T
ôi không hiểu. Cuộc chiến hồi trước thực sự chỉ là một trận giao tranh nhỏ. Nó kết thúc sau hai năm, khi cha Alejandro đẩy lùi quân Invierne lên tận đỉnh Sierra Sangre.
Người đàn ông trung niên buông Cosmé và tập tễnh bước đến chỗ tôi, và nhìn chăm chú. “Cosmé,” ông thì thầm. “Con đã mang người hùng về đây.”
Cô ta khịt mũi. “Cô ta mang Thánh thạch, thế thôi.”
Ông mặc kệ, đôi mắt đen chăm chú nhìn bụng tôi. “Nó hát với ta,” ông lẩm bẩm. “Họ nói nó sẽ hát, nếu có ngày ta gặp được nó, nhưng ta không tin.”
“Ai?” Tôi hỏi. “Ai nói thế?” Cha Nicandro cũng cảm nhận được nó, nhưng tôi chưa có cơ hội hỏi rõ.
“Tất nhiên là các tu sĩ rồi. Tại trường dòng.” Gương mặt ông giật giật dưới bộ râu quai nón cắt ngắn đã ngả bạc.
Humberto bước tới. “Công chúa, đây là bác tôi, cha Alentín, từng phục vụ bá tước Treviño.”
“Ông là tu sĩ?” Tôi chưa từng thấy một tu sĩ nào như ông, rách rưới, bẩn thỉu và tàn tật.
Ông chớp mắt. “Rất tiếc, con của cha. Hay là… công chúa nhỉ? Cha không dễ chịu lắm, phải không? Chỉ là cha chưa từng mơ sẽ… ý cha là… đúng, một tu sĩ. Được sắc phong tại tu viện Brisadulce, và” – những ngón tay ông run run áp vào môi khi ông nhắm mắt – “cha không thể tin nổi cuối cùng cũng tìm được người mang Thánh thạch.”
Thánh thạch im lặng, không cảnh báo hay đồng tình, nhưng vẻ tuyệt vọng rồi tìm thấy hi vọng của ông khiến tôi phiền muộn. Đằng sau ông, những đứa trẻ rách rưới len lén tiến đến, mắt nhìn tôi với vẻ ngưỡng mộ pha lẫn ngờ vực. Tôi cố không trốn sau lưng Humberto.
Humberto đặt bàn tay lên vai tôi tỏ ý bảo vệ và nói. “Chúng con đã đi cả một chặng đường xa, bác ạ. Chúng con rất muốn tắm và ăn uống gì đó. Như thịt tươi chẳng hạn. Thêm ít hoa quả thì tốt. Cứ đồ gì không phải đồ khô là được.”
Tôi tứa nước miếng, và tôi sung sướng dựa vào anh.
Lũ trẻ chạy quanh chúng tôi và dẫn chúng tôi tới các căn nhà gạch sống chênh vênh trên núi. Kể cả mệt mỏi và khát nước cũng không thể làm tôi bớt cảnh giác, vì có vài người trong đó – như Cosmé – nhìn tôi với vẻ thèm thuồng, như thể tôi là một miếng thịt quay vàng óng đẫm nước xốt tiêu đen.
Những căn nhà gần như mặt tiền che chắn một hệ thống hang động mát mẻ chạy sâu trong núi. Suối cung cấp nước uống, thậm chí có một cái hồ nông, rộng để tắm và giặt giũ. Cosmé chỉ tôi chỗ cởi đồ và tắm riêng, là một cái hốc nhỏ có cái tủ đá chắn, có thể là chỗ cho tôi để đồ. Cô ta ném cho tôi thứ quả bầu bầu két đất bẩn – nó nhiều lớp và khô như củ hành – và bảo dùng mà chà ghét. Nước lạnh và tới nửa bắp đùi, nhưng trong vắt, và những ngón chân tôi đang ngọ nguậy trong cát dường như gần hơn, như thể tôi có thể nắm lấy chúng mà không cần cúi người.
