• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Lửa biên thùy
  3. Trang 20

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 19
  • 20
  • 21
  • More pages
  • 40
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 19
  • 20
  • 21
  • More pages
  • 40
  • Sau

Chương 16

C

osmé chăm sóc người bị thương và nhanh nhẹn chỉ huy mọi người giúp đỡ. Tôi ngồi bó gối dựa vào vách cái hang lộ thiên, không thể rời mắt. Rất nhiều người mặc áo choàng đã cháy che đi lớp da bị bỏng. Một người đàn ông nằm trên lưng ngựa đã chết khi họ cởi anh ta và hạ cơ thể anh xuống đất. Ba người khác bị nhiễm trùng và sốt cao. Tôi nhớ đến cái chân của Aneaxi, mùi thịt thối, rìa vết thương bong ra quanh khối mủ đen, và tôi không thể giúp hay tới gần. Nhưng tôi ở lại vì lạ làm sao, quan sát cô hầu gái làm tôi thấy an tâm. Nhìn cách cô ta xé vải quần áo và lau vết thương cho họ, cách cô khâu vết thương và băng bó thật thân thuộc. Gương mặt cô vẫn bình thản như vậy, bàn tay thoăn thoắt và khéo léo như thể cô vẫn đang trong phòng dọn dẹp và gấp rèm.

Tôi ghen tị vì Cosmé hữu dụng.

Ở Brisadulce, tôi là người vợ hờ chưa động phòng của nhà vua, vị khách từ vương quốc khác, vị khách sống trong phòng của hoàng hậu quá cố. Nhưng tôi chưa từng hiểu mục đích của tôi tại đó. Giờ, vì Thánh thạch, tôi bị buộc phải vượt sa mạc để đón nhận định mệnh có lẽ vĩ đại của mình. Nhưng chẳng có gì thay đổi. Tôi vẫn chui vào một góc, không thể hành động.

Giống hệt Alejandro, tôi giật mình nhận ra. Tôi cũng đờ người, không quyết định được, cũng yếu đuối như vậy.

Mái tóc Cosmé đổ về trước khi cô nhoài người lau máu trên cổ một người đàn ông. Tóc cô đã dài hơn chút và vừa qua vai. Cô gọi người lấy cho miếng vải khác. Một cậu bé còi cọc, đi chân đất chống nạng tập tễnh đưa cho cô. Cosmé cầm lấy vội buộc gọn tóc lại. Tôi nhìn mái tóc xoăn rối, những lọn tóc đen mướt mồ hôi dán vào tai và nhận ra rằng, tuy còn trẻ là vậy, nhưng dù Cosmé ở đâu, rơi vào tình huông nào, cô cũng biết nhập cuộc.

Tôi đứng dậy, tim đập rộn ràng. Tôi bước đi giữa những người bị thương, tới bên Cosmé, không dám nhìn họ. Tôi nghiến răng hạ quyết tâm, cố kìm nén nỗi khiếp sợ trong lòng.

“Cosmé.”

Cô không ngước lên. “Tôi rất bận. Nếu cô cần gì, hãy hỏi người khác.”

Tôi hít thật sâu. “Tôi giúp được không?”

Cô vớ lấy miếng ghẻ bẩn trên mặt đất, rồi nhúng vào cái thùng bên cạnh. “Cô không làm được gì đâu. Đi ăn gì đó đi.”

Tôi suýt đi mất. Nhưng thay vào đó, tôi nói, “Tôi biết cô ghét tôi. Nhưng đừng để cảm xúc cá nhân làm cô hóa thành ngu ngốc.”

Cô ta ngẩng phắt lên.

“Để tôi lấy cho cô ít nước sạch,” tôi nói trước khi cô gái kia kịp đáp.

Cô ta từ từ nhìn sang cái thùng bên cạnh, rồi gật đầu. “Ừ, vậy cũng được. Đây.” Cô ta đưa tôi. “Đừng đổ ở gần nguồn nước uống đấy nhé.”

Nó nặng, và quai xách hằn vào lòng bàn tay tôi, nhưng tôi vội vàng đi, mừng vì được làm gì đó ngoài chạm vào những thân thể đang bị hoại tử.

