• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Lửa biên thùy
  3. Trang 18

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 17
  • 18
  • 19
  • More pages
  • 40
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 17
  • 18
  • 19
  • More pages
  • 40
  • Sau

Chương 14

Đ

êm đó, Humberto dạy tôi cách dựng lều. Cọc không nặng, nhưng để dựng được lại đòi hỏi sức khỏe và sự khéo léo. Anh ta an ủi rằng tôi sẽ nắm được cách thôi, nhưng tôi chẳng hiểu thế nào nữa.

Sau khi lều được dựng xong, và lạc đà đã nghỉ ngơi, Cosmé nhóm lửa và làm món súp jerboa. Tôi tránh xa đống lửa nóng để ngắm mặt trời lặn bên kia sa mạc. Nơi này đẹp đẽ, rộng lớn và lung linh, đỏ như màu máu dưới ánh ngày tàn. Những đụn cát làm tôi không thể rời mắt. Dù nghiêng theo chiều gió, nhưng ở phía dưới, nơi gió không động chạm tới, chúng lại mịn như kem và mềm mại tựa một tấm thảm đẹp. Nơi này thật choáng ngợp, và quyền uy đáng sợ, tôi thấy mình đang bâng khuâng áp tay lên Thánh thạch.

“Nó có nói chuyện với cô không?” Humberto đứng cạnh tôi. Tôi không nhận ra anh ta vừa tới. Anh ta đi chân trần; đôi lông mày nâu sẫm lại dưới ánh chạng vạng, giống như đôi lông mày của người chị gái.

“Vì sao? Anh nghĩ Thánh thạch có thể làm gì cho các người?”

Anh ta nhìn xuống, gương mặt buồn bã. “Nó có thể cứu chúng tôi.”

Tôi mở miệng định phản đối, nhưng kịp ngăn mình lại. Sự sống còn của tôi phụ thuộc vào việc họ có hay không tin tôi thực sự có thể đáp ứng kì vọng của họ.

Lời tiếp theo của anh vang lên như tiếng nhạc, “‘Và Chúa tìm cho mình một người hùng. Đúng, cứ bốn thế hệ một lần, Ngài tìm cho mình một người mang Dấu Ân.’”

“Đó là Afflatus của Homer!” Tôi túm cẳng tay anh ta. “Anh biết!”

Gương mặt anh ta bối rối. “Tất nhiên.”

Cosmé gọi chúng tôi tới ăn tối vào đúng khoảnh khắc không đúng tí nào.

“Lại súp nữa!” Humberto nói, rồi chạy vội đi. Tôi đuổi theo, chuẩn bị tỏ vẻ tự tin, như một người có thể cứu người khác.

Tôi ngồi đối diện Cosmé bên đống lửa, ngạc nhiên trước nhiệt độ giảm đột ngột và mừng vì được ở gần nguồn sưởi ấm. Có năm người tất cả, bao gồm tôi. Con số linh thiêng tượng trưng cho sự hoàn mĩ. Từ thời học hành với thầy Geraldo, tôi biết dân du mục sa mạc luôn đi thành từng tốp năm người, để cầu may mắn và phúc lành.

Cosmé đưa từng bát cho chúng tôi. Sau khi quan sát những người khác, tôi hiểu đừng mong có thìa, hãy cứ đưa bát lên miệng húp rồi dùng tay vét thịt hầm. Tôi uống sạch từng giọt trong bát, và bụng réo vang sung sướng. Bát súp xua đi cơn đói, nhưng còn lâu tôi mới no. Tôi ủ rũ đặt bát xuống. Cosmé nhìn tôi bên kia đống lửa. Mặt trời đã lặn từ lâu, và lửa tí tách hắt những cái bóng ma mị lên gương mặt cô gái.

“Công chúa,” cô ta nói dịu dàng và khẽ khàng. “Cô chỉ được khẩu phần như những người khác thôi.”

Tôi nhìn thẳng vào cô ta. “Ta không đòi thêm.”

Cô ta đứng lên và phủi cát khỏi chân, rồi đá cát dập lửa. Khu trại của chúng tôi giờ chỉ còn được chiếu sáng nhờ hai ngọn đuốc nhỏ và ánh sao mờ ảo. Sa mạc đột nhiên rộng lớn, bao bọc lấy chúng tôi trong màn đêm thăm thẳm.