Ngay khi được một mình, tôi cố nhớ xem Aneaxi, sau này là Ximena đã giặt đồ cho tôi thế nào. Chúng tôi có người hầu, nên các bà hiếm khi phải tự giặt đồ. Tôi nhớ là phải ngâm nước và vò, thêm chút xà phòng. Không biết mình có bao nhiêu thời gian, tôi vội cởi áo choàng và ngâm xuống. Sau vài lần chà và vắt, tôi bôi cái củ giống hành và được một lớp bọt mỏng. Nó có mùi hăng của lá rụng nhưng cũng được việc, vì cáu ghét, mồ hôi dầu và ít tóc đã trôi theo dòng nước. Tôi giặt luôn váy ngủ, thứ tôi mặc khi Cosmé và những người khác lôi tôi khỏi giường. Nó làm bằng lụa màu kem, ren thượng hạng và có những cái cúc thủy tinh bé tí xíu dọc mặt trước, đắt tiền nên có thể đem đi bán, hoặc đổi chác để người ta đưa tôi về Brisadulce.
Tôi vui vẻ vắt đồ. Rồi, cầm vai váy, tôi giũ nhẹ cho vải không nhăn, giống như Ximena. Và tôi sững lại, nhìn thứ trong tay mình. Nó lạ lẫm, như từ kiếp khác. Quá đẹp và mỏng manh. Quá… lớn.
Tôi há hốc miệng. Run rẩy, tôi áp lớp vải ướt lên ngực, giữ nó ngang vai, để gấu váy trôi trong nước. Nó không chỉ lớn thôi đâu. Nó là một cái lều trong hình dáng váy, với tay áo rộng thượt tới tận nửa lồng ngực.
Tôi thả nó xuống nước.
Tôi đã mặc cái áo choàng rộng thùng thình và quấn xà cạp lông lạc đà gần một tháng. Thở dốc, tôi he hé mắt nhìn xuống rốn. Tôi sốc khi thấy ánh xanh lấp lánh của Thánh thạch. Tôi giơ một cánh tay và ngắm nghía đường cong của nó, nhìn cách cẳng tay nối liền cánh tay, như thể định mệnh của chúng là sống bên nhau. Tôi vuốt dọc ngực, xuống hông, qua mông, quanh bắp chân. Rồi nước mắt ào ra khi tôi làm thêm một lần nữa.
Tôi không gầy. Chắc chắn không xinh đẹp như Alodia hay Cosmé. Nhưng tôi không cần vạch ngực hay ấn bụng để thấy Thánh thạch. Tôi vẫn thèm bánh nướng mật ong, nhưng đầu không chong chóng nghĩ đến chúng. Tôi có thể đi cả ngày mà không ngứa ngáy.
Tôi có thể đi bộ cả ngày.
Tôi nằm xuống nước và nổi lơ lửng, mỉm cười với những thạch nhũ lóng lánh, với những mảnh sáng màu xanh nước biển chiếu xuống qua các kẽ đá. Khi Cosmé tới tìm, tôi bảo cần thêm thời gian.
Tôi vẫn chưa chán trần trụi.
Tối đó, mọi người tụ tập dưới một mái đá. Đó như thể là bàn tay khum khum của Chúa đã lướt qua bờ đá, tạo ra một cái hốc rộng có mái một phần là đá, một phần là bầu trời đầy sao. Bếp lộ thiên đỏ lửa ở chính giữa, xung quanh là thưa thớt vài con người. Không ai hơn bốn mươi tuổi, và ít nhất hai phần ba trong số đó nhỏ hơn tôi.
Cha Alentín mở một bữa tiệc thịt cừu om củ cải, mùi tây và kinh giới. Ông vỗ mặt cát tỏ ý mời, và tôi khoanh chân ngồi cạnh. Những người khác vừa ăn vừa chăm chú nhìn chúng tôi. Tôi cảnh giác nhìn họ.
Tôi ăn chậm rãi, thưởng thức vị thịt mềm đậm đà, vị củ cải vừa chín tới. Ông bảo đàn cừu được nuôi giấu trong thung lũng gần đấy, ở đó còn có cả những ruộng khoai tây, củ cải và cà rốt. Ông bảo tôi ăn bao nhiêu cũng được, trấn an rằng dù con người đánh mất nếp sinh hoạt hàng ngày trong thời chiến, nhưng ít nhất thức ăn thì còn dư dả.
