Tôi nhanh chóng sắp xếp hành lý rồi phóng xe như bay trên đường cao tốc. Khi đến sân bay, tôi chỉ còn đủ thời gian để lấy vé và kịp lên chuyến bay khởi hành đi Peru. Sau khi len lỏi đi xuống các dãy ghế ở phía sau và ngồi xuống ghế của mình ở vị trí cạnh cửa sổ, tôi đột nhiên cảm thấy người mệt mỏi, chân tay rã rời.
Tôi định chợp mắt một lúc, nhưng khi nhắm mắt lại và duỗi thẳng người ra, tôi nhận thấy mình không thể thư giãn. Tôi bất chợt cảm thấy lo lắng và mơ hồ về chuyến đi. Bay đến Peru mà không chuẩn bị gì cả ư? Điều này có điên rồ không? Đến Peru, tôi sẽ đi đâu, sẽ gặp ai?
Lúc còn ở hồ, tôi đã cảm thấy hoàn toàn tự tin về hành trình phía trước, nhưng ngay lúc này, sự tự tin đó dần tan biến, chỉ còn ngập tràn nỗi hoài nghi. Cả Sự Khai sáng Đầu tiên lẫn ý tưởng về cuộc chuyển biến văn hóa giờ đây lại dường như vô cùng viển vông và phi thực tế. Suy nghĩ kỹ hơn về những điều này, tôi chợt thấy khái niệm Sự Khai sáng Thứ Hai có vẻ như cũng không hề tồn tại. Làm sao một quan điểm lịch sử mới lại giúp hình thành nên nhận thức của chúng ta về những sự việc xảy ra trùng hợp và giữ cho tâm thức cộng đồng luôn tỉnh thức về những sự việc này?
Tôi duỗi thẳng người hơn một chút nữa rồi hít một hơi thật sâu. Có lẽ đây sẽ là một chuyến đi vô ích và lãng phí nhưng chẳng hại gì cả, tôi tự kết luận như thế. Tôi chỉ đơn giản bay đến Peru, rồi sẽ lập tức quay trở về.
Máy bay đột ngột rung lên và bắt đầu lăn bánh vào đường băng. Tôi nhắm mắt, thấy hơi choáng trong lúc máy bay dần tăng tốc và bắt đầu cất cánh. Khi máy bay đạt được độ cao hành trình, tôi thở phào nhẹ nhõm và dần chìm vào giấc ngủ. Khoảng hơn ba mươi phút sau, máy bay rung lắc mạnh khiến tôi bật dậy. Sau khi định thần, tôi quyết định đi vào phòng vệ sinh.
Khi len qua khu vực quầy bar, tôi để ý thấy một người đàn ông cao lớn mang cặp kính tròn đang đứng gần cửa sổ nói chuyện với một tiếp viên. Người đàn ông quay sang nhìn tôi giây lát, rồi tiếp tục cuộc trò chuyện. Ông ấy khoảng bốn mươi lăm tuổi, mái tóc màu nâu sẫm. Ban đầu, tôi tưởng mình có quen người đàn ông này, nhưng sau khi nhìn kỹ, tôi nhận ra không phải. Khi đi ngang qua chỗ hai người đang đứng, tôi có thể nghe thấy một phần câu chuyện.
“Tôi tưởng cô đã đến Peru nhiều lần nên có thể đã nghe kể về Thủ bản”, người đàn ông nói, “nhưng dù sao cũng cảm ơn cô.” Đoạn ông ấy quay người đi về phía trước máy bay.
Tôi sững người. Người đàn ông này đang nói về Thủ bản mà tôi đang tìm kiếm? Lúc này, tôi cảm thấy rối bời, không biết nên làm gì tiếp theo. Tôi đi vào phòng vệ sinh và suy xét lại mọi việc. Một phần trong tôi muốn quên hẳn chuyện này. Có thể ông ấy đang nói về chuyện khác, chẳng hạn một nội dung trong một cuốn sách nào đó.
Tôi quay về chỗ ngồi của mình, nhắm mắt để đầu óc dịu lại một chút. Tôi thấy cũng tốt khi lúc nãy mình đã không bắt chuyện với người đàn ông kia. Nhưng rồi tôi nhớ lại khoảnh khắc đầy hào hứng mình đã trải qua khi ở hồ. Biết đâu ông ấy thật sự có thông tin về Thủ bản thì sao? Sắp tới sẽ xảy ra chuyện gì? Nếu không tìm hiểu, tôi sẽ không bao giờ biết được.
Cuối cùng, sau một hồi đắn đo, tôi quyết định đi tìm người đàn ông đó. Tôi đứng dậy, đi về phía mấy dãy ghế trước. Sau một lúc nhìn quanh, tôi thấy người đàn ông đó đang ngồi ở ghế cạnh lối đi. Ngay sau lưng ông ấy là một ghế vẫn còn trống. Tôi đi ngược về phía sau, đến chỗ tiếp viên và nói rằng nếu ghế đó còn trống thì tôi muốn chuyển chỗ ngồi. Thu xếp đồ đạc xong, tôi đến chỗ chiếc ghế trống và ổn định chỗ ngồi. Vài phút sau, tôi vỗ nhẹ vai ông ấy.
“Chào ông”, tôi mở lời. “Khi nãy tôi có tình cờ nghe ông đề cập đến Thủ bản. Có phải ông đang nói về Thủ bản được tìm thấy ở Peru không?”
Người đàn ông tỏ vẻ ngạc nhiên. Sau một hồi đắn đo, ông ấy ngập ngừng đáp: “Đúng vậy”.
Tôi giới thiệu bản thân, giải thích rằng một người bạn của tôi đến Peru trong thời gian gần đây đã cho tôi biết về sự tồn tại của Thủ bản. Sau khi nghe tôi nói, ông ấy thở phào nhẹ nhõm, đoạn giới thiệu mình là Wayne Dobson, phó giáo sư bộ môn lịch sử tại Đại học New York.
Trong khi chúng tôi đang nói chuyện với nhau, tôi để ý thấy quý ông đang ngồi cạnh mình có vẻ khó chịu. Ông ấy ngả người ra ghế, trằn trọc mãi mà không ngủ được.
“Ông đã từng nhìn thấy Thủ bản chưa?”, tôi hỏi vị giáo sư.
“Chỉ vài phần thôi”, ông ấy đáp. “Còn anh?”
“Tôi chưa từng nhìn thấy Thủ bản, nhưng đã nghe một người bạn của tôi kể về Sự Khai sáng Đầu tiên.”
Người đàn ông bên cạnh tôi ngọ nguậy, thay đổi tư thế liên tục.
Dobson thấy vậy liền từ tốn nói với ông ấy: “Chúng tôi xin lỗi vì đã quấy rầy ông. Liệu ông có phiền không nếu chúng ta đổi chỗ cho nhau?”.
“Vâng”, ông ấy đáp. “Như vậy sẽ thoải mái hơn.”
Sau đó, tôi, Dobson và vị hành khách đó đều đứng ra ngoài lối đi. Tôi nhanh chóng chuyển vào ngồi sát cửa sổ, còn Dobson ngồi ngay bên cạnh tôi.
“Kể tôi nghe những gì anh biết được về Sự Khai sáng Đầu tiên đi”, Dobson đề nghị.
Tôi ngập ngừng trong giây lát, cố gắng tóm tắt lại những gì mình đã lĩnh hội.
“Tôi cho rằng Sự Khai sáng Đầu tiên chính là sự thức tỉnh của nhân loại trước những sự việc trùng hợp bí ẩn làm thay đổi cuộc sống của mỗi cá thể, là nhận thức được rằng song song với thực tại mình đang sống còn có một quy trình nào đó đang vận hành.”
Khi nói đến đây, tôi cảm thấy mình có chút ngớ ngẩn.
Dobson nhận ra sự không thoải mái của tôi, liền hỏi: “Vậy anh nghĩ gì về sự khai sáng này?”.
“Tôi không biết”, tôi đáp.
“Anh có nghĩ rằng sự khai sáng này dường như không phù hợp với nhận thức chung trong thời đại của chúng ta? Có phải anh thấy ổn hơn khi gạt đi toàn bộ ý tưởng này và quay về lối suy nghĩ thực tế thông thường?”
Tôi phá lên cười, gật đầu xác nhận.
“Đúng vậy. Đó là xu hướng chung của tất cả mọi người. Mặc dù thường nhận thấy rõ rằng vẫn còn điều gì đó đang diễn ra trong cuộc sống hiện tại, chúng ta lại hay quay về lối suy nghĩ quen thuộc xem những ý tưởng như vậy là ngoài tầm hiểu biết, và rồi gạt bỏ hoàn toàn sự nhận thức về tất cả những điều này. Đó là lý do tại sao Sự Khai sáng Thứ Hai lại cần thiết. Một khi chúng ta thấy được nền tảng lịch sử dẫn đến nhận thức của chúng ta, mọi việc dường như hợp lý.”