Chúng tôi về lều. Tôi quấn chặt mình chống chọi cái lạnh, sẵn sàng thưởng thức cảm giác thoải mái từ mùi chăn ngai ngái. Ý nghĩ cuối cùng của tôi là về Afflatuscủa Homer và cánh cổng của kẻ thù.

Sáng sớm, sau một bữa sáng rất hẻo với thịt bò và chà là khô, tôi tự dọn lều. Tôi rề rà hơn mọi người, và tay tôi run run vì gắng sức, nhưng tôi đã làm được. Họ muốn tôi tiếp tục đi bộ. Chân tôi đau nhức, nhất là trên mắt cá, khiến nước mắt chảy cay sè mắt tôi khi chúng tôi khởi hành. Cơ thể to lớn của Humberto chao đảo trước mắt tôi. Anh dẫn chúng tôi trên hành trình nóng nực này, thành thử tôi đừng hòng nói với anh về lời sấm truyền của Homer hay hỏi thêm gì trước khi chúng tôi nghỉ ngơi.

Tôi chậm chạp dấn từng bước đau đớn trên cát, và sau một hồi lâu, nhóm bắt cóc tôi chỉ còn là những chấm đen nơi chân trời màu cam vàng. Tôi nên tự hỏi liệu họ có bỏ tôi lại mặc cho sa mạc độc ác định đoạt số mệnh tôi hay không. Tôi nên lo về chuyện chết tại đây, cơ thể trở thành cái xác khô. Bụng tôi là cái hố trống rỗng dưới lồng ngực, cháy lên cảm giác đói khát. Tệ hơn là đầu tôi đang ong ong và tôi thấy váng vất buồn nôn. Tôi cần ăn đồ ngọt để bớt đau đầu, nhưng tôi biết không thể kiếm đâu ra thứ đó.

Gió nổi, thốc cát vào mặt tôi. Không dừng lại, tôi che khăn ngang mũi và buộc chặt như Humberto đã dạy. Tôi tiếp tục đi.

Tôi không biết đã bao lâu trôi qua, nhưng tôi bỗng thấy có người vội nắm tay mình. Tôi ngước lên, chớp mắt nhìn qua cơn đau đầu, và thấy gương mặt Humberto.

Thánh thạch truyền cảm giác lạnh buốt lên xương sống và vào ngực tôi.

“Cô phải nhanh lên,” anh nói trong tiếng gió. “Có bão cát.”

Ôi Chúa ơi.

“Những người khác đã dựng lều rồi. Cô chạy được không?”

Tôi gật đầu, nhưng không biết chân mình sẽ di chuyển thế nào.

Anh ta vòng tay tôi qua vai để đỡ tôi, và chúng tôi cùng nhau chạy trên cát. Humberto rất khỏe, kéo tôi đi nhanh hơn và đứng lên mỗi khi tôi trượt ngã. Những cuộn cát xoáy vào chân chúng tôi. Humberto rõ ràng đang hoảng sợ. Anh liên tục kéo, hô hào, “Nhanh nữa lên, công chúa. Chúng ta phải đi nhanh hơn!” Vậy nên tôi guồng chân hết cỡ, hít vào qua tấm khăn, tim đập như trống trận trong cổ.

Cuối cùng, chúng tôi leo lên một đồi cát. Ngay trước mắt là đám lạc đà nằm bên nhau, như những khối to tướng trên cát. Cosmé vội dựng lều quanh chúng trong khi chúng vừa kêu vừa lắc đầu.

Một cái lều nữa nằm bên cạnh chúng. Người thanh niên mũi khoằm đang vội vã vẫy gọi chúng tôi ở cửa.

Nhưng chân tôi lún sâu trong cát, cứng đơ như một cây cột đá, vì tôi thấy ở đằng xa, cả bức tường đen sì đang lao tới. Nó phủ bóng tối lên khắp mặt đất, bốc cát cao che kín bầu trời, biến nó thành tuyền một sắc nâu.

“Công chúa!” Humberto kéo tôi đi, nhưng chân tôi như đông đá, và anh gần như phải lôi tôi về lều. Tiếng bão cát ù ù thật điếc tai. Tôi không biết chúng tôi có thể sống sót thế nào được. Khu lều quá tầm thường, quá yếu ớt, và tôi biết mình sẽ chết ở đây, da thịt bị gió lóc khỏi xương, Thánh thạch bị chôn vùi dưới cả núi cát.