“Cha ơi,” tôi lúng búng trong miệng đầy thịt. “Alejandro, đức vua. Chàng không biết mọi người đang sống trong thời chiến.”
Nhắc tới tên chồng làm lòng tôi dâng lên cảm giác chua xót. Tôi hi vọng chàng vẫn khỏe. Tôi mong chàng đang tìm tôi.
Alentín lắc đầu. “Tất nhiên ngài không biết rồi, cô bé yêu quý. Không ai nói hết.”
Tôi nhai và nuốt. “Con không hiểu.”
“Chúng ta không dám báo tin chiến sự đã nổ ra, rằng chúng ta thua nhiều. Đức vua, cầu cho ngài sống lâu và khỏe mạnh, không yêu quý vùng trung du này cho cam. Ngài sẽ từ bỏ con dân nơi đây, chứ chẳng đời nào chịu đưa quân đến giúp. Ngài thà từ bỏ chúng ta. Ngài đã thiếu binh lực từ trận chiến trước, và chúng ta lại là thứ rắc rối. Khó cai quản từ bên kia sa mạc, chẳng có mấy giá trị với hoàng gia. Bò và cừu của chúng ta vào loại thượng hạng trong vương quốc, nhưng chỉ là lũ gầy còm sau khi bị buộc phải di chuyển qua hoang mạc thôi. Ngài thu thuế từ các vùng duyên hải còn hơn.” Tôi gật đầu, nhớ lại thời gian học với thầy Geraldo. Ông luôn bảo điểm yếu nhất của Joya d’Arena chính là lãnh thổ quá rộng lớn.
Một cô bé chưa đầy tám tuổi bẽn lẽn tiến tới cầm theo một khay chà là. Tôi từ chối, vì đã no rồi, nhưng Alentín lấy một quả và cho vào miệng. Ông vừa nhai vừa nói. “Thứ duy nhất chúng ta có là vàng. Núi non cũng nhả ra chút vàng mỗi năm vào lúc lũ quét, nhưng đức vua, cầu cho ngài có con đàn cháu đống, không quá thèm khát nó. Nhưng đó vẫn là thứ khiến ngài quan tâm. Vài năm trước chúng ta nhận được thư từ một vị quyền cao chức trọng trong triều, rằng nếu chiến sự nổ ra ở vùng trung du, ông ta sẽ tuyên bố dân chết hết và sẽ từ bỏ vùng đất này.”
Ôi, chắc chắn rồi. Tim tôi đập thình thịch, khi nhớ lại Alejandro đã mừng ra sao khi tôi khuyên sơ tán làng mạc. Tôi ngốc nghếch cứ tưởng niềm vui của chàng là vì tôi, vì lời khuyên sáng suốt của tôi. Giờ tôi biết chàng đang tìm cớ để quay lưng với thần dân của mình. “Cha không dám báo cho đức vua biết người vùng này đã gần như nắm chắc thất bại.”
“Chúng ta không dám. Nói cho cùng, nhà vua tốt thì tốt thật nhưng phải cái nhu nhược. Nếu phải chọn lựa, ngài luôn chọn con đường chắc chắn nhất, và dễ dàng nhất.”
Dù lời của ông mang theo sự thật đáng buồn, nhưng tôi không nghĩ ông dám nói nếu biết tôi là hoàng hậu. “Vậy chàng phải tin rằng vẫn còn hi vọng, nếu không chàng sẽ chẳng cho viện binh tới.”
“Đúng.”
Nhưng nhà vua sẽ không gửi quân tiếp viện. Tôi không thể nhìn gương mặt vị tu sĩ vì mải băn khoăn xem tôi đóng vai trò gì. Tôi nhắm mắt một lúc và nhớ lại cuộc họp với Ngũ Trưởng lão. Nếu biết điều tôi đã biết lúc này, liệu lời khuyên của tôi có khác đi chăng? Nếu tôi thấy những đứa trẻ mồ côi rách rưới này bằng da bằng thịt, thấy chúng khổ sở thế nào, liệu rằng tôi có thể biện minh cho một chiến trường ở xa không? Tôi không biết nữa.
