tường ở cách xa chúng tôi. Tôi không rõ sự việc thế nào, nhưng âm thanh phát ra từ đó đủ lớn để khiến mọi người trong phòng im bặt. Ban đầu tôi nghĩ chắc lại một vụ trộm khác xảy ra, nhưng một lúc sau tôi nhận ra đó chỉ là một cuộc cãi vã. Một người phụ nữ chừng ba mươi tuổi có vẻ tức giận đang đứng nhìn chằm chằm vào người đàn ông ngồi đối diện.
“Không”, cô hét lên. “Vấn đề ở đây là mối quan hệ của chúng ta không diễn ra theo cách mà em mong muốn! Anh có hiểu không? Hoàn toàn không!” Sau khi tự trấn tĩnh, cô vứt chiếc khăn ăn lên bàn và bỏ đi.
Charlene và tôi quay lại nhìn nhau, há hốc kinh ngạc vì sự xáo trộn diễn ra ngay khi chúng tôi đang thảo luận về những người ngồi bên dưới. Cuối cùng, Charlene hướng mắt về phía chiếc bàn mà người phụ nữ nọ vừa rời đi và nói: “Chính là thế giới hiện thực đang thay đổi”.
“Thay đổi như thế nào?”, tôi hỏi trong nỗi hoài nghi.
“Cuộc chuyển hóa đang bắt đầu với Sự Khai sáng Đầu tiên. Theo vị linh mục, sự khai sáng này trước tiên được biểu hiện ra một cách vô thức ở dạng một cảm giác bất mãn với cuộc sống.”
“Cảm giác bất mãn?”
“Vâng.”
“Vậy chúng ta đang tìm kiếm điều gì?”
“Chính là chỗ đó! Ban đầu, chúng ta không chắc mình muốn tìm kiếm điều gì. Theo Thủ bản, chúng ta bắt đầu lờ mờ nhận ra một loại trải nghiệm khác… những khoảnh khắc trong cuộc sống khi chúng ta cảm nhận điều gì đó khác biệt, sâu sắc và mang lại nhiều hứng khởi hơn. Tuy nhiên, chúng ta lại không thể xác định đó là cảm giác gì hay làm thế nào để duy trì cảm giác đó, và khi cảm giác đó kết thúc, chúng ta lại quay về với nỗi thất vọng và bất mãn với cuộc sống của mình - chúng ta quay về với cuộc sống dường như quá đỗi bình thường trước đó.”
“Em có nghĩ sự bất mãn với cuộc sống hiện tại là nguyên nhân khiến người phụ nữ đó giận dữ đến vậy?”
“Vâng. Người phụ nữ đó cũng giống như chúng ta. Tất cả chúng ta đều đang tìm kiếm để có thể cảm thấy mãn nguyện hơn với cuộc sống của mình và không chấp nhận để cho bất kỳ điều gì khiến chúng ta thất vọng. Sự tìm kiếm không ngơi nghỉ này chính là nguyên nhân đằng sau thái độ ‘tôi-trước’ được bộc lộ rõ rệt trong những thập niên gần đây, và tác động đến tất cả mọi người, từ doanh nhân Phố Wall đến các băng đảng đường phố.”
Cô nhìn thẳng tôi. “Và khi điều này xuất hiện trong các mối quan hệ, chúng ta đòi hỏi nhau quá mức khiến các mối quan hệ hầu như không mang lại sự thỏa mãn.”
Nhận định của cô gợi lại cho tôi ký ức về hai mối quan hệ gần đây của mình. Cả hai cuộc tình đều bắt đầu nồng nhiệt và đều kết thúc chỉ trong vòng một năm. Khi tôi tập trung sự chú ý trở lại vào Charlene, cô vẫn đang kiên nhẫn chờ đợi.
“Chúng ta đang thật sự làm gì với những mối quan hệ tình cảm của mình?”, tôi hỏi.
“Em đã nói chuyện với vị linh mục một lúc lâu về điều này”, cô đáp. “Vị linh mục nói rằng khi hai người ở trong một mối quan hệ quá đòi hỏi lẫn nhau, mỗi người đều kỳ vọng đối phương sống trong thế giới của mình, luôn có mặt khi mình cần để cùng tham gia vào những hoạt động mà mình là người quyết định, thì một cuộc chiến giữa những ‘cái tôi’ chắc chắn sẽ xảy ra.”
Điều cô ấy nói khiến tôi vỡ lẽ. Hai mối quan hệ gần đây của tôi quả thật đã biến chuyển theo chiều hướng tiêu cực và trở thành những cuộc chiến quyền lực. Trong cả hai cuộc tình, mối quan hệ của chúng tôi đều nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Mối quan hệ của chúng tôi tiến triển quá nhanh, vì vậy chúng tôi dường như không có thời gian để dung hòa những ý kiến khác nhau về những điều muốn làm, những nơi muốn đến, những thú vui cùng theo đuổi. Cuối cùng, việc ai là người dẫn dắt, ai là người đưa ra quyết định, đã trở thành một vấn đề không thể giải quyết.