Chúng tôi xông vào lều. Cosmé vội vàng vào theo. Cô ta đóng cửa lều và buộc chặt xuống. Vừa thở hổn hển, tôi vừa nhìn bốn người đã bắt mình, thất vọng khi trông thấy những đôi mắt thất thần của họ. Đám lạc đà đằng xa đang kêu rên.

“Còn lạc đà?” Tôi thở phì phò. Chúng là những sinh vật kì lạ, nhưng không đáng sợ bằng ngựa, với hàng mi dài mềm mại và nụ cười thường trực. Tôi không thể chịu nổi ý nghĩ bão cát sẽ lột da chúng. “Liệu chúng có sống qua nổi không?”

“Chúng giỏi thích nghi với sa mạc hơn chúng ta,” Cosmé nói. “Chúng biết nằm xuống trong bão. Chúng sẽ ổn.” Cô ta nhún vai. “Trừ khi chúng bị chôn quá lâu.”

Chôn? Humberto đang buộc dây quanh eo tôi. “Chôn á?” Tôi nói khẽ.

Humberto nhoài gần hơn. “Công chúa, nếu lều rách, hãy lấy một mảnh vải lều quấn chặt quanh mình.” Anh buộc dây tiếp vào eo mình, rồi quăng cho Cosmé làm tương tự. “Nhưng nhớ chừa khoảng trống cho có dưỡng khí, thế này này.” Anh thị phạm bằng cái chăn, quấn lỏng quanh đầu và cẳng tay.

Anh không thấy tôi gật đầu ý hiểu, vì không gian trong lều đột nhiên tối thẫm hơn đêm đen khi bão cát ào ào xông tới. Tôi không còn nghe thấy tiếng lạc đà, hay tiếng lớp lều ngoài phần phật, hoặc thậm chí là tiếng thở của những người đồng hành. Nếu không có sợi dây nối tôi với những người còn lại, tôi sẽ tưởng tượng mình hoàn toàn cô độc. Tiếng bão cát gầm rú quá lớn và đều đặn. Tôi ngồi một hồi lâu, cảm nhận nhịp tim chậm dần và hơi thở vững vàng.

Sự im lặng phủ vây chúng tôi. Sự im lặng thực sự, như thể cả thế giới đã chết.

“Qua rồi sao?” Tôi hỏi, giật mình vì giọng mình nghe là lạ.

“Suỵt.” Đó là Cosmé. “Đừng phí phạm không khí để nói chuyện tầm phào.”

Phí phạm không khí? Tôi bỗng vỡ lẽ: chúng tôi đang bị vùi dưới cát.

Một lát sau, tiếng bão cát quần thảo lại vang lên, nối tiếp là tiếng gầm rú đáng ngại. Buổi chiều đáng sợ tiếp diễn trong bóng tối trong lúc chúng tôi bị chôn rồi lộ ra vài lần. Kinh sợ hơn là tôi biết chắc chắn bão cát sẽ xóa sạch mọi dấu vết, rằng Alejandro sẽ không bao giờ tìm ra tôi.

Cuối cùng, im lặng kéo dài. Từ giữa bóng tối, Cosmé bảo, “Giờ thử xem, Belén.”

Tôi nghe tiếng vải xột xoạt; rồi cát và ánh sáng đổ xuống từ cái lỗ gần đỉnh lều. Tôi chớp mắt nhìn người đàn ông mũi khoằm khi anh ta chọc cây gậy dài lên. Qua đó, tôi thấy bầu trời xanh xinh đẹp. Tôi đặt ngón tay lên Thánh thạch và cầu nguyện cảm ơn.

Cosmé và Belén kéo chúng tôi ra khỏi lều. Lớp lều ngoài đã rách đôi chỗ, nhưng Humberto bảo sửa lại là dùng tốt. Lũ lạc đà chỉ bị chôn một nửa. Cả năm người chúng tôi quỳ xuống và xúc cát tới khi nâng được lũ sinh vật nặng nề đó lên. Chúng kêu rên, lảo đảo đứng dậy và lắc đầu. Con to nhất, mang màu nâu gần ngả sang đen, nhai lại thức ăn, trong khi con màu nâu vàng cào cát. Những hành vi bình thường của loài lạc đà giờ đã trở nên quen thuộc với tôi, và tôi ngạc nhiên trước sự thản nhiên chấp nhận một ngày bão gió của chúng.