Tôi gật gù. “Vậy với tư cách là một nhà sử học, ông có cho rằng lời tiên đoán của Thủ bản về một cuộc chuyển hóa toàn cầu là hoàn toàn hợp lý?”
“Đúng vậy.”
“Theo nhìn nhận của một nhà sử học?”
“Chính xác. Nhưng anh phải xem xét lịch sử theo hướng đúng đắn.”
Dobson hít một hơi thật sâu rồi nói tiếp: “Tin tôi đi, tôi nói điều này với tư cách là một người đã mất rất nhiều năm nghiên cứu và giảng dạy lịch sử theo hướng hoàn toàn sai. Tôi từng chỉ lo tập trung vào những thành tựu công nghệ của nền văn minh và những nhân vật vĩ đại đã góp phần vào sự phát triển chung này”.
“Cách tiếp cận này có gì không đúng?”
“Cũng chẳng có gì không đúng cả. Tuy nhiên, cách tiếp cận này có những hạn chế nhất định. Điểm mấu chốt thật sự quan trọng là thế giới quan của mỗi thời kỳ lịch sử, suy nghĩ và cảm xúc của con người trong từng thời kỳ đó. Tôi phải mất một khoảng thời gian dài để hiểu rõ điều này. Lịch sử nên cung cấp tri thức về một bối cảnh rộng lớn hơn đời sống của chúng ta. Lịch sử không nên đơn thuần đề cập đến sự phát triển của công nghệ, mà còn cần đề cập đến sự tiến hóa trong nhận thức của loài người. Bằng việc thấu hiểu thực trạng đời sống của những người ở thời kỳ trước, chúng ta có thể thấy rõ tại sao trong hiện tại chúng ta lại có thế giới quan như vậy. Có thể nói rằng, khi xác định được điểm xuất phát của mình trong bức tranh tổng thể về sự phát triển của nền văn minh, chúng ta sẽ nhận thức được chúng ta đang đi về đâu.”
Dobson tạm dừng giây lát, sau đó nói thêm: “Giá trị mà Sự Khai sáng Thứ Hai mang lại chính là cách nhìn nhận mới về lịch sử này, ít nhất thì theo quan điểm phương Tây là vậy. Sự Khai sáng Thứ Hai đã đặt những lời tiên đoán của Thủ bản trong một bối cảnh rộng lớn hơn. Điều này khiến chúng ta tin rằng những lời tiên đoán đó hoàn toàn hợp lý và chắc chắn sẽ xảy ra”.
Tôi thắc mắc hỏi Dobson rằng ông ấy đã tìm thấy bao nhiêu sự khai sáng. Dobson cho biết ông ấy chỉ mới tìm thấy hai sự khai sáng đầu tiên. Trong một chuyến đi ngắn đến Peru hồi ba tuần trước, ông ấy đã nghe tin đồn về Thủ bản, sau đó đã tìm hiểu kỹ và phát hiện ra hai sự khai sáng này.
Dobson tiếp tục: “Khi ở Peru, tôi đã gặp vài người xác nhận sự tồn tại của Thủ bản. Tuy vậy, những người này có vẻ vô cùng sợ hãi khi nói về Thủ bản. Họ cho biết chính phủ đã mất dần kiên nhẫn và đang thi hành những biện pháp mạnh có thể đe dọa đến tính mạng đối với bất kỳ ai sao chép hoặc lan truyền thông tin về Thủ bản đến công chúng”.
Vẻ mặt ông ấy trở nên nghiêm trọng. “Điều này khiến tôi lo lắng. Nhưng sau đó, một người phục vụ tại khách sạn đã nói với tôi rằng anh ấy có biết một vị linh mục thường hay nói về Thủ bản. Người phục vụ này cho biết vị linh mục đó đang tìm mọi cách để chống lại nỗ lực ngăn chặn sự lan truyền Thủ bản từ chính phủ. Tôi đã nhanh chóng tìm đến nơi ở của vị linh mục này.”
Dobson đột nhiên dừng lại, bất ngờ hỏi tôi: “Anh có sao không?”. Chắc trong lúc nghe ông ấy kể chuyện, tôi đã vô tình để lộ sự kinh ngạc của mình.
“Một người bạn của tôi”, tôi đáp, “người đã kể cho tôi nghe về Thủ bản, đã lĩnh hội về sự khai sáng từ vị linh mục này. Cô ấy chỉ có một lần được nói chuyện với vị linh mục về Sự Khai sáng Đầu tiên. Hai người hẹn gặp lại nhau nhưng ông ấy đã không xuất hiện.”
Dobson ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: “Có thể đó chính là vị linh mục tôi đang nói đến bởi tôi cũng không thể tìm thấy ông ấy ở đâu cả. Lúc tôi đến, căn nhà đã bị khóa và trông như bị bỏ hoang vậy”.
“Ông chưa từng gặp vị linh mục đó sao?”
“Chưa từng. Nhưng tôi quyết định nán lại đó một lúc, thăm dò xung quanh xem có manh mối gì không. Ở phía sau căn nhà, tôi thấy một nhà kho cũ đang để cửa mở. Không biết tại sao tôi lại quyết định đi vào bên trong nhà kho ấy để tìm hiểu. Cuối cùng, tôi đã tìm thấy bản dịch của Sự Khai sáng Đầu tiên và Sự Khai sáng Thứ Hai ở phía sau một đống rác, ngay bên dưới một cái bảng treo lỏng lẻo trên tường.”
Ông ấy chăm chú nhìn tôi.
“Ông chỉ tình cờ tìm thấy hai sự khai sáng này?”, tôi hỏi.
“Đúng vậy.”
“Lúc này, ông có mang theo tài liệu về hai sự khai sáng đó không?”
Dobson lắc đầu. “Không. Tôi đã quyết định nghiên cứu kỹ lưỡng các sự khai sáng này và đã để lại tài liệu cho một số đồng nghiệp.”
“Ông có thể tóm tắt về Sự Khai sáng Thứ Hai không?”, tôi đề nghị.
Dobson dừng lại một lúc lâu, sau đó mỉm cười, gật đầu đồng ý. “Tôi cho rằng đó là lý do chúng ta gặp nhau.”
Ông ấy chia sẻ: “Sự Khai sáng Thứ Hai đặt nhận thức hiện tại của chúng ta trong một bối cảnh lịch sử rộng lớn hơn. Sau tất cả, khi thập niên chín mươi kết thúc, chúng ta sẽ kết thúc không chỉ thế kỷ hai mươi mà đồng thời cả một thời kỳ lịch sử một ngàn năm. Chúng ta sẽ khép lại toàn bộ thiên niên kỷ thứ hai. Trước khi người phương Tây chúng ta có thể biết được chúng ta đang ở đâu trong hiện tại và tiên liệu được những việc sẽ xảy đến trong tương lai, chúng ta phải hiểu được những gì thật sự đã và đang diễn ra trong suốt một ngàn năm nay”.
“Chính xác thì Thủ bản nói những gì?”, tôi hỏi.
“Thủ bản nói rằng vào cuối thiên niên kỷ thứ hai - chính là lúc này đây - chúng ta sẽ có thể xem xét cả một thời kỳ lịch sử một cách toàn diện, và sẽ nhận diện được mối bận tâm chung được phát triển trong suốt nửa cuối thiên niên kỷ này, thời kỳ được xem là Thời Hiện đại. Nhận thức của chúng ta về những sự trùng hợp ngẫu nhiên trong thời điểm hiện tại chính là sự thức tỉnh từ mối bận tâm chung đó.”
“Mối bận tâm này là gì?”, tôi thắc mắc.
Dobson nhìn tôi mỉm cười ý nhị. Bằng giọng pha chút bông đùa, ông hỏi tôi: “Anh đã sẵn sàng bước vào hành trình quay về toàn bộ thiên niên kỷ chưa?”.
“Tất nhiên rồi. Tôi đã sẵn sàng.”
“Tôi không thể nói tất cả trong một khoảng thời gian ngắn được. Anh nhớ những gì tôi đã chia sẻ chứ: để hiểu được lịch sử, anh phải hiểu được thế giới quan của chính anh được hình thành và phát triển từng ngày như thế nào, rằng nó đã được tạo ra từ hiện thực đời sống của những người sống trước anh. Nhân loại đã mất hàng ngàn năm tiến hóa để nhìn nhận cuộc sống theo cách hiện tại. Vì vậy, để thật sự hiểu được vị trí hiện tại của mình, anh phải đưa bản thân quay ngược về năm 1000 rồi từ đó đi về phía trước bằng cách trải nghiệm toàn bộ thiên niên kỷ theo cách như thể anh đang thật sự sống xuyên suốt cả thiên niên kỷ chỉ trong một đời người.”
“Tôi làm điều đó bằng cách nào?”
“Tôi sẽ hướng dẫn anh.”
Tôi ngập ngừng trong giây lát, nhìn xa xăm ra ngoài cửa sổ. Cảnh vật bên dưới đang mờ nhạt dần. Giờ đây, chắc đã đến lúc tôi bắt đầu một nhận thức mới.
“Tôi sẽ thử xem”, cuối cùng tôi lên tiếng.