Charlene tiếp tục: “Thủ bản nói rằng vì cuộc chiến giành quyền kiểm soát này mà chúng ta sẽ thấy rất khó để ở lâu bên một người như ta mong muốn”.
“Hình như chuyện này không liên quan đến tâm linh cho lắm”, tôi nhận định.
“Em cũng đã nói y như thế với vị linh mục”, Charlene đáp. “Ông ấy nói hãy nhớ rằng tuy đa phần những căn bệnh phát sinh gần đây trong xã hội đều có nguyên nhân từ sự bất mãn và cuộc tìm kiếm không mệt mỏi này, nhưng vấn đề chỉ là tạm thời, và sớm muộn sẽ kết thúc. Cuối cùng, chúng ta ngày càng tỉnh thức hơn về những gì mình thật sự tìm kiếm, về trải nghiệm khác biệt, sâu sắc mà chúng ta đã nói ở trên thật sự là gì. Khi nhận thức được trọn vẹn điều chúng ta thật sự tìm kiếm, chúng ta sẽ lĩnh hội được Sự Khai sáng Đầu tiên.”
Khi người phục vụ mang đồ ăn đến và rót thêm rượu vào ly, chúng tôi dừng cuộc trò chuyện vài phút để nếm thử thức ăn của nhau. Lúc rướn người qua bàn để lấy một miếng cá hồi từ đĩa của tôi, Charlene vừa chun mũi vừa cười khúc khích. Tôi cảm thấy thật dễ chịu khi ngồi cùng cô lúc này.
Tôi tiếp tục cuộc trò chuyện: “Vậy chúng ta đang thật sự tìm kiếm trải nghiệm gì? Sự Khai sáng Đầu Tiên là gì?”.
Cô ngập ngừng, dường như không biết phải bắt đầu thế nào.
“Điều này thật khó giải thích”, cô nói, “nhưng vị linh mục diễn giải thế này. Ông ấy nói rằng Sự Khai sáng Đầu Tiên diễn ra khi chúng ta trở nên ý thức về những sự việc tình cờ xảy đến trong đời mình.”
Cô nghiêng người về phía tôi. “Anh đã bao giờ có linh cảm hoặc trực giác liên quan đến những việc mình muốn làm chưa? Một vài hướng đi anh muốn vạch ra trong cuộc sống? Và anh tự hỏi liệu điều đó có thể xảy ra như thế nào? Sau đó, anh quên bẵng đi những việc này và tập trung vào những việc khác, và đột nhiên khi anh gặp ai đó, đọc được điều gì đó hoặc đi đến một nơi nào đó, anh được dẫn dắt để tìm thấy đúng những cơ hội mà anh đã hình dung ra từ trước?”
Cô nói tiếp: “Theo vị linh mục, những sự việc trùng hợp ngẫu nhiên đang diễn ra ngày càng thường xuyên hơn và khi xuất hiện, những sự việc tình cờ đó khiến ta vô cùng kinh ngạc vì vượt xa ngoài mong đợi. Ta cảm thấy mọi chuyện như đã được định sẵn, như thể cuộc đời ta được dẫn lối bởi một số nguồn lực không thể nào giải thích nổi. Trải nghiệm này khơi dậy trong ta những cảm xúc đầy bí ẩn và niềm hứng khởi đặc biệt. Kết quả là, chúng ta cảm thấy tràn đầy sức sống hơn bao giờ hết.
“Vị linh mục nói với em đây là trải nghiệm mà chúng ta đã mơ hồ nhận ra trong tâm trí mình và bây giờ chúng ta đang tìm kiếm bằng mọi cách để trải nghiệm đó xảy ra. Nhiều người ngày càng nhận ra trong cuộc sống của mình rằng sự vận động bí ẩn này thật sự tồn tại và mang một ý nghĩa nào đó, rằng một điều gì khác đang tiếp diễn bên dưới đời sống thường nhật. Nhận thức này là Sự Khai sáng Đầu Tiên”.
Cô nhìn tôi chờ đợi, nhưng tôi không nói gì.
“Anh có thấy vậy không?”, cô hỏi. “Sự Khai sáng Đầu Tiên là việc nhìn nhận lại và nhận ra điều bí ẩn vẫn hằng tồn tại bao trùm lên đời sống của mọi cá thể trên hành tinh này. Chúng ta đang trải nghiệm những tình huống trùng hợp ngẫu nhiên đầy bí ẩn, và dù chưa hiểu tường tận, ta biết rằng những chuyện khó tin đó thật sự đã diễn ra. Chúng ta giống như quay về thời thơ ấu, một lần nữa cảm nhận được rằng vẫn còn một khía cạnh cuộc sống mà chúng ta chưa khám phá, một quy trình khác đang vận hành đằng sau sân khấu cuộc đời này.”
Charlene chồm hẳn người về phía tôi, vừa hào hứng khua tay vừa nói.
“Em thật sự quan tâm đến những điều này?”, tôi hỏi.
Cô nói với vẻ mặt nghiêm túc: “Em nhớ có một thời gian, anh từng chia sẻ về những loại trải nghiệm như thế này”.