Cả sáng hôm đó tôi mải mê đi xách nước. Khi những người khác thấy tôi đang làm gì, những thùng nước liên tục xuất hiện. Tôi đổ thứ nước nâu đỏ bốc mùi, đôi khi lầy nhầy bên sườn núi đón nắng, rồi vội vàng vào động lấy nước mới. Tôi làm không xuể, dù luôn chân luôn tay. Khi người bị thương cuối cùng đã được lau rửa, khâu vết thương và băng bó, thì bắp đùi và vai tôi đau nhức, còn tay tê dại đi.

Tôi ngồi phịch xuống bên tường và nhắm mắt, cố thư giãn cẳng tay bị vọp bẻ.

“Công chúa.”

Tôi ngước lên. Cosmé đứng trước mặt tôi cùng một túi nước và một đĩa cá hồi hấp đậu xanh. Tôi tứa nước miếng. “Cả ngày nay cô không ăn gì rồi,” cô ta bảo.

Tôi đưa tay đón lấy. “Cảm ơn cô, Cosmé.”

Cô ta định đi, rồi ngần ngừ, quay lại. “Tôi không ghét cô.”

Tôi không biết nên nói gì, vậy nên chỉ gật đầu tỏ ý đã biết.

Tối đó, tôi ngồi khoanh chân trong lều, với cuốn Afflatus của Homer mượn từ cha Alentín đặt trên đùi. Lần này tôi nghiên cứu kĩ hơn, đọc từng câu từng câu, như thể đang cùng thầy Geraldo học Scriptura Sancta.

Nến cháy được một nửa thì Humberto bước vào. Anh cười với tôi trước khi đặt cái túi ngủ trước cửa.

“Tôi tưởng tối nay anh sẽ ngủ cùng anh họ,” tôi nói, mừng vì thấy anh.

“Tôi còn khối thời gian trò chuyện với anh ấy. Hơn nữa, anh ấy cần nghỉ ngơi.” Anh ngồi và rên rẩm cởi giày. “Lại đọc Afflatus à?”

“Ừ.” Tôi xoay vai cho đỡ mỏi. “Tôi muốn tìm manh mối gì đó.”

Anh ta ngồi dịch sang, bên cạnh tôi. Anh nhìn thẳng mặt tôi. “Cô có vẻ… ờ… ý tôi là…”

Tôi không hiểu sao anh cà lăm vậy. “Humberto này?”

Anh lắc đầu.”Mắt cô. Nó tác động thế nào đó đến tôi.”

Mặt tôi đỏ ửng, nhưng may mà tôi không phải trả lời vì anh đã nói, “Ý tôi là cô có vẻ lo lắng. Sợ hãi.”

Tôi trố mắt nhìn anh. “Tất nhiên tôi sợ chứ. Tôi bị bắt cóc, nhớ không? Bị lôi qua sa mạc vì một hi vọng mong manh rằng tôi có thể cứu những người ở đây. Tôimuốn giúp lắm. Mặc cho mọi chuyện đã qua, tôi vẫn thật lòng muốn giúp. Nhưng tôi không biết cách. Chỉ có một người mang Thánh thạch khác từ Orovalle. Hitzedar cung thủ. Anh ta hạ gục ba mươi tư tên địch, trong đó có một người thú. Ngày hôm ấy, anh ta đã cứu đất nước tôi. Cả đời tôi, tôi chỉ mới giết một người, và lúc đó tôi còn chẳng biết mình đang làm gì…”

“Sao cơ? Cô giết người?”

“Ừ. Và tôi không muốn bàn đến chuyện đó. Nhưng ý tôi là, tôi không phải chiến binh. Tôi không biết làm thế nào để cứu người.” Tôi úp mặt vào tay. “Hitzedar may mắn. Anh ta đã hoàn thành việc phụng sự Chúa. Rất nhiều người không hoàn thành được sứ mệnh của mình. Nhiều người đã chết.” Cuối cùng tôi ngước nhìn anh, nhưng thật khó để không rơi lệ. “Humberto. Tôi không muốn chết.”

Anh vòng tay kéo tôi vào ngực. “Tôi cũng không muốn cô chết.” Khi anh vuốt lưng tôi, tôi để mặc nước mắt chảy dài. “Cô dũng cảm lắm, công chúa ạ. Và thông minh nữa. Tôi nghĩ cô giúp được. Tôi thực sự tin vậy.”

“Sao anh biết?” Tôi nức nở.

“Cô đã nghe tới Damián người chăn cừu chưa?”