“Được rồi”, Dobson đáp. “Hãy tưởng tượng bản thân anh đang sống trong năm 1000, trong thời kỳ chúng ta gọi là Thời Trung đại. Đầu tiên, anh phải hiểu rằng vào thời kỳ này, các giáo sĩ trong hệ thống nhà thờ Cơ Đốc giáo đang nắm quyền cai trị xã hội. Với vị thế của mình, những giáo sĩ này có sức ảnh hưởng rất lớn đối với tư tưởng của đại chúng. Trên tất cả, thế giới hiện thực được những giáo sĩ này mô tả hoàn toàn mang tính tâm linh. Họ đã áp đặt tư tưởng của mình lên toàn thể nhân loại và tạo ra một thực tại đời sống mà trong đó định mệnh của loài người đã được an bài bởi kế hoạch của Chúa.”
Ông ấy tiếp tục: “Hãy hình dung điều này. Anh nhận thấy mình thuộc về giai cấp của cha anh - cơ bản là giai cấp nông dân hoặc quý tộc - và anh biết rằng bản thân sẽ luôn bị giới hạn trong giai cấp này. Tuy vậy, bất kể anh đang thuộc giai cấp nào hoặc đang làm một công việc cụ thể nào, anh nhanh chóng nhận ra rằng địa vị xã hội chỉ là thứ yếu so với hiện thực đời sống tâm linh được định hướng sẵn bởi các giáo sĩ.
“Anh phát hiện ra rằng cuộc sống chính là một bài kiểm tra tâm linh. Những giáo sĩ này giảng giải rằng Chúa đặt loài người ở trung tâm vũ trụ của ngài trong một thế giới toàn thể với một mục đích tồn tại duy nhất: đạt được hoặc đánh mất sự cứu rỗi linh hồn. Và trong bài kiểm tra này, anh phải lựa chọn chính xác giữa hai thế lực đối nghịch: ánh sáng thánh thiện của Chúa và bóng tối tội lỗi của quỷ dữ.
“Tuy nhiên, anh hãy hiểu rằng anh sẽ không đơn độc đối diện với thử thách. Trong thực tế, khi anh chỉ đơn thuần là một cá thể, anh không đủ năng lực để quyết định vị thế của mình trong thế giới này. Đây là thiên chức của các giáo sĩ. Những giáo sĩ này mang trọng trách diễn dịch Kinh Thánh và truyền đạt lại chi tiết những chỉ dẫn tối cao để giúp anh tự soi rọi chính mình, rằng liệu anh đang ở dưới mái vòm che chở của Chúa hay đang bị sai khiến bởi bóng tối tội lỗi của quỷ Satan. Nếu anh đi theo những chỉ dẫn đó, anh chắc chắn nhận được ân phúc ở thế giới bên kia. Nhưng nếu anh không đi theo con đường các giáo sĩ đã chỉ ra, thì điều gì sẽ xảy ra? Anh sẽ bị khai trừ khỏi giáo hội và sẽ phải lãnh nhận một hình phạt nào đó.”
Dobson chăm chú nhìn tôi. “Thủ bản nhấn mạnh rằng điều quan trọng cần hiểu ở đây là mọi khía cạnh trong đời sống của thế giới Thời Trung đại đều được định nghĩa theo phạm trù thế giới bên kia. Tất cả những hiện tượng tự nhiên và xã hội trong đời sống - từ sự xuất hiện tình cờ của một cơn dông bão hoặc một trận động đất đến sự thành công của các vụ mùa hoặc sự ra đi của một người thân - đều được sắp đặt bởi ý muốn của Chúa hoặc bàn tay của quỷ dữ. Những sự việc trên không liên quan đến thời tiết, các yếu tố địa lý, kỹ thuật canh tác hay bệnh tật. Tất cả các nhân tố này chỉ góp phần ảnh hưởng sau đó. Vào lúc này, anh đặt trọn niềm tin vào các giáo sĩ; thế giới anh đang sống đó hoàn toàn chỉ được vận hành bởi sức mạnh tâm linh.”
Ông ấy dừng lại nhìn tôi rồi hỏi: “Anh vẫn theo kịp đó chứ?”.
“Vâng. Tôi có thể hình dung ra được bức tranh hiện thực thời kỳ đó.”
“Được rồi. Bây giờ, anh hãy tưởng tượng bức tranh hiện thực đó đang dần bị xé toạc.”
“Ý ông là gì?”
“Thế giới quan của Thời Trung đại và thế giới quan của anh bắt đầu sụp đổ vào các thế kỷ mười bốn và mười lăm. Ban đầu, anh phát hiện ra rằng một số giáo sĩ có những hành vi sai phạm. Chẳng hạn, những giáo sĩ này đã bí mật phá vỡ lời thề về đức khiết tịnh hoặc nhận tiền hối lộ để bao che cho những viên chức chính phủ khi những người này không tuân theo một số điều răn trong Kinh Thánh.
“Những hành vi sai phạm này đã tác động mạnh đến nhận thức của anh, vì từ trước đến nay anh cứ cho rằng những giáo sĩ là cầu nối duy nhất giữa anh và Chúa. Hãy nhớ rằng chỉ các giáo sĩ mới được phép dịch Kinh Thánh và có thẩm quyền trong nhiệm vụ cứu rỗi linh hồn anh.
“Đột nhiên anh thấy mình đang ở giữa một cuộc nổi dậy. Một nhóm được Martin Luther dẫn dắt đang kêu gọi mọi người ly khai khỏi Giáo hội. Những người trong nhóm này cho biết rằng đạo đức của các giáo sĩ ngày càng xuống cấp trầm trọng, vì vậy họ yêu cầu chấm dứt sự thống trị tư tưởng của các giáo sĩ lên tâm trí con người. Những nhà thờ mới được thành lập dựa trên ý tưởng: mỗi người đều có quyền tiếp cận và dịch Kinh Thánh theo nguyện vọng cá nhân, không cần phải thông qua bất kỳ trung gian nào.
“Anh sẽ quan sát thấy rằng nhiều người dần mất niềm tin vào Giáo hội. Chính vì vậy, cuộc nổi dậy sẽ nhanh chóng giành được thắng lợi. Các giáo sĩ đang dần thất bại trong cuộc chiến này. Trong nhiều thế kỷ, các giáo sĩ đã luôn có quyền quyết định hướng đi cho nhân loại, và trước mắt anh lúc này, họ sắp đánh mất sự tín nhiệm của mình. Kết quả là, cả thế giới rơi vào tình trạng hoài nghi. Nhận thức chung của xã hội phương Tây về bản chất của vũ trụ và mục đích tồn tại của loài người trên hành tinh này, đã luôn được soi sáng bởi sự mô tả chi tiết của các giáo sĩ, giờ đây đang dần sụp đổ; anh và tất cả những người khác trong nền văn hóa phương Tây bắt đầu sống trong cảnh bấp bênh, đầy biến động.
“Sau tất cả, anh đã luôn quen với việc có một thế lực ngoài bản thân quyết định hướng đi cho mình, và giờ đây, khi không có được sự dẫn dắt đó, anh cảm thấy vô cùng hoang mang, lạc lối. Nếu sự mô tả của các giáo sĩ về hiện thực đời sống và lý do cho sự tồn tại của loài người là sai, vậy sự mô tả đúng là gì, đó là điều anh thắc mắc.”
Dobson dừng lại giây lát. “Anh có thấy được sự sụp đổ này ảnh hưởng đến đời sống của con người vào thời đó không?”
“Chắc hẳn họ đã cảm thấy thật bất an”, tôi đáp.
Dobson tiếp tục: “Thật sự thì, một cuộc chấn động lớn đã diễn ra trong những năm tháng đó. Thế giới quan cũ bị thách thức khắp mọi nơi. Trong thực tế, trước thập niên 1600, các nhà thiên văn học đã chứng minh được một sự thật khác hoàn toàn với điều mà các giáo sĩ rao giảng, rằng mặt trời và những vì sao không chuyển động xung quanh Trái đất; Trái đất chỉ là một tiểu hành tinh xoay quanh một mặt trời nhỏ trong một dải ngân hà chứa hàng tỷ những ngôi sao”.
Ông ấy nghiêng người về phía tôi. “Đây là một khám phá quan trọng. Loài người không còn được đặt tại vị trí trung tâm trong vũ trụ của Thượng đế. Hãy xem xét sự tác động của nhận thức mới này. Giờ đây, khi quan sát các hiện tượng thời tiết, sự sinh trưởng của cỏ cây hay cái chết đột ngột của một ai đó, anh sẽ cảm thấy vô cùng hoang mang. Trong quá khứ, có lẽ anh đã đoan chắc rằng Chúa hoặc quỷ Satan chịu trách nhiệm cho những sự việc trên. Tuy nhiên, trong hiện tại, niềm tin vững chắc của anh đã sụp đổ hoàn toàn khi thế giới quan Thời Trung đại bị phá vỡ. Tất cả những giá trị vốn được anh xem là chân lý giờ đây cần được định nghĩa lại, đặc biệt là khía cạnh liên quan đến bản chất của Thượng đế và mối quan hệ của anh với Ngài.”