Câu nói của cô khiến tôi ngây người ra. Cô nói đúng. Thật sự tôi từng có giai đoạn trải qua những chuyện trùng hợp ngẫu nhiên như vậy và thậm chí đã cố gắng hiểu những chuyện đó theo hướng tâm lý học. Trên hành trình cuộc đời, cách nhìn cuộc sống của tôi đã thay đổi. Vì một lý do nào đó, tôi đã bắt đầu cho rằng những linh cảm này là thiếu trưởng thành và phi thực tế, và hầu như tôi không còn lưu tâm đến trực giác của mình nữa.
Tôi nhìn Charlene và nói một cách dè dặt: “Có thể vào thời điểm đó, anh đang đọc về triết học phương Đông hoặc Chủ nghĩa thần bí Cơ đốc giáo. Chắc vì vậy mà em nhớ anh có đề cập đến những điều này. Dù sao cái mà em gọi là Sự Khai sáng Đầu Tiên đã được đề cập đến nhiều lần, Charlene à. Bây giờ có gì khác? Làm sao mà việc nhận thức được những sự trùng hợp bí ẩn lại có thể dẫn đến một cuộc biến chuyển văn hóa?”.
Charlene nhìn xuống bàn trong giây lát rồi lại ngẩng lên nhìn tôi.
“Đừng hiểu nhầm ý em”, cô nói. “Chắc chắn nhận thức này đã được nhiều người trải nghiệm và mô tả trước đó. Thật ra, vị linh mục đã nhấn mạnh rằng Sự Khai sáng đầu Tiên này không phải là điều gì mới mẻ. Ông ấy nói trong suốt chiều dài lịch sử đã có những cá nhân nhận ra và tìm cách lý giải những sự trùng hợp ngẫu nhiên bí ẩn này, sau rất nhiều công trình nghiên cứu trong triết học và tôn giáo. Nhưng sự khác biệt giờ đây biểu hiện ở số lượng. Theo vị linh mục, cuộc chuyển hóa đang diễn ra trong giai đoạn này vì nhiều cá nhân có cùng nhận thức này trong cùng một thời điểm.”
“Điều ông ấy muốn nói chính xác là gì?”, tôi hỏi.
“Ông ấy nói Thủ bản chỉ ra rằng số lượng người nhận thức về những sự trùng hợp ngẫu nhiên sẽ bắt đầu gia tăng đột biến trong thập niên thứ sáu của thế kỷ hai mươi. Ông ấy nói con số này sẽ tiếp tục gia tăng cho đến gần thời điểm bắt đầu của thế kỷ tiếp theo, khi mà số lượng những cá nhân có cùng nhận thức như vậy đạt đến một ngưỡng nhất định - ngưỡng mà em nghĩ có thể hiểu là số lượng tới hạn.”
Cô tiếp tục: “Thủ bản tiên đoán rằng một khi chúng ta đạt đến số lượng tới hạn này, cả nền văn hóa sẽ bắt đầu xem xét nghiêm túc những trải nghiệm trùng hợp ngẫu nhiên. Tất cả chúng ta sẽ tự hỏi quy trình bí ẩn nào đang tiềm ẩn bên dưới đời sống con người trên hành tinh này. Khi có đủ số lượng người đặt ra câu hỏi đó trong cùng thời điểm, những sự khai sáng khác cũng sẽ được mọi người lĩnh hội, bởi theo Thủ bản, với một số lượng người nhất định cùng nghiêm túc đặt câu hỏi về những gì đang diễn ra trong cuộc sống, chúng ta sẽ bắt đầu tìm thấy câu trả lời. Những sự khai sáng khác sẽ dần được hé lộ theo trình tự”.
Cô dừng lại lấy chút thức ăn.
“Và khi chúng ta lĩnh hội thêm những sự khai sáng khác”, tôi hỏi, “thì cuộc chuyển biến văn hóa sẽ xảy ra?”
“Đó là những gì vị linh mục đã nói với em”, cô đáp.
Tôi nhìn Charlene trong giây lát, ngẫm nghĩ về ý tưởng số lượng tới hạn, rồi nói: “Em biết đấy, làm sao một Thủ bản được viết vào năm 600 trước Công nguyên lại có thể đề cập đến những kiến thức quá cao siêu như vậy?”.
“Em biết chứ”, cô đáp. “Em cũng tự hỏi điều đó. Nhưng vị linh mục đoan chắc với em rằng những học giả đầu tiên chuyển ngữ cho Thủ bản hoàn toàn bảo đảm về tính xác thực của Thủ bản. Chủ yếu vì Thủ bản được viết bằng tiếng Aram, ngôn ngữ cũng được sử dụng để viết phần lớn nội dung của kinh Cựu Ước.”
“Tiếng Aram ở Nam Mỹ sao? Làm sao Thủ bản xuất hiện ở đó vào năm 600 trước Công nguyên được?”
“Vị linh mục không biết điều đó.”
“Vậy giáo hội của ông ấy có ủng hộ Thủ bản không?”, tôi hỏi.