“Chưa.” Nhưng nghe cũng quen tai.

“Đấy là cụ tôi. Cụ cũng sở hữu Thánh thạch.”

Tôi ngạc nhiên ngước nhìn anh, và nhớ ra đã từng nghe chuyện này. “Tôi đã thấy cái tên này, trong danh sách những người mang Thánh thạch ở tu viện Brisadulce.”

Nụ cười anh tràn ngập kiêu hãnh. “Cụ Damián chăm chỉ lắm. Cụ sống trong một ngôi làng cách đây nhiều ngày đường, sát biên giới Invierne. Cụ thường thức trắng đêm cùng đàn cừu của mình. Cô thấy đấy, cụ không thích gần người. Một ngày nọ, cụ phát hiện ra một dòng suối nhỏ, một vùng đất ẩm ướt. Đó là một thung lũng nhỏ râm mát và cừu cứ gọi là tha hồ gặm cỏ. Vì có nguồn nước nên đó là chốn dựng làng hoàn hảo. Vậy nên cụ tự đào giếng bên dòng suối nhỏ đó. Cụ hào hứng kể với vợ. Tôi nghĩ cụ chỉ kiếm cớ để được xa nhà lâu hơn. Cụ bà đanh đá lắm. Nhưng cụ ông tôi không hoàn thành được.”

“Có chuyện gì vậy?”

“Cụ đào xuống, chiều sâu gần bằng chiều cao cụ, nhưng chưa xuống đủ sâu để có một chút nước rỉ ra. Rồi khi một con cừu bị lăn xuống dốc và vướng vào một bụi gai, cụ Damián đuổi theo, nhưng vấp đá và ngã lăn xuống chết.”

Tôi lườm anh. “Tôi tưởng anh định kể chuyện khích lệ tôi.”

Anh mỉm cười. “Chuyện đã hết đâu. Cái giếng của cụ bị lãng quên, bị đám cây đậu gỗ che khuất mất. Gần hai mươi năm sau, một nhóm đông lính trinh sát Invierne đi qua thung lũng nhỏ đó, dưới sự chỉ huy của một tay người thú. Người làng Damián thủ sẵn trên đỉnh núi cùng giáo mác và cung tên, hai bên cũng một tám một mười. Nhưng tay người thú kia phóng lửa, và họ bị bỏng. Dân làng vừa định bỏ chạy tháo thân thì tay người thú kia đột ngột biến mất. Lúc đầu họ tưởng hắn dùng phép thuật mới nào đó họ chưa từng thấy, nhưng rồi kẻ địch hoảng loạn. Dân làng chớp thời cơ và từ trên đỉnh núi giết chúng.” Anh nhoài tới gần và mắt lấp lánh vui vẻ. “Sau này, họ phát hiện ra tay người thú ngã xuống cái giếng của Damián và bị gãy cổ.”

Tôi nhíu mày nhìn anh. “Vậy anh nói sứ mệnh của cụ Damián là đào giếng à? Một cái giếng đào dở ư?” Có thể không? Liệu sứ mệnh có thể mờ ảo vậy ư? Vô danh vậy ư?

Humberto nhún vai. “Khi về làng, họ kể với bà vợ góa của cụ Damián về vai trò của ông chồng đã chết lâu lắc của bà. Cụ bà đưa họ viên Thánh thạch của cụ ông mà cụ bà đã giữ từ ngày cụ ông mất. Cụ bà bảo mình biết có chuyện quan trọng đã xảy ra vì viên đá vừa nứt ngay chính giữa.”

“Viên Thánh thạch của cụ bị nứt.”

“Ừ.”

“Thật khó hiểu.”

“Ý cô là sao?”

“Tôi đã thấy những viên Thánh thạch, thuộc về những người đã chết cách nay nhiều thế kỉ. Chúng không hề bị nứt.” Tôi ước giá mình đã nghĩ mà hỏi cha Nicandro xem những viên Thánh thạch kia có thuộc về những người đã hoàn thành sứ mệnh không.

“Tôi không biết nhiều về Thánh thạch, nhưng biết cụ mình đã cứu ngôi làng ngày hôm ấy. Nhóm linh trinh sát đó đông lắm, và chỉ chuyện chỉ huy là một tay người thú thôi đã cho thấy vụ ấy không hề nhỏ. Tới thời điểm đó, những dị nhân chỉ là truyền thuyết, chưa từng ai mục sở thị. Rất có thể cái giếng của cụ Damián đã khiến kế hoạch xâm lăng của Invierne bị chậm lại vài năm.”