Dobson tiếp tục: “Với nhận thức này, Thời Hiện đại bắt đầu. Tinh thần dân chủ phát triển rầm rộ, đồng thời đại đa số dân chúng dần mất niềm tin vào Giáo hội và hoàng gia. Những định nghĩa về vũ trụ dựa trên đức tin hoặc sự trung thành với những điều răn trong Kinh Thánh không còn được chấp nhận như một lẽ đương nhiên. Mặc dù mất đi điểm tựa vững chắc cho niềm tin của mình, chúng ta cũng không muốn mạo hiểm đặt niềm tin vào một nhóm người mới để họ lại kiểm soát cuộc sống của mình như các giáo sĩ trước đây. Nếu đang sống trong thời kỳ đó, chắc hẳn anh sẽ dự phần vào việc tạo ra một thể thức mới - đó là khoa học”.
“Khoa học?”
Dobson phá lên cười. “Anh sẽ nhìn lại vũ trụ rộng lớn đầy bí ẩn này, và cũng như những nhà tư tưởng thời đó, anh sẽ nghĩ rằng chúng ta cần một phương pháp xây dựng nhận thức chung, một cách tiếp cận có hệ thống để khám phá thế giới này. Anh sẽ gọi cách tiếp cận mới này là phương pháp khoa học. Nói một cách đơn giản, nó là sự thử nghiệm một ý niệm về cách thức vận hành của vũ trụ bằng việc từng bước đi đến một kết luận cụ thể và cuối cùng trình bày kết luận đó cho những người khác để họ đồng ý hoặc phản biện.”
Dobson tiếp tục: “Sau đó, anh sẽ trang bị cho những nhà thám hiểm phương pháp khoa học nói trên để họ đi khám phá vũ trụ theo cách tiếp cận mới này. Anh sẽ trao cho họ sứ mệnh lịch sử: khám phá thế giới, tìm hiểu cách thức nó vận hành và ý nghĩa sự tồn tại của chúng ta ở đây.
“Lúc này, anh biết rằng mình đã không còn niềm tin chắc chắn về một vũ trụ được vận hành bởi Thượng đế. Chính vì lẽ đó, anh trở nên nghi ngờ vào bản chất thật sự của Ngài. Tuy nhiên, anh cảm thấy mình đã tìm được một phương pháp, một quy trình xây dựng nhận thức chung mà nhờ đó anh có thể khám phá bản chất của vạn vật xung quanh mình, kể cả Thượng đế và mục đích tồn tại thật sự của loài người trên hành tinh này. Vì vậy, anh đã gửi những nhà thám hiểm này ra ngoài không gian vũ trụ để tìm hiểu về bản chất thật sự của những gì đang diễn ra và sau đó họ sẽ quay về tường thuật lại những điều khám phá được cho anh”.
Ông ấy dừng lại nhìn tôi, rồi tiếp tục: “Thủ bản cho biết rằng từ thời điểm này, chúng ta bắt đầu có chung một mối bận tâm và nó chính là nền tảng cho sự thức tỉnh của loài người hiện nay. Những nhà thám hiểm được gửi ra ngoài không gian để tìm hiểu một cách toàn diện về ý nghĩa tồn tại của loài người, nhưng vì sự vận hành của vũ trụ vô cùng phức tạp, họ không thể trở về Trái đất trong một sớm một chiều”.
“Mối bận tâm chung mà ông nói là gì vậy?”
“Anh hãy đặt mình vào khoảng thời gian đó một lần nữa”, Dobson đáp. “Khi phương pháp khoa học không thể mang lại một sự nhìn nhận mới về Thượng đế và mục đích sự tồn tại của loài người trên hành tinh này, toàn bộ nền văn hóa phương Tây đã bị tác động sâu sắc. Trong khi chưa tìm được lời giải đáp cho câu hỏi của mình, chúng ta cần bắt tay vào làm những công việc khác. Kết quả là, một giải pháp có vẻ vô cùng hợp lý đã xuất hiện. Chúng ta nhìn nhau rồi nói: ‘Vậy thì, trong khi chờ đợi những nhà thám hiểm quay trở lại để giúp chúng ta giải đáp những thắc mắc về tâm linh, tại sao chúng ta không tìm cách để ổn định cuộc sống trong thế giới mới này? Chắc hẳn loài người đã học được đủ tri thức để có thể khai thác thế giới mới này vì lợi ích của chính mình, vậy tại sao chúng ta không nhân lúc này làm mọi việc để nâng cao chất lượng cuộc sống và tăng cảm giác an toàn của bản thân trong cuộc sống này?’.”
Ông ấy nhìn tôi và mỉm cười. “Và đó là những gì chúng ta đã làm. Trong bốn thế kỷ! Chúng ta đã rũ bỏ cảm giác bị mất phương hướng của mình bằng cách đứng dậy làm chủ cuộc sống của mình, tập trung vào việc chinh phục và tận dụng các nguồn lực Trái đất để cải thiện cuộc sống. Đến thời điểm hiện tại, khi thiên niên kỷ này sắp kết thúc, chúng ta mới có thể nhìn nhận lại những sự việc đã xảy ra. Sự tập trung ban đầu dần dần trở thành một mối bận tâm chung. Trên hành trình thiết lập sự an toàn tài chính, sự an toàn hữu hạn trong đời sống trần tục thay thế cho sự an toàn tâm linh đã mất, chúng ta đã hoàn toàn đánh mất chính mình. Câu hỏi về lý do chúng ta có mặt trên đời này và đời sống tâm linh đang thật sự vận hành như thế nào đang dần được đặt sang một bên và đồng thời bị chối bỏ.”
Dobson chăm chú nhìn tôi, sau đó tiếp tục: “Trong quá trình chúng ta tập trung hoàn toàn vào việc thiết lập một cuộc sống thoải mái hơn và dần xem cuộc sống như vậy đã là trọn vẹn, chúng ta không còn nhớ về câu hỏi mà chúng ta từng đặt ra lúc ban đầu. Chúng ta đã quên hẳn việc mình vẫn chưa biết được mục đích loài người chúng ta tồn tại là gì”.
*
Nhìn ra ngoài cửa sổ, phía xa bên dưới, tôi có thể thấy một thành phố lớn. So với hành trình bay, tôi đoán đó là Orlando, bang Florida. Tôi bị choáng ngợp bởi vô vàn đường nét và hình khối của những giao lộ chằng chịt cùng một hệ thống kết cấu hạ tầng được quy hoạch đồng bộ mà loài người chúng ta đã xây dựng trong suốt chiều dài lịch sử. Tôi nhìn sang Dobson, thấy ông nhắm mắt, có vẻ như đang ngủ. Trong suốt một giờ, Dobson đã chia sẻ về Sự Khai sáng Thứ Hai. Sau đó, trong khi chúng tôi dùng bữa trưa, tôi đã kể cho ông ấy nghe về Charlene và nguyên nhân khiến tôi quyết định bay đến Peru. Sau tất cả mọi việc, giờ đây tôi chỉ muốn dừng lại giây lát để ngắm nhìn những đám mây đang lơ lửng giữa bầu trời và nghiền ngẫm về những điều Dobson đã nói.
“Vậy anh nghĩ sao về những điều này?”, ông ấy đột nhiên hỏi tôi, dường như vẫn còn ngái ngủ. “Anh đã lĩnh hội được Sự Khai sáng Thứ Hai chưa?”
“Tôi không chắc nữa.”
Dobson khẽ gật đầu ra chiều hiểu được cảm giác mông lung của tôi. Ông nói tiếp: “Anh có thấy mình đã có nhận thức rõ ràng hơn về thế giới loài người không? Anh có nhận ra tất cả chúng ta đã điên cuồng lao về phía trước như thế nào? Sự khai sáng này giải đáp được rất nhiều. Trong số những người anh biết, có bao nhiêu người thuộc tuýp A, những người luôn chìm đắm trong công việc hoặc mắc những chứng bệnh liên quan đến tình trạng căng thẳng và không thể sống chậm lại được? Những người này không thể sống chậm lại vì họ đã dùng chính những công việc thường ngày để làm xao lãng chính mình, để cuộc sống chỉ còn là những mối bận tâm thực tế. Họ làm vậy để né tránh việc đối diện với cảm giác mơ hồ bên trong mình về nguyên nhân tại sao họ tồn tại trên cuộc đời này”.
Dobson nói thêm: “Sự Khai sáng Thứ Hai đã mở rộng nhận thức của chúng ta về các thời kỳ lịch sử. Sự khai sáng này hướng dẫn chúng ta cách quan sát nền văn hóa không chỉ từ góc nhìn cuộc sống của cá nhân chúng ta mà trong bối cảnh của cả thiên niên kỷ. Sự Khai sáng Thứ Hai tiết lộ cho chúng ta về mối bận tâm mà mình vẫn luôn đau đáu, từ đó nó nâng chúng ta vượt lên trên mối bận tâm này. Anh vừa mới trải nghiệm một lịch sử dài hơn đời mình. Bây giờ thì anh đang sống trong một thực tại rộng lớn hơn thực tại của mình. Khi anh quan sát thế giới loài người ngay lúc này, anh có thể nhận thức rõ được mối bận tâm này, một nỗi ám ảnh sâu sắc với công cuộc phát triển kinh tế”.