“Không”, cô đáp. “Ông ấy nói đa số các giáo sĩ đều quyết liệt ngăn chặn sự lưu hành của Thủ bản. Đó là lý do ông ấy không thể nói cho em biết danh tính của mình. Việc công khai nói về Thủ bản sẽ khiến ông ấy gặp nguy hiểm.”
“Ông ấy có nói tại sao đa số các giáo sĩ nhà thờ lại chống đối Thủ bản không?”
“Bởi Thủ bản thách thức toàn bộ nền tảng tôn giáo của họ.”
“Như thế nào?”
“Em không biết chi tiết. Ông ấy không bàn luận nhiều về điều này, nhưng rõ ràng những sự khai sáng khác mở rộng một số quan điểm truyền thống của nhà thờ theo cách đánh động những bậc trưởng lão, những người cho rằng mọi thứ đều đang ổn theo cách của nó.”
“Anh hiểu.”
Charlene tiếp tục: “Vị linh mục nhấn mạnh rằng ông ấy không nghĩ Thủ bản sẽ hủy hoại bất kỳ nguyên tắc nào của nhà thờ. Nếu như có một sự tác động nào đó, có lẽ Thủ bản chỉ đang làm sáng tỏ ý nghĩa của mọi thứ bằng những sự thật tâm linh này. Ông ấy đoan chắc rằng các vị lãnh đạo nhà thờ sẽ nhận ra thực tế này nếu họ đồng ý quay về cách nhìn cuộc sống như một bí ẩn cần khám phá và từ đó họ tiếp tục thấy ra những sự khai sáng khác”.
“Vị linh mục có đề cập có bao nhiêu sự khai sáng không?”
“Không, nhưng ông ấy có nói về Sự Khai sáng Thứ Hai. Ông ấy bảo Sự Khai sáng Thứ Hai là sự diễn dịch đúng hơn về lịch sử hiện đại, qua đó làm sáng tỏ hơn nữa về công cuộc chuyển hóa.”
“Ông ấy có nói chi tiết về điều này không?”
“Không, ông ấy không có thời gian. Ông ấy phải đi lo một số việc. Ông ấy và em đồng ý gặp lại nhau tại nhà ông ấy vào chiều hôm đó, nhưng khi em đến thì không thấy ông ấy đâu cả. Em chờ suốt ba tiếng nhưng vẫn không gặp được. Cuối cùng, em đành phải đi để kịp chuyến bay về nhà.”
“Vậy em đã không nói chuyện với ông ấy thêm lần nào nữa?”
“Đúng vậy. Em đã không gặp lại ông ấy.”
“Và em chưa từng nghe bất kỳ lời xác nhận nào về Thủ bản từ chính phủ?”
“Vâng.”
“Việc này xảy ra cách nay bao lâu rồi?”
“Khoảng một tháng rưỡi.”
Trong một vài phút, chúng tôi ăn trong im lặng. Cuối cùng, Charlene nhìn lên và hỏi: “Vậy anh nghĩ sao?”.
“Anh không biết”, tôi đáp. “Một mặt, anh vẫn hoài nghi về quan điểm cho rằng loài người có thể thật sự thay đổi. Nhưng mặt khác, anh thấy hào hứng khi nghĩ đến việc có một tài liệu như vậy tồn tại trên đời.”
“Ông ấy có cho em xem bản sao hoặc bất kỳ vật gì khác không?”, tôi hỏi.
“Không. Tất cả những gì em có là các ghi chú của em.”
Chúng tôi lại im lặng.
“Anh biết đấy”, cô nói, “em đã nghĩ anh sẽ hào hứng khi nghe những chuyện này.”
Tôi nhìn cô rồi đáp: “Anh nghĩ mình cần một số bằng chứng cho thấy những gì được viết trong Thủ bản là đúng”.
Charlene lại phá lên cười.
“Gì vậy?”, tôi hỏi.
“Em cũng đã nói như vậy.”
“Với ai, vị linh mục sao?”
“Vâng.”
“Vậy ông ấy đã nói gì?”
“Ông ấy nói trải nghiệm chính là bằng chứng.”
“Ý ông ấy là gì?”
“Ý ông ấy là trải nghiệm của chúng ta hợp lý hóa những điều Thủ bản nói. Khi chúng ta thật sự lắng nghe những cảm nhận bên trong mình, quan sát cách thức cuộc sống đang diễn ra trong thời điểm hiện tại, chúng ta có thể thấy rằng những ý tưởng được đề cập trong Thủ bản hoàn toàn có ý nghĩa và đáng tin.” Cô ngập ngừng. “Anh có thấy vậy không?”
Tôi suy nghĩ trong giây lát. Những điều tôi vừa nghe có thật sự hợp lý không? Có phải mọi người đều như tôi, luôn bất mãn và không ngừng tìm kiếm, và nếu vậy, liệu sự bất mãn và tìm kiếm này có xuất phát từ sự khai sáng giản đơn, từ nhận thức giản đơn được phát triển trong ba mươi năm, rằng cuộc sống còn chứa đựng một ý nghĩa sâu sắc nào đó ngoài những điều chúng ta đã biết và trải nghiệm?