Mặt trời đã xuống thấp, đổ loang sắc đồng xuống những đụn cát mới thành hình trong lúc chúng tôi đào được mấy cái lều ra và dựng cho thẳng thớm.

Tối đó chúng tôi để lửa lâu hơn, nhờ có nguồn phân lạc đà mới. Sau một bát súp jerboa ghê tởm nữa, tôi hỏi, “Bão cát luôn như vậy à?”

Mồm Humberto đầy đồ ăn, nên Belén trả lời tôi. “Mỗi năm có một hai trận lớn như thế,” anh ta bảo. “Thường thì bão yếu và qua nhanh thôi.”

Tôi thưởng thức súp mà sợ giây phút bát cạn veo. Đôi mắt những người đồng hành chăm chắn nhìn tôi, đánh giá tôi. Một cặp mắt – của Cosmé – thấy tôi cần thêm, vẻ khinh khỉnh trên đôi môi cô ta hiện rõ dưới ánh lửa. À, còn những đôi mắt khác nữa. Mắt họ ẩn chứa những thắc mắc, có lẽ còn có cả ít nhiều tôn trọng. Kể cả chàng trai ít nói cũng cẩn thận quan sát tôi. Tôi biết Alodia sẽ làm gì.

Tôi bảo, “Mọi người biết rõ phải làm gì. Để sống sót.”

Humberto nhún vai. “Chúng tôi làm nghề dẫn đường mà.”

Cosmé là hầu gái, không phải người dẫn đường trong sa mạc, nhưng giờ không phải lúc tranh cãi. Tôi gật đầu, như đang mải suy nghĩ. “Sa mạc sinh ra những con người mạnh mẽ.” Tôi hi vọng lời tôi nói nghe không có ý nịnh hót.

Nhưng Belén hất hàm kiêu hãnh. “Chúng tôi còn sống sót qua những điều kinh khủng hơn bão cát nữa kìa.”

“Ta không nghi ngờ đâu.” Tôi vét hết súp trong bát, rồi liếm ngón tay. Khi đặt bát xuống, tôi bảo, “Nhưng có cái gì khác đang tới. Hoặc đã tới. Gì đó mọi người không dám đảm bảo sẽ sống sót qua nổi.”

Không ai nhìn tôi. Cosmé khoanh chân và ngắm nghía các mấu tay.

Tôi liều hỏi, “Là gì vậy? Sao phải lôi cô nàng béo phị, vô dụng này qua sa mạc? Sao ta lại quan trọng đến độ mọi người phải kêu Humberto đưa ta về khi cơn bão cát chết người sắp tới?”

“Chúng tôi không bảo Humberto đón cô,” Cosmé gắt. “Chúng tôi bảo cậu ấy đi đưa Thánh thạch về.”

Tất nhiên rồi. “Vậy sao không nạy nó khỏi rốn ta đi?” Tôi biết mình đã phạm sai lầm ngay khi lời vừa rời miệng.

Nụ cười của Cosmé thật nguy hiểm. “Tôi đang tính thế đây.”

“Cosmé!” Đấy là lần đầu tiên tôi nghe thấy chàng trai kiệm lời kia cất tiếng. “Chúng ta chưa liều được. Lời sấm truyền không rõ ràng. Sau này, nếu cô ta vô dụng, chúng ta giết cũng chưa muộn.”

Mắt Humberto nheo lại, và anh lườm người kia. “Không ai giết cô ấy hết, Jacián. Không bao giờ.”

Jacián chỉ nhún vai, rồi lại im lặng ngồi đó.

Đêm ấy, Humberto chui vào lều tôi và lẳng lặng trải túi ngủ bên cạnh. Tôi an tâm khi thấy anh, vì biết lí do anh ở đây. Anh sợ điều những người khác sẽ làm.

Ngày này nối tiếp ngày kia trôi qua một cách tẻ ngắt và nóng nực, nhưng tôi có thời gian suy nghĩ. Tôi quyết định vờ hợp tác và ngoan ngoãn, vì tính mạng tôi giờ nằm trong tay nhóm bắt cóc, và tôi không được cho họ lí do giết mình.