“Cha Alentín, cha nghĩ con có thể làm gì cho nơi này?”
Ông dùng gấu áo choàng lau miệng và vui vẻ ợ một tiếng. “Tất nhiên cha hi vọng con có thể cứu nơi này. Vì chúng ta đã tìm người mang Thánh thạch gần hai mươi năm nay. Những năm gần dây, khi chiến sự căng thẳng nhất, chúng ta đã cho người đi khắp Joya d’Arena để tìm con.”
Cơn giận sôi sùng sục trong ngực tôi như thác lũ. Kể cả ở đây, xa quê nhà, niềm kì vọng vẫn như cái thòng lọng đeo nơi cổ tôi. Tôi nghiến răng nói, “Sao con cứu được mọi người đây? Con chỉ là một cô gái. Con ăn nhiều. Con ghét trị vì. Con chẳng thể làm gì… À, con giỏi thêu thùa. Con thêu cho cha một tấm thảm tranh chiến thắng đẹp mắt nhé?” Tôi muốn đấm gì đó. Tôi nhìn Cosmé đang nói chuyện với Belén ở đằng xa.
“Con gái yêu quý, con có một thứ mà không ai có.”
Tôi thở dài. “Thánh thạch.”
“Ma thuật.”
“Cái gì?” Ma thuật là từ cổ xưa, chỉ dùng trong nghiên cứu chính thống. “Không phải. Scriptura Sancta nghiêm cấm ma thuật.”
Ông mỉm cười. “Ôi, công chúa nhỏ à, con có biết loài người đáng ra không được sống ở nơi này. Nhưng Đệ nhất Thế giới chết đi, và Chúa đưa chúng ta tới dây bằng bàn tay phải chính nghĩa của Ngài.” Ông nhoài tới, đôi mắt đen lộ nét hăng hái. “Afflatus của Homer cho cha biết ma thuật chảy dưới thế giới này, chỉ đợi ngày bùng phát. Để đánh bại nó, mỗi thế kỉ Chúa chọn một người hùng, một người có thể dùng phép thuật để đánh thắng ma thuật.”
Ông ngồi xuống và khoanh chân trong khi tôi nhớ lại cuộc gặp lúc nửa đêm với cha Nicandro trong thư viện tu viện… Người đấy được đưa đi, như con lợn bị đưa tới lò mổ, vào vương quốc ma thuật.
“Invierne!” Tôi trợn tròn mắt. “Đó là vương quốc ma thuật!”
Ông gật đầu. “Cháu gái cha bảo con là người Orovalle, là một tín đồ Tân giáo không hay biết gì về sứ mệnh của người mang Thánh thạch.”
Tôi cúi đầu, không biết có nên thấy xấu hổ không.
“Đức tin ngu ngốc,” ông nhổ nước bọt. “Nhà vua, cầu cho họa mi luôn véo von hót bên tai ngài, thật thông minh khi cướp con đi.”
Cướp tôi đi. Khi Alentín đứng lên, tôi đột nhiên nghĩ có lẽ Alejandro đồng ý với cuộc hôn nhân hờ của chúng tôi chỉ một phần vì phụ vương hứa chi viện. Có lẽ chàng cũng cần một vị cứu tinh.
Alentín hỏi, “Con có muốn mượn cuốn Afflatus của cha không?”
“Ồ, có chứ,” tôi thở một hơi. “Con rất muốn.”
Tôi được cho hai cây nến sáp – cha Alentín bảo đây là vật quý giá – và một túp lều thấp lè tè. Sau khi treo cái váy ngủ lên móc, tôi trải túi ngủ trên nền đất nện và nằm úp bụng đọc Afflatus. Tôi rùng mình trước chương giới thiệu, vì biết tôi đang đọc lịch sử của Chúa, hi vọng sẽ phát hiện ra gì đó về định mệnh của mình.
Ta, Homer thợ nề, được Chúa chọn làm người mang Viên Đá của Ngài. Với những gia tộc sống sót nhờ bàn tay phải chính nghĩa của Chúa, giờ tản mát tới bên rìa miền cát vàng: Xin chào.