“Nhưng như vậy thì có gì không tốt? Chẳng phải nhờ đó mà nền văn minh phương Tây đã phát triển lớn mạnh đó sao?”, tôi chống chế.
Dobson cười to. “Tất nhiên, anh nói đúng. Không ai nói những điều này là sai. Trong thực tế, Thủ bản đã nói rằng quá trình loài người tập trung vào phát triển kinh tế là một giai đoạn chuyển tiếp cần thiết trong công cuộc tiến hóa chung của toàn nhân loại. Tuy nhiên, giờ đây, chúng ta đã dành ra đủ thời gian cho việc xây dựng đời sống vật chất trên hành tinh này. Đã đến lúc loài người thức tỉnh khỏi vòng xoáy cuộc đời hữu hạn và xem xét lại câu hỏi muôn thuở về bản chất thật sự của toàn thể vũ trụ. Điều gì tồn tại đằng sau sự sống trên hành tinh này? Tại sao chúng ta lại có mặt ở đây?”
Tôi nhìn Dobson một hồi lâu, sau đó hỏi: “Vậy ông có nghĩ rằng những sự khai sáng còn lại sẽ đem đến cho chúng ta câu trả lời về mục đích sống thật sự của loài người?”.
Dobson ngẩng đầu lên, nghĩ ngợi. “Tôi cho rằng điều này đáng để xem xét lại. Tôi chỉ hy vọng phần còn lại của Thủ bản không bị phá hủy trước khi được chúng ta tìm thấy.”
“Làm sao chính phủ Peru nghĩ rằng họ có thể phá hủy một cổ vật quan trọng như vậy và xem như không có chuyện gì xảy ra?”, tôi hỏi.
“Họ sẽ bí mật hành động”, ông đáp. “Thông tin chính thức xác nhận Thủ bản không hề tồn tại.”
“Tôi nghĩ giới khoa học sẽ vô cùng tức giận về điều này.”
Dobson nhìn tôi đồng tình. “Đúng vậy. Đó là lý do tôi quay trở lại Peru. Tôi là người đại diện cho mười nhà khoa học nổi tiếng. Tất cả những vị này yêu cầu công khai bản gốc của Thủ bản. Tôi đã gửi thư đến các cơ quan có thẩm quyền trong chính phủ Peru để thông báo rằng tôi đang trên đường đến và rất mong nhận được sự hợp tác.”
“Tôi hiểu rồi. Tôi đang tự hỏi liệu chính phủ Peru sẽ phản ứng thế nào.”
“Có thể họ sẽ từ chối. Nhưng ít ra đây sẽ là một sự khởi đầu chính thức.”
Dobson tựa lưng vào ghế, đăm chiêu suy nghĩ, còn tôi chăm chú nhìn ra cửa sổ. Trong khi nhìn xuống quang cảnh bên dưới, tôi chợt nhận ra rằng những bộ phận cấu thành nên chiếc máy bay đang chở chúng tôi lúc này chứa đựng tất cả những thành tựu công nghệ trong suốt bốn thế kỷ qua. Chúng ta đã học được nhiều cách để khai thác các nguồn lực trên Trái đất. Tôi tự hỏi có bao nhiêu người trong rất nhiều thế hệ đã hết sức nỗ lực để tạo ra tất cả những thành tựu này và đạt đến trình độ hiểu biết mà có thể lắp ráp và vận hành một chiếc máy bay như thế; có bao nhiêu người đã dành cả cuộc đời mình chỉ để tập trung vào một khía cạnh nhỏ xíu hay chỉ một khâu chế tạo và chìm đắm trong mối bận tâm ấy suốt đời mình mà thậm chí không phút nào ngẩng đầu lên nhìn ra thế giới?
Đột nhiên, trong khoảnh khắc đó, tôi đã thấu hiểu trọn vẹn cả một chiều dài lịch sử mà Dobson và tôi đã thảo luận. Toàn bộ thiên niên kỷ qua hiện ra rõ ràng trong tâm trí tôi, như thể đó là một phần của lịch sử cuộc đời tôi vậy. Cách nay một ngàn năm, chúng ta tồn tại trong một thế giới mà loài người đã có ý niệm rõ ràng về Thượng đế và đời sống tâm linh. Về sau, chúng ta đã để mất sự nhận thức về những điều này, hoặc nói đúng hơn, chúng ta biết rằng còn rất nhiều điều chưa khám phá về vũ trụ và loài người. Vì vậy, những nhà thám hiểm đã được gửi ra ngoài không gian để tìm ra chân lý và sẽ chia sẻ những điều họ khám phá được khi quay về Trái đất. Tuy nhiên, trong suốt một thời gian quá dài chờ đợi, chúng ta đã đắm chìm vào mối bận tâm cho công cuộc tạo dựng đời sống tiện nghi vật chất, và chúng ta bị cuốn vào vòng xoáy bất tận của những giá trị đời thường hữu hạn mang lại cho chúng ta sự thoải mái, dễ chịu.
Cuối cùng, chúng ta đã tạo dựng được một đời sống tiện nghi như mong muốn. Chúng ta phát hiện ra rằng chúng ta có thể làm nóng chảy các quặng kim loại và chế tạo được bất kỳ đồ dùng nào mình mong muốn. Chúng ta đã tìm ra và khai thác nhiều nguồn năng lượng, từ hơi nước, khí đốt, đến điện năng, năng lượng phân hạch. Chúng ta đã hệ thống hóa các quy trình canh tác nông nghiệp và những phương thức sản xuất hàng loạt, đồng thời điều khiển sự vận hành những hệ thống cửa hàng khổng lồ và phát triển mạng lưới phân phối hàng hóa rộng khắp.
Trong khi chờ đợi câu trả lời về chân lý cuộc đời, mỗi chúng ta đều bị thúc đẩy lao vào công cuộc phát triển đời sống vật chất nhằm thỏa mãn những khát vọng, hoài bão riêng và bảo đảm cho sự an toàn, ổn định trong cuộc sống của mình. Chúng ta quyết định tạo ra một đời sống thoải mái, dễ chịu hơn cho bản thân và con cái. Trong suốt bốn trăm năm, chúng ta chỉ bận tâm đến việc thiết lập một thế giới có đầy đủ mọi tiện nghi vật chất tân tiến. Vấn đề ở đây là chúng ta đã quá tập trung và mải mê lao vào công cuộc chinh phục, khai thác tự nhiên để mang lại sự tiện nghi trong đời sống; chúng ta đã khiến những hệ thống tự nhiên trên hành tinh này bị ô nhiễm nghiêm trọng và đứng bên bờ vực thẳm. Chúng ta không thể tiếp tục phát triển theo cách này được.
Dobson nói đúng. Sự Khai sáng Thứ Hai giúp chúng ta nhận ra nhân loại đang thật sự sẵn sàng cho một nhận thức mới. Chúng ta đang đạt đến đỉnh cao trong mục tiêu phát triển văn hóa. Và khi chúng ta hoàn thành tham vọng mà cả tập thể loài người tập trung hướng đến trong suốt một giai đoạn lịch sử, nỗi ám ảnh xoay quanh công cuộc phát triển đời sống vật chất sẽ chấm dứt. Chúng ta sẽ ngày càng tỉnh thức hơn về những giá trị thường hằng khác. Tôi hầu như có thể nhận thấy vòng xoáy của Thời Hiện đại đang chậm lại dần khi thiên niên kỷ này đi đến hồi kết thúc. Nỗi ám ảnh khiến chúng ta điên cuồng chạy đua theo những giá trị đời thường hữu hạn trong suốt bốn trăm năm qua đã được thỏa mãn. Chúng ta đã tạo ra vô số phương tiện vật chất để bảo đảm cho sự an toàn và tiện nghi trong cuộc sống và giờ đây, dường như chúng ta đã sẵn sàng để tìm ra nguyên nhân tại sao chúng ta đã làm tất cả những việc này.
Khi quan sát những khuôn mặt của hành khách xung quanh, tôi có thể nhận thấy bằng chứng về cuộc chạy đua điên cuồng, nhưng tôi cũng phát hiện ra những dấu hiệu thoáng qua của sự thức tỉnh trong nhận thức. Tôi tự hỏi liệu có bao nhiêu người đã thật sự lưu tâm đến những sự việc trùng hợp ngẫu nhiên đầy bí ẩn?
*
Máy bay nghiêng cánh về phía trước, bắt đầu hạ dần độ cao. Tiếp viên thông báo máy bay chuẩn bị đáp xuống Lima.
Tôi để lại thông tin khách sạn cho Dobson và hỏi về nơi ông ấy sẽ lưu trú trong những ngày tới. Ông ấy cho tôi biết tên khách sạn của mình và nói chúng tôi ở cách nhau chỉ vài cây số.