Chúng tôi rời bỏ các đụn cát để tới một cao nguyên thấp. Cát không còn kéo mỗi bước chân tôi, nên tôi theo kịp không khó khăn quá. Humberto dẫn đường, chưa từng lưỡng lự chọn hướng, dù tôi không rõ anh làm thế nào. Nước còn ít mà khẩu phần ăn thì không nhiều. Da tôi thèm khát được ngâm trong làn nước mát. Không, không đúng. Nước tôi tắm bao giờ cũng ấm. Nhưng tôi tưởng tượng nó mát, sống động như tôi tưởng tượng bàn tay khỏe mạnh của Ximena sẽ xoa bóp vai tôi.

Môi tôi khô nứt. Cái bướu lạc đà tóp lại, rồi lệch sang bên. Humberto trấn an rằng vậy là đương nhiên, rằng chúng được uống nước và ăn cỏ sẽ khỏe lại thôi, nhưng tôi vẫn thấy thương chúng. Tuy nhiên sau một hồi, đầu óc tôi chẳng còn nghĩ được gì ngoài nước.

Sau nhiều ngày di chuyển qua cao nguyên, Humberto đưa chúng tôi vào một hẻm sâu. Lũ lạc đà khịt mũi và kêu ca, đá chân và lắc đầu khi chúng tôi đi giữa những vách núi hun hút. Chúng tôi rẽ, và khe núi mở ra thành một ốc đảo với những tán cọ và cây keo hoa vàng, cỏ xanh và hồ nước xanh lấp lóa. Đây là cảnh tượng đẹp nhất tôi từng được thấy.

Chúng tôi đều lao tới, năm người và hai con lạc đà, tới khi ngập trong nước tới tận hông. “Đừng uống nhiều nước quá!” Humberto hét. “Vậy nguy hiểm lắm.” Tôi uống hai ngụm lớn, rồi đầm mình tới ngập đầu, tận hưởng sự mát mẻ, ướt đầm. Khi tôi nổi lên, những người khác đang té nước vào nhau, cười khúc khích như trẻ con. Humberto xô nước về phía tôi, và chẳng hề suy nghĩ, tôi nhập cuộc, vừa cười vừa té nước. Tôi vờ như đã quen biết họ từ lâu. Như thể tôi được an toàn.

Sau đó rất lâu, lớp quần áo ngoài của chúng tôi được treo trên những cành cây keo đại thụ rủ bóng xuống cái hồ nhỏ. Lều được dựng, đám lạc đà bình yên gặm loại cỏ gì đó giống lúa mạch mọc bên kia bờ. Tôi ngồi đung đưa chân trên mặt nước, ngắm nghía những vết chai sần mới trên bàn chân. Lạ là tôi tự hào về chúng.

Humberto ngồi xuống bên cạnh và trải cái khăn che đầu ở giữa. Bên trong đó là rất nhiều quả chà là tươi, được hái từ mấy cái cây thấp lè tè gần đó. Tôi sung sướng cầm lên và nhét tọt một quả vào miệng. Nó ngọt hơn mật ong, ngon hơn cả món bánh dừa của quán đồ ngọt ven đường. Hoặc có lẽ chỉ vì bao ngày qua tôi chỉ biết đến vị bò khô và súp jerboa. Tôi nhổ hạt và cầm một quả khác lên. “Cảm ơn anh nhiều lắm!” Tôi lúng búng nói.

Anh quan sát tôi trong lúc tôi nhai, và đó là cái nhìn hiếu kì, có lẽ thêm cả tôn trọng. Tôi không thấy không chịu như dưới cái nhìn quyền uy của Alejandro.

Chúng tôi cắm trại hai ngày trước khi lên đường, sau khi đã được nghỉ ngơi, tiếp nước và mát mẻ. Đi bộ giờ không quá vất vả nữa, dù cũng chẳng dễ dàng gì, và qua vài ngày, tôi có thể vừa đi vừa nói chuyện với những người khác. Jacián vẫn ít nói, nhưng Humberto và Belén thết đãi tôi bằng những câu chuyện về đám khách lữ hành ngốc nghếch và cuộc đua lạc đà. Tôi biết mỗi người đồng hành của mình đều đã vượt sa mạc vài lần, dù tuổi đời còn rất trẻ. Jacián lớn tuổi nhất mới mười chín, Humberto trẻ nhất mười sáu tuổi, bằng tuổi tôi.