Sau cùng, tôi lên tiếng: “Anh không chắc nữa. Anh nghĩ mình cần thêm thời gian để nghĩ về điều này”.
*
Tôi tản bộ ra khu vườn bên cạnh nhà hàng và dừng lại phía sau một chiếc ghế dài đối diện đài phun nước. Ngay phía bên phải, tôi có thể nhìn thấy những ánh đèn nhấp nháy phản chiếu từ sân bay và nghe được tiếng gầm phát ra từ động cơ của một chiếc máy bay đang chuẩn bị cất cánh.
“Những bông hoa này đẹp thật!”, Charlene lên tiếng từ đằng sau tôi. Tôi quay lại và thấy cô đang đi dọc theo lối đi về phía mình. Vừa đi cô vừa say sưa ngắm nhìn những hàng hoa dạ yến thảo và thu hải đường bao quanh khu vực chỗ ngồi. Cô dừng lại, đứng ngay bên tôi. Tôi đưa tay choàng qua vai cô. Những kỷ niệm chợt ùa về trong tâm trí. Nhiều năm trước, khi cả hai cùng sống tại Charlottesville, Virginia, chúng tôi thường có những buổi tối trò chuyện cùng nhau. Đa phần, chúng tôi thảo luận về những học thuyết và sự phát triển tâm lý. Chúng tôi đều thấy hào hứng với những cuộc trò chuyện như thế và vui thích vì sự có mặt của nhau. Mối quan hệ của chúng tôi vẫn luôn trong trẻo và thuần khiết như vậy.
“Em không thể nào diễn tả hết được!”, Charlene hứng khởi bộc lộ. “Gặp lại anh mới tuyệt làm sao!”
“Anh cũng vậy”, tôi đáp. “Gặp lại em làm anh nhớ lại rất nhiều kỷ niệm.”
“Tại sao chúng ta không liên lạc với nhau suốt thời gian qua?”, cô thắc mắc.
Câu hỏi của Charlene làm tôi nhớ lại khoảng thời gian đó. Tôi gặp Charlene lần cuối là khi cô nói lời chào tạm biệt và rời khỏi xe tôi. Lúc đó, tôi đang có nhiều ý tưởng mới và đang trên đường trở về quê nhà để làm việc với những trẻ em bị bạo hành nghiêm trọng. Tôi nghĩ mình đã tìm ra cách có thể giúp những đứa trẻ này vượt qua những phản ứng dữ dội, những hành vi gây ám ảnh đang kìm hãm cuộc đời các em. Tuy vậy, khi thời gian qua đi, tôi nhận thấy phương pháp tiếp cận của mình đã không thành công. Tôi phải thừa nhận giới hạn hiểu biết của bản thân. Làm thế nào để con người giải phóng bản thân khỏi quá khứ của chính mình vẫn còn là một bí ẩn chưa được mở khóa với tôi.
Nhìn lại chặng đường sáu năm qua, giờ đây tôi càng chắc chắn rằng kinh nghiệm đó rất đáng giá. Tuy nhiên, tôi cũng cảm thấy thôi thúc muốn trải nghiệm chặng hành trình tiếp theo. Nhưng tôi nên đi đến đâu và làm gì? Kể từ ngày Charlene giúp tôi sáng tỏ những ý tưởng của mình về vấn đề sang chấn tâm lý thời thơ ấu, tôi chỉ nghĩ về cô ấy một vài lần, và bây giờ, ngay lúc này, cô ấy lại xuất hiện trong đời tôi, và cuộc trò chuyện giữa chúng tôi vẫn đầy hào hứng không kém những lần trước.
“Anh nghĩ mình đã hoàn toàn bị cuốn vào công việc”, tôi nói.
“Em cũng vậy”, Charlene đáp. “Ở tòa soạn, em theo đuổi hết câu chuyện này đến câu chuyện khác. Em bận đến mức không có thời gian để ngước lên nhìn nữa. Em hầu như quên mọi thứ khác.”
Tôi siết chặt vai cô, ân cần nói: “Em biết không, Charlene, anh đã quên rằng chúng ta luôn trò chuyện thật ăn ý. Câu chuyện giữa chúng ta luôn diễn ra thật tự nhiên và thoải mái”.
Ánh mắt cô sáng lên, khóe môi thoáng nở nụ cười. Cô dường như có cùng cảm nhận với tôi. Liền sau đó, cô bộc bạch: “Em biết chứ. Trò chuyện với anh giúp em nạp thêm rất nhiều năng lượng”.
Tôi đang định nói thêm vài lời thì thấy Charlene đang nhìn chằm chằm về phía lối vào nhà hàng. Khuôn mặt cô đột nhiên tái đi, lộ rõ vẻ bất an.
“Có chuyện gì vậy?”, tôi vừa nhìn theo hướng đó vừa sốt ruột hỏi. Vài người vừa trò chuyện vừa đi về phía bãi đỗ xe, dường như không có gì bất thường cả. Tôi quay lại nhìn Charlene. Trông cô vẫn có vẻ bồn chồn không yên.