Homer kể chuyện đời mình trước. Cũng như tôi, ông nhận Thánh thạch vào lễ đặt tên khi một mảnh ánh sáng chui vào rốn ông. Ông lớn lên trong nỗi sợ hãi, có khi là sự chế nhạo của người đời. Các tu sĩ quan tâm tới cậu bé này, vì họ cảm nhận được gì đó ở viên đá, gì đó khiến họ muốn hát thánh ca, cầu nguyện hoặc có lẽ là cười thành tiếng. Vậy nên họ đưa cậu bé vào tu viện và dạy cậu đọc và viết Thánh ngữ. Rồi, khi cậu đến tuổi mười sáu, họ đưa tiền giúp cậu học việc từ một người thợ nề trong vùng.
Một ngày nọ, cậu đang nung gạch thì Chúa cho cậu thấy một viễn cảnh và muốn cậu viết ra tất cả. Homer ngã trúng cửa lò nung, hôn mê, và tay bị bỏng nặng trong khi Chúa nói chuyện với cậu. Khi tỉnh dậy, cậu bước thấp bước cao chạy tới tu viện. Tay trái cậu bị cháy đen và chảy máu mủ, nhưng cậu không chịu cho ai chạy chữa trước khi được ngồi lên một chiếc ghế đẩu, được mang cho mực, bút lông ngỗng và một tờ giấy da.
Homer tự hào vì những vết sẹo ấy, nhưng tôi miên man nghĩ về một vị Chúa trời lại để điều ấy xảy ra. Chắc chắn người đàn ông này chiếm một vị trí đặc biệt trong tim Chúa. Nhưng ông cũng phải chịu đau đớn.
Và ông không phải người duy nhất. Theo như cha Nicandro, một vài người mang Thánh thạch đã chết khi phụng sự. Rất nhiều người không hoàn thành sứ mệnh. Tôi tự hỏi thế nào thì tệ hơn.
Tôi vừa mới bắt đầu đọc về lời tiên tri đầu tiên thì có người xuất hiện ở ngưỡng cửa đằng sau tôi. Tôi ngoái lại.
Humberto đứng đó, mắt mở to, dưới nách kẹp cái túi ngủ. Trông anh gầy hơn hồi chúng tôi mới gặp – cũng như tôi, sa mạc đã hút sạch nước khỏi người anh – và ánh nến làm nổi bật những hốc mới dưới xương gò má. Tôi mừng được thấy anh.
“Xin chào, Humberto.”
“Công chúa.” Nhưng anh không bước vào.
“Anh vẫn nghĩ ta sẽ gặp nguy hiểm à? Rằng có người sẽ giết ta vì viên đá ta mang?”
Anh giậm chân. “Không biết được. Người ở đây không phải quân sát nhân. Nhưng họ tuyệt vọng. Và đã chai sạn.”
“Vậy có anh ở bên sẽ giúp ta ngủ ngon tối nay.”
Anh cười tươi và đi vào, rồi trải giường trước cửa. Khi anh cởi giày, tôi thấy anh nhìn cái váy ngủ.
Đó là thứ đẹp nhất trong ngôi làng này, với chất vải dệt sít sợi và các nếp xếp lóng lánh rõ ràng không ăn nhập với nơi này. “Không còn vừa nữa rồi,” tôi tỉnh bơ. “Nhưng đó là thứ duy nhất ta có từ… từ trước đây. Ta không nỡ bỏ.” Tất nhiên tôi nói dối. Tôi hi vọng nó sẽ giúp tôi thoát khỏi ngôi làng hẻo lánh này.
Anh nằm nghiêng duỗi người và gối đầu lên cẳng tay. “Đừng lo, công chúa.” Anh nghiêm túc gật đầu chỉ cái váy. “Vài tuần ăn uống bình thường là cô lại như cũ thôi.”
Anh nhắm mắt và thở dài, không kịp thấy vẻ bối rối của tôi. Anh ta nghĩ tôi muốn mặc vừa lại chiếc váy kia ư?