“Có thể. Và cụ Damián không hề biết mình đã phụng sự Chúa.”

“Cụ không hề hay biết.”

Tôi dựa đầu vào vai anh. Thật lạ là sự hiện diện của chàng trai này lại khiến tôi thấy dễ chịu hơn chồng mình. Gần Alejandro, tôi lúc nào cũng phấp phỏng lo âu. “Anh nghĩ tôi sẽ hoàn thành sứ mệnh,” tôi nói, “kể cả nếu tôi không biết bằng cách nào sao?”

“Ừ.”

Nhưng tôi có thể cũng chết lãng xẹt như cụ Damián, hoặc bị thương nặng, như Homer. Như con lợn bị đưa tới lò mổ…

“Công chúa biết không,” ngón cái của Humberto vuốt ve cằm tôi. “Ông tôi, con trai cụ Damián, là một trong những người đứng trên đỉnh núi ngày hôm ấy. Nếu ông chết, Cosmé và tôi, anh họ Raynaldo, kể cả bác Alentín… không ai trong chúng tôi ngày hôm nay tồn tại trên cõi đời này.”

Và đột nhiên tôi hiểu lí do Homer chấp nhận vết thương. Tôi hiểu sao thà chết trong khi phụng sự còn tốt hơn chưa hoàn thành nó. Tốt hơn rất, rất nhiều. Homer và Damián chẳng được lợi lộc gì từ hành động quả cảm của mình. Cũng như vậy, có thể tôi sẽ chẳng bao giờ hái được trái ngọt từ công việc của mình, nếu như tôi có hoàn thành nó. Nhưng chẳng sao hết, vì việc Chúa đặt viên đá của Ngài vào bụng tôi không phải vì tôi.

Hôm sau, tôi đặt Afflatus bên cạnh cuốn sách mình vốn yêu thích, Belleza Guerra. Mỗi đoạn đều gợi lên những thắc mắc mới. Tôi dành cả ngày lúc thì đọc sách lúc lại đi thăm những người sống sót qua cuộc càn quét.

Cha Alentín bảo lính Invierne không tinh nhuệ nhưng đông như sao trên trời. Chúng đổ xuống từ các đỉnh núi tuyết phủ của rặng Sierra Sangre, cầm đầu là lũ người thú có khả năng sử dụng bùa lửa. Dù quân ta có thể một chọi năm tên lính Invierne, nhưng vẫn chưa đủ. Một khi người thú tham chiến, người của ta hoặc chết hoặc bỏ chạy.

“Chính xác là bao nhiêu?” Tôi hỏi ông. “Quân địch có ở gần đây không? Chúng đã bắt đầu hành quân chưa?”

“Có hai nhánh quân,” ông nói. “Một cách chúng ta vài ngày cưỡi ngựa. Một xa hơn về phương bắc, cách lãnh địa của bá tước Treviño một quăng đá.”

“Hai nhánh quân. Cách nhau khá xa.”

Ông gật đầu và xoa xương đầu vai.

“Có bao nhiêu?” Tôi hỏi lại.

“Con gái à, có hàng ngàn. Ít nhất là mười ngàn, và quân số tăng lên hàng ngày.”

Hai cánh quân đông đảo. Kể cả liên quân Joya d’Arena và Orovalle cũng không sánh bằng. “Một sẽ vượt sa mạc về phương nam,” tôi nói lên suy nghĩ của mình. “Nhánh kia sẽ men theo bìa rừng về phía bắc. Chúng sẽ tiến tới Brisadulce và các lãnh địa ven biển từ hai hướng. Một gọng kềm lớn.”

Alentín cúi sát hơn. “Cha cũng nghĩ vậy. Nhưng cha không nghĩ rằng nhà vua, cầu cho hoa lan nở rộ dưới gót giày ngài, sẽ chuẩn bị chiến đấu trên cả hai mặt trận.”

“Con sợ là cha nói đúng.” Alejandro, không quyết đoán, sẽ chẳng chuẩn bị tinh thần cho điều gì hết. Tôi nhìn bên vai thương tật của vị tu sĩ. Tôi ướm hỏi, “Cha không ngại kể chuyện cha mất cánh tay chứ?” Tôi biết hỏi thật thô lỗ, nhưng tôi phải biết tất cả những gì có thể.