“Kế hoạch sắp tới của ông là gì?”, tôi hỏi.
“Tôi cũng đang nghĩ đây”, Dobson đáp. “Chắc tôi sẽ ghé đến Đại sứ quán Mỹ trước và tiện thể trình bày về lý do tôi có mặt ở đây.”
“Được đó.”
“Sau đó, tôi sẽ nói chuyện với các nhà khoa học Peru. Nhiều nhất có thể! Các nhà khoa học tại Đại học Lima từng nói với tôi rằng họ không biết thông tin gì về Thủ bản, nhưng còn một số nhà khoa học khác đang làm việc tại các khu tàn tích có thể sẵn lòng trao đổi. Còn anh thì sao? Kế hoạch của anh là gì?”
“Tôi cũng chưa biết”, tôi đáp. “Ông có phiền không nếu tôi ghé qua chỗ ông?”
“Không phiền. Tôi cũng định đề nghị vậy.”
Sau khi máy bay hạ cánh, chúng tôi lấy hành lý, rồi hẹn gặp lại tại khách sạn của Dobson. Tôi đi ra ngoài và gọi một chiếc taxi vào lúc chạng vạng tối. Không khí lúc này khô ráo và dễ chịu. Những luồng gió mát lồng lộng thổi.
Khi chiếc taxi chở tôi bắt đầu lăn bánh, tôi để ý thấy một chiếc taxi khác ở phía sau nhanh chóng rời khỏi vị trí đỗ xe, sau đó chạy theo chúng tôi, cùng nhập vào dòng xe trên đường. Chiếc xe này tiếp tục bám đuôi chúng tôi qua một vài ngã rẽ. Sự lo lắng đột ngột xâm chiếm lấy tôi. Tôi yêu cầu anh tài xế, anh này có thể nói được tiếng Anh, không chạy thẳng đến khách sạn mà chở tôi dạo quanh một vòng thành phố. Tôi nói mình thích ngắm cảnh. Anh ấy làm theo mà không hỏi gì thêm. Chiếc xe đó vẫn còn chạy theo sau. Chuyện gì đang xảy ra vậy?
Khi chúng tôi đến khách sạn, tôi bảo anh tài xế ở lại trong xe, còn tôi mở cửa xe bước ra ngoài, giả vờ như đang trả phí. Chiếc xe đó tấp vào lề đường, đỗ tại vị trí cách chúng tôi một khoảng xa. Người đàn ông trong xe bước ra, rồi chậm rãi đi về phía khách sạn.
Tôi nhanh chóng ngồi vào xe trở lại, đóng cửa, rồi bảo anh tài xế tiếp tục chạy thẳng. Khi chúng tôi rời đi, tôi nhìn lại thấy người đàn ông đó rẽ vào một con đường, và vẫn nhìn theo chúng tôi cho đến khi chúng tôi hoàn toàn mất hút. Ngay lúc này, tôi có thể thấy rõ khuôn mặt anh tài xế qua gương chiếu hậu. Anh ấy đang chăm chú quan sát tôi, tỏ vẻ đầy căng thẳng. “Xin lỗi anh”, tôi chân thành bày tỏ. “Tôi quyết định thay đổi khách sạn.” Tôi gượng cười, rồi đưa cho anh ấy tên khách sạn của Dobson. Tuy vậy, thật tình tôi chỉ muốn chạy nhanh đến sân bay và đáp ngay chuyến bay đầu tiên trở về nhà.
Khi chúng tôi sắp đến khách sạn của Dobson thì tôi bảo anh tài xế tấp xe vào lề. “Anh ở đây chờ tôi”, tôi nói với anh ấy. “Tôi sẽ quay lại ngay.”
Lúc này, phố xá đang có nhiều người qua lại, chủ yếu là người dân bản xứ. Nhưng thỉnh thoảng tôi cũng lướt qua một vài người Mỹ và người châu Âu. Tôi cảm thấy an tâm hơn khi nhìn thấy du khách đang đi trên đường. Khi chỉ còn khoảng năm mươi mét là đến khách sạn, tôi bất giác khựng lại. Dường như có điều gì đó bất ổn! Trong lúc dừng lại quan sát, tôi đột nhiên nghe thấy tiếng súng nổ đùng đùng cùng tiếng la hét thất thanh vang khắp nơi. Đám đông phía trước tôi chạy tán loạn, đổ nhào xuống mặt đường. Vì vậy, ngay sau đó, tôi có thể thấy rõ chuyện gì đang xảy ra ở lề đường phía bên kia. Dobson đang chạy về phía tôi, mắt ông trợn ngược, lộ rõ sự hãi hùng. Một toán người đang đuổi theo ông ấy từ phía sau. Một người đàn ông nổ súng bắn chỉ thiên, ra lệnh cho Dobson dừng lại.
Dobson chạy đến gần vị trí tôi đang đứng. Sau khi nhìn kỹ và nhận ra tôi, ông ấy lập tức hét lên: “Chạy mau! Chạy mau đi!”. Tôi hoảng loạn quay người, rồi chạy xuống một con hẻm. Ở ngay phía trước, một hàng rào gỗ thẳng đứng cao gần hai mét đang chắn ngang lối đi. Khi chạy đến chỗ hàng rào, tôi dùng hết sức bình sinh bật nhảy lên cao nhất có thể để với tay bắt lấy chóp trên cùng của các thanh gỗ và đưa chân phải lên trước, vòng qua bên kia. Khi kéo được chân trái lên theo rồi nhảy qua phía bên kia hàng rào, tôi ngay lập tức nhìn lại con hẻm. Dobson đang cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng. Đạn bắn xối xả. Dobson bước loạng choạng, rồi ngã xuống.
Tôi thấy rối bời, cắm đầu chạy đi. Tôi nhảy qua nhiều đống rác và những chồng thùng carton đang nằm ngổn ngang. Một lúc sau, dường như tôi nghe thấy những tiếng bước chân ở phía sau mình nhưng tôi không dám quay lại nhìn. Ở đằng trước, ngay cuối con hẻm có lối dẫn ra một con đường. Nhiều người đang qua lại trên đường, trông họ có vẻ vẫn chưa hay biết chuyện gì đang xảy ra. Khi chạy đến ngã rẽ vào con đường đó, tôi lấy hết dũng khí liếc nhìn lại phía sau, tim tôi đập thình thịch. Nhưng tôi không thấy có ai đang chạy theo sau cả. Tôi nhanh chóng đi xuống lề đường bên tay phải, cố hòa vào dòng người đang qua lại tấp nập. Tại sao Dobson lại bỏ chạy? Tôi tự hỏi. Có phải ông ấy đã bị sát hại không?
“Đợi đã”, ai đó lên tiếng từ phía sau tôi. Tôi tiếp tục chạy nhưng ông ta đã bắt kịp và túm lấy cánh tay tôi. “Đợi đã! Tôi đã nhìn thấy tất cả. Tôi chỉ đang cố gắng giúp anh thôi.”
“Ông là ai?”, tôi hỏi, vẫn còn chưa kịp hoàn hồn.
“Tôi là Wilson James”, ông ta đáp. “Tôi sẽ giải thích sau. Chúng ta phải rời khỏi khu phố này ngay lập tức.”
Điều gì đó toát ra từ giọng nói và dáng vẻ của ông ấy làm tôi bình tâm trở lại, vì vậy, tôi quyết định đi theo ông ấy. Chúng tôi đi dọc lên con đường, rồi bước vào một cửa hàng bán các sản phẩm bằng da thuộc. Ông ấy gật đầu chào một người đàn ông đang đứng phía sau quầy hàng, sau đó dẫn tôi đến một căn phòng kín có mùi ẩm mốc ở phía sau. Ông ấy đóng cửa và khép màn lại.
Người đàn ông này khoảng sáu mươi tuổi, nhưng trông có vẻ trẻ hơn tuổi. Đôi mắt sáng, ánh lên sự tinh anh. Ông ấy có mái tóc đen và nước da nâu sẫm. Tuy ông ấy nói tiếng Anh giọng Mỹ, nhưng có vẻ là một người Peru chính hiệu. Ông ấy mặc quần jean và áo phông màu xanh da trời.
“Tạm thời, anh sẽ an toàn khi ở đây”, ông ấy trấn an tôi. “Tại sao những người đó lại đuổi theo anh?”
Tôi không trả lời.
“Có phải anh đến đây vì Thủ bản không?”, ông ấy hỏi.
“Sao ông biết?”
“Tôi đoán người đàn ông đi cùng anh cũng đến đây vì lý do đó?”
“Đúng vậy. Ông ấy tên là Dobson. Làm sao ông biết được hai chúng tôi có liên quan với nhau?”
“Tôi có một căn phòng ở phía trên con hẻm. Trong lúc đang nhìn ra ngoài cửa sổ, tôi thấy những người đó đuổi theo anh.”
“Bọn họ đã bắn trúng Dobson?”, tôi nóng lòng hỏi, nhưng trong thâm tâm lại sợ nghe câu trả lời.