“Sao vậy, Charlene?”, tôi lại hỏi.
“Nhìn qua dãy xe đầu tiên, anh có thấy người đàn ông đang mặc áo sơ mi màu xám không?”
Tôi lại nhìn về phía bãi đỗ xe. Một nhóm khác đang đi ra khỏi bãi. “Người đàn ông nào vậy?”
Cô nhìn kỹ thêm lần nữa, rồi nói: “Em đoán ông ta đi rồi”.
Cô nhìn vào mắt tôi, nói: “Những vị khách ở các bàn khác đã mô tả người đàn ông lấy trộm túi xách của em mặc áo sơ mi màu xám, có mái tóc thưa mỏng và có râu. Hình như em vừa thấy ông ta lấp ló sau những chiếc xe ở đằng kia, theo dõi chúng ta”.
Bụng tôi thắt lại vì lo lắng. Tôi nói với Charlene rằng tôi sẽ quay lại ngay. Sau đó, tôi đến bãi đỗ xe xem xét, thận trọng không dám đi quá xa. Tôi không thấy đối tượng nào khả nghi giống như cô mô tả.
Khi tôi trở lại chỗ băng ghế, Charlene tiến đến gần tôi, khẽ hỏi: “Anh có cho rằng người đàn ông đó nghĩ em có bản sao của Thủ bản, và đó là lý do ông ta đã lấy trộm túi xách của em? Ông ta đang tìm mọi cách để lấy Thủ bản cho bằng được?”.
“Anh không biết”, tôi đáp. “Nhưng chúng ta sẽ gọi lại cho cảnh sát, tường thuật những gì em đã nhìn thấy. Anh nghĩ cảnh sát sẽ kiểm tra những hành khách trên chuyến bay của em.”
Chúng tôi đi vào trong và gọi cho cảnh sát. Khi họ đến, chúng tôi cung cấp thông tin về những gì đã xảy ra. Cảnh sát dành ra hai mươi phút để kiểm tra từng chiếc xe nhưng không thấy gì bất thường. Họ cũng đồng ý kiểm tra toàn bộ hành khách đi cùng chuyến bay với Charlene.
Sau khi cảnh sát rời đi, chỉ còn Charlene và tôi đứng trước đài phun nước.
“À, chúng ta đang nói về điều gì trước khi em nhìn thấy người đàn ông đó?”, cô hỏi.
“Em và anh đang nói về chúng ta”, tôi đáp. “Charlene, tại sao em lại liên lạc với anh để kể về tất cả những điều này?”
Cô nhìn tôi với vẻ lúng túng: “Em không biết. Khi em ở Peru và nghe vị linh mục kể về Thủ bản, tâm trí em cứ nghĩ đến anh”.
“Vậy sao?”
“Em đã không nghĩ nhiều về chuyện này”, cô tiếp tục, “nhưng sau đó, khi em trở về Virginia, mỗi lần nghĩ đến Thủ bản, em lại nghĩ đến anh. Em đã gọi anh vài lần nhưng không được. Đợt này, em được cử đi công tác tại Miami. Em phát hiện chuyến bay của em có chặng quá cảnh tại đây. Sau khi máy bay hạ cánh, em đã lục tìm số điện thoại của anh. Chức năng trả lời tự động trong điện thoại của anh báo anh đang ở gần hồ và chỉ liên lạc với anh trong trường hợp khẩn cấp, nhưng em quyết định tốt hơn hết nên gọi cho anh.”
Tôi nhìn Charlene trong giây lát, không biết phải nói gì. Cuối cùng tôi đáp: “Tất nhiên, anh cảm thấy vui vì em đã gọi”.
Charlene liếc nhìn đồng hồ. “Giờ đã trễ rồi. Em nên trở lại sân bay.”
“Anh sẽ đưa em đi”, tôi đề nghị.
Tôi lái xe đưa Charlene đến sân bay. Chúng tôi dừng lại tại nhà ga trung tâm, sau đó đi bộ đến phòng chờ sân bay. Tôi thận trọng quan sát xung quanh xem có điều gì bất thường không. Khi chúng tôi đến, máy bay đang chuẩn bị cất cánh. Viên cảnh sát chúng tôi gặp trước đó đang quan sát từng hành khách. Khi chúng tôi đến gần, anh ấy nói đã quan sát tất cả hành khách đi cùng chuyến bay với Charlene nhưng không thấy hành khách nào có vẻ ngoài giống như tên trộm được mô tả cả.
Chúng tôi cảm ơn viên cảnh sát. Sau khi anh ấy đi khỏi, Charlene quay lại nhìn tôi, mỉm cười: “Em nghĩ đến lúc em phải đi rồi”. Vừa nói cô vừa rướn người lên ôm tôi tạm biệt. “Đây là số điện thoại của em. Giữ liên lạc nhé!”
“Nghe này”, tôi nghiêm túc nói. “Em phải hết sức cẩn thận. Nếu thấy bất cứ điều gì bất thường, em phải gọi cảnh sát ngay!”