Nến đang chảy nhắc tôi nhớ mình có ít thời gian đọc, vậy nên tôi quay lại với cuốn sách ghi lại những lời sấm truyền của Homer.
Và Chúa tìm cho mình một người hùng. Đúng, cứ bốn thế hệ một lần, Ngài tìm cho mình một người mang Dấu Ấn… Người đó được đưa đi, như con lợn bị đưa tới lò mổ, vào vương quốc ma thuật.
Có phải bất kì người nào được Chúa chọn lựa đều phải tiến vào vương quốc ma thuật? Hay một vài? Hay chỉ một người? Hoặc thậm chí, chỉ mình tôi?
Bụng tôi rung lên mỗi lần Thánh thạch được đề cập ở một khổ là “ma thuật.” Nhưng chẳng mấy chốc tôi đã hiểu cha Alentín không lừa tôi. Homer tin những người mang Thánh thạch sau này phải chiến đấu với với thứ pháp thuật nguy hiểm với nhân loại.
Bản văn không dài. Tôi đọc ba lần trước khi đặt nó sang bên và thổi tắt nến. Mãi một lúc lâu sau tôi mới ngủ được.
Tôi tỉnh giấc vì tiếng la hét và tiếng chân rầm rập. Humberto và tôi bật dậy và chạy vội ra ngoài. Mọi người chạy hết về một hướng, xuống sườn núi và quanh đó. Họ kích động, và có lẽ lo lắng nữa. Chúng tôi đi theo, giơ tay che chắn ánh mặt trời buổi sáng. Người người đứng dọc rìa núi bên trên, và Humberto giúp tôi leo lên.
Khi chúng tôi lên đỉnh, vùng đồi thấp trải dài trước mắt chúng tôi. Chúng trùng trùng điệp điệp, luôn vút lên tới khi biến mất trong vùng tối mênh mông của rặng Sierra Sangre. Dãy núi màu xanh đen và đỉnh trắng tuyết, mặt trời là một khối cầu khổng lồ bên rìa núi. Tối nay, khi mặt trời lặn, dãy núi sẽ được nhuộm màu đỏ máu.
Humberto chỉ xuống, về khe sâu rải rác cây đậu gỗ và bách xù khẳng khiu. Những cái đầu lố nhố qua kẽ lá. Ít nhất mười hai người. Vài con ngựa thồ hàng nặng. Khi họ tới gần hơn, tôi hít một hơi. Ngựa đang chở người, bê bết máu và bị thương nặng. Những người may mắn còn đi đứng được thì đang kiệt sức lê bước, mặt đầy những vệt mồ hôi và đất, có lẽ cả máu nữa.
“Kia là anh họ tôi,” Humberto nói, giọng run run. “Reynaldo, chàng trai đi trước ấy. Làng của anh ấy lớn lắm. Có cả hàng trăm người. Nếu Invierne tấn công, nếu đây là những người duy nhất sống sót…” Anh không thể nói thêm, và tôi nắm chặt tay anh.
Anh bóp chặt. Môi dưới anh run run khi lũ trẻ chạy ào vào khe núi giúp đỡ những người tị nạn. Gương mặt nhỏ nhắn của chúng tràn ngập hi vọng, và chúng háo hức bắt chuyện về những người mới tới. Tôi mất một lúc mới nhận ra chúng đang hỏi han tin tức của bà con thân thích – cha mẹ, anh chị em đã mất tích.
Cha Alentín an ủi một người phụ nữ trẻ, cánh tay còn lại đỡ cô lên rìa đá. Họ đi qua, nên tôi thấy vết bầm lớn trên mặt cô, những chỗ tóc hói lộ mảng da đầu vì tóc bị giật mật, dái tai biến dạng. Vị tu sĩ thì thầm gì đó, và cô ta giật mình ngước nhìn tôi, và nước mắt hi vọng dâng lên trong mắt.
“Tôi là Mara,” cô ta nói khẽ. “Cảm ơn cô đã đến.”
Khi cô ta và Alentín đi xuống sườn đồi, tôi nhìn theo, nhìn vết cỏ ố trên áo choàng của cô ta.