“Tôi không biết nên không thể trả lời anh được”, ông ấy đáp. “Nhưng khi thấy anh đã thoát khỏi bọn họ, tôi liền chạy theo sau để gọi anh lại. Tôi nghĩ mình có thể giúp được gì đó.”
“Nhưng tại sao ông lại giúp tôi?”
Trong một lúc, ông ấy nhìn tôi như thể không biết phải trả lời thế nào. Sau đó, ông ấy tỏ vẻ ân cần. “Anh không hiểu được đâu. Khi đứng bên cửa sổ, tôi đã liên tục nghĩ về một người bạn cũ của mình. Anh ấy đã chết. Cái chết của anh ấy có liên quan đến việc anh ấy cho rằng mọi người nên biết về Thủ bản. Khi nhìn thấy những chuyện đang diễn ra tại con hẻm, tôi cảm thấy mình nên giúp anh.”
Ông ấy nói đúng. Tôi không hiểu tại sao nhưng tôi cảm thấy ông ấy đang rất thành thật. Tôi định hỏi thêm thì ông ấy nói tiếp: “Chúng ta có thể bàn về những chuyện này vào dịp khác. Tôi nghĩ bây giờ chúng ta nên chuyển đến một nơi an toàn hơn”.
“Đợi đã, ông Wilson”, tôi nói. “Tôi chỉ muốn tìm đường quay trở về Mỹ. Làm cách nào tôi có thể đi được?”
“Anh cứ gọi tôi là Wil”, ông đáp. “Tôi nghĩ anh không nên ra sân bay ngay lúc này. Nếu những người đó vẫn đang tìm kiếm anh, họ sẽ kiểm tra nơi đó. Tôi có một vài người bạn đang sống ở ngoại ô. Họ sẽ giúp anh ẩn náu. Có một vài cách để ra khỏi Peru mà anh có thể chọn. Khi anh đã sẵn sàng, họ sẽ hướng dẫn đường đi cho anh.”
Wil mở cửa phòng, kiểm tra bên trong cửa hàng, sau đó đi ra phía ngoài, nhìn quanh khắp con đường để xem có gì bất thường không. Khi quay trở vào, Wil ra hiệu cho tôi đi theo sau. Chúng tôi đi xuống đường để đến chỗ một chiếc xe jeep màu xanh. Khi vào trong xe, tôi để ý thấy trên ghế phía sau, đồ ăn, lều và vài chiếc túi đã được chuẩn bị cẩn thận như thể dành cho một chuyến đi dài ngày.
Wil lái xe đi. Trên suốt hành trình, chúng tôi chỉ im lặng. Tôi ngả người ra sau ghế nghĩ ngợi. Nỗi sợ hãi xâm chiếm lấy tôi. Tôi chưa từng nghĩ mình sẽ rơi vào hoàn cảnh như vậy. Nếu tôi bị bắt, rồi bị tống vào nhà giam của Peru, hoặc bị sát hại ngay lúc này thì sao đây? Tôi phải nhận định lại tình cảnh của mình. Hiện tại, tôi không có quần áo, nhưng có tiền mặt và một thẻ ngân hàng. Chẳng hiểu sao, nhưng tôi cảm thấy tin tưởng Wil.
“Vì sao anh và người đàn ông kia, Dobson phải không, bị những người đó truy đuổi?”, Wil hỏi.
“Tôi cũng không biết gì nhiều”, tôi đáp. “Tôi đã gặp Dobson trên máy bay. Ông ấy là một nhà sử học. Ông ấy đến đây để điều tra về Thủ bản một cách chính thức. Ông ấy đại diện cho một nhóm những nhà khoa học khác.”
Wil có vẻ ngạc nhiên. “Vậy chính phủ có biết việc ông ấy đến không?”
“Có biết. Dobson đã gửi thư đến một số quan chức chính phủ mà ông ấy muốn hợp tác. Tôi không ngờ rằng họ lại tìm cách bắt giữ ông ấy. Thậm chí ông ấy còn không mang theo bản sao của Thủ bản.”
“Ông ấy có bản sao của Thủ bản à?”
“Chỉ hai sự khai sáng đầu tiên.”
“Làm thế nào những bản sao của Thủ bản lại có thể xuất hiện ở Mỹ? Từ đâu ông ấy có được những tài liệu đó?”
“Trong một chuyến đi trước đó, ông ấy được biết rằng một vị linh mục đang có thông tin về Thủ bản. Ông ấy không thể tìm thấy vị linh mục nhưng sau đó đã phát hiện ra những bản sao của Thủ bản được giấu ở phía sau nhà của vị linh mục này.”
Wil thoáng buồn, thốt lên: “Jose”.
“Jose là ai?”, tôi hỏi.
“Anh ấy là người bạn tôi đã kể với anh, người đã bị sát hại. Anh ấy đã quyết tâm tìm đủ mọi cách để chia sẻ cho nhiều người thông tin về Thủ bản.”
“Vậy ông ấy đã gặp chuyện gì?”
“Anh ấy đã bị sát hại. Chúng tôi không biết được ai đã sát hại anh ấy. Thi thể của anh ấy được tìm thấy trong rừng, cách nhà anh ấy vài cây số. Tôi nghĩ chắc những kẻ đối đầu với anh ấy đã làm việc này.”
“Chính phủ sao?”
“Một số người trong chính phủ hoặc nhà thờ.”
“Nhà thờ của ông ấy sẽ can thiệp sâu vào việc này?”
“Rất có thể. Giáo hội đang bí mật chống lại Thủ bản. Một vài linh mục hiểu được nội dung của Thủ bản và bí mật ủng hộ tài liệu này, nhưng họ đều phải hết sức thận trọng. Jose đã công khai thảo luận về Thủ bản với bất kỳ người nào quan tâm. Trước khi Jose bị sát hại, tôi đã liên tục cảnh báo anh ấy hãy chia sẻ về Thủ bản một cách kín đáo hơn và ngừng việc cung cấp bản sao của Thủ bản cho những người tìm đến. Jose bảo rằng anh ấy đang làm những việc đúng đắn.”
“Thủ bản được phát hiện lần đầu vào lúc nào?”, tôi hỏi.
“Thủ bản được dịch lần đầu cách nay ba năm. Nhưng không người nào biết được Thủ bản được phát hiện lần đầu vào lúc nào. Chúng tôi cho rằng bản gốc của Thủ bản đã trôi nổi trong nhiều năm giữa các thổ dân da đỏ trước khi được Jose tìm thấy. Anh ấy đã tự mình tìm cách để dịch tài liệu đó. Dĩ nhiên, sau khi nhà thờ biết được nội dung của Thủ bản, họ đã tìm mọi cách để cấm cản Thủ bản một cách triệt để. Hiện tại, chúng tôi chỉ đang giữ những bản sao của Thủ bản. Chúng tôi cho rằng những người đó đã phá hủy bản gốc.”
Wil lái xe đi về hướng đông. Lúc bấy giờ, chúng tôi đã ra khỏi thành phố và đang đi trên một con đường hẹp có hai làn đường. Chúng tôi vừa băng qua một khu vực có hệ thống tưới tiêu dày đặc, sau đó là một vài căn nhà gỗ nhỏ, rồi đến một cánh đồng rộng lớn có mạng lưới hàng rào vững chắc.
“Dobson đã chia sẻ với anh về hai sự khai sáng đầu tiên chưa?”, Wil hỏi.
“Ông ấy đã nói cho tôi về Sự Khai sáng Thứ Hai”, tôi đáp. “Một người bạn của tôi đã chia sẻ với tôi về Sự Khai sáng Đầu tiên. Trước đó cô ấy đã nói chuyện với một vị linh mục, tôi nghĩ có thể là Jose.”
“Anh có hiểu hai sự khai sáng này không?”
“Tôi nghĩ là có.”
“Anh có hiểu rằng những cuộc gặp gỡ đầy ngẫu nhiên thường chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc hơn chúng ta tưởng?”
“Hình như là vậy”, tôi đáp, “chẳng hạn như toàn bộ chuyến đi này, những chuyện trùng hợp ngẫu nhiên cứ thế xảy ra.”
“Những chuyện này bắt đầu xảy ra một khi anh trở nên tỉnh thức hơn và có thể kết nối được với nguồn năng lượng.”
“Kết nối với nguồn năng lượng?”
Wil mỉm cười. “Đó là những gì được đề cập sâu hơn trong Thủ bản.”
“Tôi muốn nghe ông nói nhiều hơn về những điều này”, tôi bày tỏ.
“Chúng ta sẽ nói những chuyện này vào lúc khác”, vừa nói ông vừa gật đầu ra hiệu rằng chúng tôi đã đến nơi, và ông rẽ sang một lối đi rải sỏi dẫn vào một căn nhà. Một căn nhà khung gỗ nhỏ khiêm tốn đang ở ngay phía trước, cách chúng tôi khoảng ba mươi mét. Wil lái xe đến chỗ một cái cây lớn ở bên phải căn nhà và dừng ở đó.