“Đừng lo cho em”, cô đáp. “Em sẽ ổn mà.”
Trong một lúc, chúng tôi nhìn sâu vào mắt nhau.
“Em định làm gì với Thủ bản?”, tôi hỏi.
“Em không biết. Chắc em sẽ theo dõi thời sự để biết thêm thông tin về Thủ bản.”
“Nếu Thủ bản bị cấm lưu hành thì sao?”
Cô nhìn tôi rồi lại phá lên cười: “Em biết ngay mà. Em đã bảo từ đầu là anh sẽ quan tâm đến Thủ bản. Vậy sắp tới anh định làm gì?”.
Tôi nhún vai: “Anh không biết. Có thể anh sẽ tìm hiểu thêm về Thủ bản”.
“Tuyệt. Nếu anh tìm thấy được gì, chia sẻ với em nhé!”
Chúng tôi tạm biệt nhau. Tôi nhìn dõi theo Charlene. Cô ngoái đầu lại, vẫy tay chào lần cuối rồi mất hút sau hành lang để lên máy bay. Tôi đi ra xe để trở về căn nhà bên hồ, chỉ dừng lại một lần trên đường để đổ xăng.
Khi về đến nơi, tôi chưa vội vào nhà mà ngồi xuống chiếc ghế dưới mái hiên. Tiếng dế, tiếng ếch kêu rộn ràng phá tan sự tĩnh lặng của màn đêm. Ở phía xa xa, tôi còn nghe văng vẳng tiếng chim đớp muỗi. Bên kia hồ, vầng trăng huyền ảo đang lặn dần xuống phía tây. Trên mặt hồ như có một dải lụa vàng bồng bềnh, hắt về phía tôi một vệt sáng dài lấp lánh.
Những chuyện xảy ra tối nay thật thú vị, nhưng trong tôi vẫn còn nhiều hoài nghi về ý tưởng về một cuộc biến chuyển văn hóa. Giống như nhiều người, tôi sinh ra, lớn lên và sống trong hệ tư tưởng của xã hội vào thập niên sáu mươi và bảy mươi và những giá trị văn hóa tâm linh của thập niên tám mươi. Tuy vậy, thật khó để nhận định về những gì đang xảy ra. Làm thế nào một nhận thức mới nào đó có thể khiến toàn nhân loại thay đổi? Tất cả những điều này dường như phi thực tế và khó khả thi. Loài người đã sống trên hành tinh này suốt một thời gian dài. Tại sao đến tận bây giờ chúng ta mới đột nhiên đạt được sự khai sáng về sự tồn tại của mình? Tôi đăm chiêu nhìn xuống hồ một lúc, sau đó tắt đèn và đi vào giường đọc sách.
*
Sáng hôm sau, tôi giật mình thức dậy khi giấc mơ tối qua vẫn còn sống động trong tâm trí. Trong một vài phút, tôi nhìn lên trần nhà định thần, nhớ lại toàn bộ giấc mơ. Trong giấc mơ, tôi cứ chạy mãi trong một khu rừng vô cùng xinh đẹp và rộng lớn, mải miết kiếm tìm điều gì đó.
Trên hành trình tìm kiếm đó, tôi bị mắc kẹt trong nhiều tình huống mà bản thân cảm thấy đầy hoang mang và mất phương hướng, không biết phải đi tiếp thế nào. Kỳ diệu thay, ngay trong những khoảnh khắc đó, luôn có một người đột nhiên xuất hiện giúp tôi nhận ra mình cần đến nơi nào tiếp theo. Mọi việc như được an bài bởi định mệnh. Tôi chưa từng biết mình đang tìm kiếm điều gì, nhưng giấc mơ tối qua đã khiến tôi tràn đầy niềm tin và hy vọng.
Tôi ngồi dậy, ngắm nhìn ánh nắng ban mai đang xuyên qua cửa sổ chiếu rọi vào căn phòng. Những tia nắng lấp lánh nhuộm vàng những hạt bụi bay lơ lửng trong không khí. Tôi đi tới kéo tấm rèm lên, nhìn ra khung cảnh bên ngoài. Ngày mới bắt đầu thật rực rỡ. Bầu trời trong xanh cùng những tia nắng vàng tỏa sáng muôn nơi. Một cơn gió thổi qua làm xào xạc những tán cây. Vào giờ này trong ngày, mặt hồ luôn gợn sóng, lấp lánh và hơi lạnh ùa qua có thể khiến bất kỳ ai ngụp lặn trong hồ cảm thấy giá buốt.
Tôi bước ra ngoài đến bên bờ hồ, nhảy xuống nước, ngụp sâu một lúc rồi ngẩng đầu lên, bơi đến giữa hồ. Tôi nằm ngửa ra trên mặt hồ ngắm nhìn dãy núi quen thuộc. Hồ nằm yên ả trong một thung lũng sâu, nơi có ba ngọn núi nhô cao sừng sững. Ông tôi đã phát hiện ra khu vực hồ và núi tuyệt đẹp này khi ông còn trẻ.