Kể cả Cosmé cũng đôi lúc góp chuyện, dù cô ta rất cảnh giác. Có nhiều điều tôi muốn biết, về Thánh thạch, về lời sấm truyền, về việc cô ta phục vụ nữ bá tước Ariña. Nhưng tôi không dám hỏi. Tôi chưa bao giờ quên cô ta tính nạy Thánh thạch ra khỏi bụng tôi, vậy nên tôi cẩn thận chỉ đề cập đến những chuyện vô thưởng vô phạt.

Vì mặt trời chiều sói nắng vào lưng, nên tôi biết chúng tôi đang đi về phương đông, về phía những lãnh địa miền biên giới và cũng là nơi nơi Invierne đang đóng quân. Nhưng cách nhanh nhất để khiến cả nhóm yên lặng là khỏi về đích đến. Vào lần thứ ba tôi hỏi, Humberto cũng nói, “Đó là nơi bí mật, công chúa ạ, và cô chỉ cần biết thế.”

Chúng tôi rời cao nguyên, tiến vào một hoang mạc đá với những bụi cây lùn và xương rồng rải rác. Lũ lạc đà vừa đi vừa ăn, nhai cỏ khô và bụi gai dai nhách cũng ngon miệng chẳng khác gì nhau. Tôi hiếu kì lắng nghe tiếng kền kền. Và khắp nơi đều có bóng dáng lũ thằn lằn, hoặc quá lười nhác hoặc quá gan góc dám bò qua đường chúng tôi.

Đường đi dốc dần, và mấp mô với nào vực sâu khe thẳm, lẫn những đồi núi cao ngất. Tôi có thể đi lang thang trong mê cung sa mạc này cả đời mà chẳng tìm nổi đường về nhà. Hi vọng duy nhất của tôi là điểm đến bí mật kia sẽ có phương tiện giúp tôi gửi thư cho chồng.

Cuối cùng, sau gần một tháng hành trình giữa miền đất nóng, chúng tôi lên một ngọn núi đá nguyên khối với những lớp màu cam và vàng đan ken. Ở mặt khuất gió, một ngôi làng cheo leo bên sườn núi với những bậc thang lớn, gần như vô hình vì màu gạch cũng mang sắc cam tương tự. Người người đi lại và vẫy tay như điên khi thấy chúng tôi.

Tim tôi đập mạnh và cổ họng nghẹn lại. Chẳng mấy chốc nữa họ sẽ biết họ đã lầm về tôi, rằng tôi chẳng thể giúp gì cho họ.

Cosmé chạy vội đi chào người đàn ông đang tới đón chúng tôi. Ông cũng mặc áo choàng miền sa mạc rộng rãi giống những người đồng hành với tôi, nên mất một lúc tôi mới nhận thấy một bên ống tay áo trống không nằm đuột bên thân. Những người khác cũng đến. Họ trông nhếch nhác. Bị thương. Vài gương mặt mang sẹo bỏng, da gồ lên như mặt đón gió của những đụn cát. Những người khác, giống như người đàn ông đang ôm Cosmé, mất tay chân. Một cậu bé, chẳng nhỉnh hơn Rosario là bao, có miếng gạc len nhét vào một bên hốc mắt, cố định bằng một mảnh vải bẩn thỉu.

Hầu hết đều ít tuổi.

Tôi bỗng nhớ lại cuộc họp Ngũ Trưởng lão, tưởng chừng như đã cách xa cả đời người rồi. Chúng tôi nhận được công văn của bá tước Treviño, yêu cầu viện trợ nhưng trong thư cũng nói rằng chưa có thương vong gì. Có lẽ tin tức truyền đi chậm.

“Ôi, Humberto,” tôi hoảng hốt nói khẽ. “Chúng tôi không biết – ta không biết – rằng cuộc chiến đã nổ ra rồi.” Tôi áp tay lên Thánh thạch và vội cầu xin một sự an ủi.

Humberto nhẹ nhàng dùng ngón trỏ nâng cằm tôi. Sự vô vọng trong mắt anh làm tôi hoảng hốt. “Công chúa. Cuộc chiến với Invierne chưa từng kết thúc.”