Ông ấy tiếp tục: “Tôi có một người bạn đang làm việc cho một chủ đất. Ông này sở hữu rất nhiều đất đai trong vùng và đã lo liệu cho chúng ta được ở căn nhà này. Người đàn ông đó rất có uy tín và đang bí mật ủng hộ Thủ bản. Anh sẽ được an toàn khi ở đây”.
Ánh đèn trước hiên nhà chập chờn. Một người đàn ông béo lùn, có vẻ là người Peru bản xứ, rảo bước nhanh về phía chúng tôi, vừa tươi cười hớn hở vừa nói đôi ba điều thú vị gì đó bằng tiếng Tây Ban Nha. Sau khi đến chỗ chiếc xe jeep, anh ấy đưa tay qua khung cửa xe đang mở, vỗ vào lưng Wil rồi liếc nhìn tôi đầy thiện cảm. Wil đề nghị anh ấy nói bằng tiếng Anh, rồi giới thiệu chúng tôi với nhau.
“Anh bạn này cần được giúp đỡ”, Wil nói với người đàn ông đó. “Anh ấy muốn quay trở lại Mỹ nhưng cần phải hết sức cẩn thận. Chắc tôi sẽ để anh ấy ở lại chỗ anh.”
Người đàn ông nhìn Wil chăm chú, rồi hỏi: “Ông định sẽ lại tiếp tục tìm kiếm Sự Khai sáng Thứ Chín sao?”
“Đúng vậy”, Wil đáp, rồi bước ra khỏi chiếc jeep.
Tôi mở cửa xe, đi vòng qua chiếc jeep. Wil và người đàn ông đó vừa trò chuyện vừa chậm rãi đi về phía căn nhà. Tôi không thể nghe được cuộc trò chuyện của họ.
Khi đi tới gần, tôi nghe người đàn ông đó nói: “Tôi sẽ bắt đầu chuẩn bị”. Sau đó, anh ấy rời đi. Wil quay lại nhìn tôi.
Tôi thắc mắc: “Tại sao anh ấy lại hỏi ông về Sự Khai sáng Thứ Chín?”.
“Còn một phần của Thủ bản vẫn chưa được tìm thấy. Bản gốc của tám sự khai sáng đã được phát hiện, nhưng sự khai sáng mà chúng ta đang đề cập đến, Sự Khai sáng Thứ Chín, vẫn chưa được tìm ra. Nhiều người vẫn đang tìm kiếm sự khai sáng này.”
“Ông có biết Sự Khai sáng Thứ Chín đang ở đâu không?”
“Tôi cũng không rõ lắm.”
“Vậy làm sao ông có thể tìm được?”
Wil mỉm cười. “Tương tự như cách Jose đã tìm được bản gốc của tám sự khai sáng, cũng như anh đã tìm thấy hai sự khai sáng đầu tiên và sau đó tình cờ gặp tôi. Nếu ta có thể kết nối và phát triển đủ năng lượng, thì những sự kiện trùng hợp ngẫu nhiên cứ tuần tự xảy ra một cách nhất quán.”
“Hãy chỉ cho tôi cách để điều đó xảy ra”, tôi đề nghị. “Điều ông vừa nói nằm trong sự khai sáng nào?”
Wil nhìn tôi như thể đang xem xét mức độ lĩnh hội của tôi về Thủ bản. “Cách thức để kết nối nguồn năng lượng không chỉ được đề cập trong một sự khai sáng, mà ở trong tất cả sự khai sáng. Anh hãy nhớ lại Sự Khai sáng Thứ Hai đã mô tả như thế nào về việc những nhà thám hiểm được gửi ra ngoài vũ trụ, dùng phương pháp khoa học để khám phá ý nghĩa của cuộc sống loài người trên hành tinh này. Nhưng họ không thể quay trở lại ngay lập tức, đúng không?”
“Đúng vậy.”
“Những sự khai sáng còn lại chứa đựng những câu trả lời mà loài người vẫn luôn mong chờ trong suốt mấy trăm năm qua. Nhưng những lời giải đáp đó không đến từ những kết quả nghiên cứu khoa học. Những câu trả lời đến từ sự tìm kiếm trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Tất cả những kết quả nghiên cứu và khám phá trong các lĩnh vực vật lý học, tâm lý học, thần bí học và tôn giáo góp phần hình thành nên một nhận thức mới dựa trên nhận thức về những sự kiện trùng hợp xảy ra.
“Chúng ta đi vào nghiên cứu chi tiết ý nghĩa của những sự kiện trùng hợp, cách chúng vận hành và trong quá trình nghiên cứu này, chúng ta đồng thời xây dựng một thế giới quan tổng thể mới, thông qua từng sự khai sáng.”
“Tôi muốn nghe ông nói cụ thể về từng sự khai sáng”, tôi đề nghị. “Ông có thể giải thích cho tôi tất cả trước khi đi được không?”
“Tôi đã nhận ra rằng chúng ta không nhận thức sự khai sáng theo cách đó. Mỗi sự khai sáng phải được khám phá bằng một cách khác nhau.”
“Bằng cách nào?”
“Mọi việc chỉ đơn thuần xảy ra. Nếu tôi chia sẻ với anh, anh chỉ có được thông tin về từng sự khai sáng nhưng bản thân anh lại không được khai sáng. Anh phải khám phá các sự khai sáng bằng trải nghiệm của chính cuộc đời mình.”
Chúng tôi im lặng nhìn nhau. Wil mỉm cười. Sau khi nói chuyện với ông, tôi cảm thấy vô cùng phấn chấn.
“Tại sao ông lại tìm kiếm Sự Khai sáng Thứ Chín vào lúc này?”, tôi hỏi.
“Lúc này là thời điểm phù hợp. Ở đây tôi là người hướng dẫn; đồng thời, tôi nắm vững địa hình khu vực và tôi thấu hiểu được tất cả tám sự khai sáng ban đầu. Lúc đứng bên cửa sổ trong căn nhà trên con hẻm và suy nghĩ về Jose, tôi đã quyết định đi về phương bắc một lần nữa. Sự Khai sáng Thứ Chín hiện đang được cất giấu ở đó. Tôi biết chắc điều này. Tôi đã lớn tuổi rồi. Đồng thời, tôi còn hình dung ra viễn cảnh mình tìm thấy Sự Khai sáng Thứ Chín và hiểu được trọn vẹn thông điệp mà sự khai sáng này mang đến. Tôi biết rằng đây là sự khai sáng quan trọng nhất trong chín sự khai sáng. Sự Khai sáng Thứ Chín giúp khai mở tất cả những sự khai sáng trước đó, đưa đến nhận thức cốt lõi về mục đích thật sự của cuộc sống loài người trên hành tinh này.”
Đột nhiên, Wil không nói nữa, nét mặt trầm hẳn xuống. “Lẽ ra tôi đã rời đi trước đó ba mươi phút rồi, nhưng lúc ấy trong lòng tôi lại thấp thỏm không yên, cảm giác như bỏ quên điều gì đó.” Wil lại im lặng trước khi nói tiếp. “Đúng lúc đó, anh xuất hiện.”
Chúng tôi nhìn nhau một lúc lâu.
“Ông có nghĩ rằng tôi sẽ đi với ông không?”, tôi hỏi.
“Vậy anh nghĩ sao?”
“Tôi không biết”, tôi đáp, lòng rối bời với cảm giác không chắc mình muốn gì. Câu chuyện về chuyến đi Peru chợt lướt qua tâm trí tôi: Charlene, Dobson và bây giờ là Wil. Tôi đã đến Peru vì một chút hiếu kỳ và bây giờ tôi lại thấy mình đang trốn chạy. Một cuộc trốn chạy bất ngờ, không hề được định trước. Thậm chí, tôi còn không biết gì về những người đang truy đuổi mình. Sau tất cả, điều lạ lùng nhất là vào chính khoảnh khắc này, thay vì cảm thấy sợ hãi, tôi lại đang ngập tràn trong sự hứng khởi. Lẽ ra, tôi nên tập trung toàn bộ sức lực và tâm trí để kiếm đường trở về nhà, vậy mà ngay lúc này, tôi thật sự muốn đồng hành cùng Wil để bước vào một hành trình chắc chắn còn nhiều hiểm nguy hơn nữa.
Khi đang cân nhắc để đưa ra quyết định, tôi chợt nhận thấy rằng trong tình thế hiện tại, tôi không còn sự lựa chọn nào khác. Sự Khai sáng Thứ Hai đã chấm dứt mọi khả năng tôi quay trở lại vòng xoáy cũ với những mối bận tâm đời thường. Nếu tôi muốn duy trì sự tỉnh thức này, tôi chắc hẳn phải tiếp tục hành trình này.
“Tối nay, tôi định sẽ ở lại đây”, Wil thông báo. “Vì vậy, từ giờ đến sáng mai, anh sẽ có thêm thời gian để suy nghĩ trước khi quyết định.”
“Tôi đã quyết định rồi”, tôi trả lời Wil. “Tôi muốn đi cùng ông.”