Nhiều năm đã trôi qua kể từ lần đầu ông tôi đặt chân đến dãy núi này. Lúc đó, ông tôi như một nhà thám hiểm nhỏ tuổi, một đứa trẻ xuất chúng lớn lên trong một thế giới còn nguyên sơ, hoang dã với báo, sư tử, lợn rừng và các bộ lạc người da đỏ sống trong những túp lều nguyên thủy trên sườn núi phía bắc. Khi ấy, ông tôi đã tự hứa rằng một ngày nào đó ông sẽ đến sống trong thung lũng xinh đẹp này, nơi có tới bảy con suối và nhiều cây đại thụ. Và cuối cùng, ông cũng đã thực hiện được lời hứa, dựng một căn nhà gỗ nhỏ bên hồ và ông cháu tôi đã cùng đi dạo nơi đây không biết bao nhiêu lần. Tuy chưa bao giờ hiểu thấu được tình yêu ông dành cho thung lũng này, nhưng tôi luôn cố bảo tồn nơi đây, ngay cả khi nền văn minh đang dần xâm lấn và vây lấy nó.
Từ giữa hồ, tôi có thể thấy mỏm đá nhô ra trên sườn ngọn núi phía bắc. Hôm qua, theo thói quen giống như ông tôi, tôi trèo lên mỏm đá đó, ngắm nhìn quang cảnh rộng lớn, hít vào những mùi hương dịu nhẹ, lắng nghe tiếng gió vù vù thổi trên những ngọn cây để mong tìm lại chút bình yên trong tâm hồn. Ngồi trên đó, nhìn xuống khắp mặt hồ và những tán cây sum suê ở thung lũng bên dưới, tôi dần cảm thấy thoải mái hơn, như thể nguồn năng lượng và quang cảnh nơi đây đang giúp tôi xua tan những âu lo vướng bận trong tâm trí. Vài giờ sau, tôi đã gặp và trò chuyện với Charlene, nghe cô kể về Thủ bản.
Tôi bơi về bờ rồi dồn hết sức leo lên chiếc cầu gỗ phía trước nhà. Ngồi trên cầu, tôi nghĩ ngợi về tất cả những sự việc đang diễn ra. Tôi biết những điều này thật sự khó tin. Ý tôi là, ngay khi tôi đang tạm lánh giữa chốn đồi núi này, cảm thấy thật sự chán chường với đời mình, thì đột nhiên Charlene xuất hiện, giải thích nguyên nhân của tình trạng bất mãn của tôi và đề cập đến một tài liệu cổ xưa hứa hẹn hé lộ những bí mật sâu kín về sự tồn tại của loài người.
Tuy vậy, tôi cũng cảm thấy việc Charlene xuất hiện chính là một sự kiện trùng hợp mà Thủ bản đã nói đến, một sự trùng hợp mà dường như khó có thể là ngẫu nhiên. Tài liệu cổ xưa này có thật sự đúng không? Có phải chúng ta đang dần đạt đến ngưỡng tới hạn về số người nhận thức được những sự việc xảy ra trùng hợp như thế này không, mặc dù chúng ta vẫn còn nhiều nỗi hoài nghi và lý lẽ phủ nhận? Liệu rằng có phải đã đến lúc loài người có thể hiểu được hiện tượng này và nhờ đó cuối cùng nhận ra được mục đích thật sự của đời sống?
Tôi tự hỏi nhận thức mới này là gì, và liệu Thủ bản còn đưa ra những sự khai sáng nào nữa.
Lúc này, tôi đang đối mặt với tình huống phải ra quyết định. Thủ bản khiến tôi cảm thấy một hướng đi mới đang mở ra trong đời tôi, một sự mới mẻ làm tôi thích thú. Vấn đề là tôi cần phải làm gì bây giờ. Tôi có thể vẫn như tôi đang ở đây, lúc này, hoặc tôi có thể tìm ra một hướng đi để khám phá thêm nhiều điều nữa. Tôi bất chợt cảm thấy lo lắng về mối nguy hiểm có thể xảy ra. Ai đã lấy trộm túi xách của Charlene? Có phải đó là người đang tìm mọi cách để ngăn chặn việc khám phá Thủ bản? Làm thế nào để biết được tất cả những điều này?
Tôi nghĩ một lúc lâu về những rủi ro có thể xảy ra, nhưng rồi cuối cùng phần lạc quan trong tôi vẫn thắng thế. Tôi quyết định không lo lắng nữa. Tôi sẽ hết sức cẩn thận và từ từ tìm hiểu mọi chuyện. Tôi đi vào trong, gọi cho đại lý lữ hành có nội dung quảng cáo chiếm nhiều trang nhất trên các tạp chí. Nhân viên đại lý này cho biết anh ấy có thể sắp xếp cho tôi một chuyến đi đến Peru. Hiện tại, thật tình cờ, một chuyến bay có kết hợp với dịch vụ đặt phòng tại khách sạn ở Lima còn một chỗ trống do một hành khách hủy vé. Tôi có thể được giảm giá trọn gói nếu đi chuyến bay khởi hành trong ba giờ tới.
Trong ba giờ tới ư?