“Một mũi tên đã bắn vỡ xương tay cha, ngay trên khuỷu tay. Cha mất vài ngày mới đến được nơi ẩn náu, và bị sốt cao. Cha ngất ngay khi đến được đích. Khi cha tỉnh dậy, cánh tay đã mất.” Ông nhún vai. “Một cánh tay đổi lấy mạng sống. Đổi chác thế cũng đâu có tệ.”

“Vậy là chúng dùng tên.” Như lũ người rừng Perdito. “Còn vũ khí gì khác không?”

“Nếu muốn tìm hiểu về vũ khí, con gái à, con nên hỏi Belén.”

Tôi cảm ơn ông và vội vàng chạy đi tìm chàng trai cao kều kia. Tôi tìm thấy anh ta bên ngoài một túp lều gạch sống, đang dùng con dao cong có tay cầm vừa khít trong lòng bàn tay để cạo da cừu. Chúng tôi không mấy khi nói chuyện hồi đi trên sa mạc, và đến được đây thì tôi mệt nhoài. Nhưng anh ta chào đón tôi nồng nhiệt hơn tôi tưởng, và còn vui vẻ hơn khi được nghe thắc mắc của tôi.

“Chúng chủ yếu dùng cung tên,” anh ta bảo. “Cung của chúng lớn hơn của ta nhiều. Cao bằng người hoặc hơn ấy chứ. Chúng bắn không chuẩn bằng cung thủ của ta, nhưng tên lại bay được xa hơn.”

“Chúng ta có làm ra vũ khí tương tự được không?”

“Không.” Anh ngước lên khỏi tấm da cừu. “Chúng ta cần cây to. Nhiều cây đại thụ cho gỗ khi khô đi sẽ cứng đúng mức cần thiết.”

“Còn vũ khí nào khác không?”

“Có giáo mác. Chủ yếu dùng đoản đao. Ở điểm này thì ta có lợi thế, vì bên ta dùng trường kiếm. Nhưng cô sẽ không muốn đánh tay đôi với một tên Invierne đâu.” Anh ta đặt con dao xuống tấm da và xắn tay áo, để lộ bốn đường sẹo lồi trắng hếu song song chạy dọc cẳng tay anh ta.

Tôi rùng mình. “Trông như bị vuốt cào ấy. Thực sự là một móng vuốt lớn.”

Anh cầm con dao cạo da lên. “Tôi không nghĩ chúng có móng vuốt. Mà giống một dạng găng tay có đầu nhọn hơn. Chúng chiến đấu như động vật vậy. Giống sư tử núi, nhưng không ranh ma bằng.”

Một lần nữa, tôi nghĩ đến Perdito. Bụng tôi hơi quặn lại khi nhớ đến kiểu tấn công ngẫu nhiên, cách di chuyển linh hoạt như chồn của chúng.

“Nhưng vũ khí ta cần đề phòng,” anh ta nói tiếp, “là bùa phép của người thú. Chúng đeo bùa trên một sợi dây dày hoặc dây da ở cổ. Tôi không hiểu vì sao chúng không bao giờ dùng bùa ngay từ đầu, mà phải một lúc sau, bùa mới bắt đầu sáng lên. Rồi ánh sáng nóng trắng, chói lòa bắn ra từ đó, nhanh như tên bay. Nó đốt cháy mọi thứ nó chạm phải.” Anh ta buồn bã lắc đầu. “Chúng tôi thắng một vài cuộc đụng độ nhỏ với Invierne, dù có bị áp đảo về số lượng. Nhưng mỗi khi có người thú chỉ huy là chúng tôi thua. Nhanh và thảm bại. Chúng tôi dần dần nhận ra rằng phải lui quân ngay khi thấy cái bùa sáng lên.”

Tôi biết mình phải tìm hiểu thêm về người thú; chúng có vẻ là điểm mấu chốt trong sức mạnh của Invierne. Ví dụ đầu tiên được ghi chép về người thú tham chiến nằm trong giấy tờ của Hitzedar cung thủ. Kể từ đó, chúng thi thoảng mới xuất hiện, nhưng nghe cha Alentín và Belén nói thì có vẻ dạo này rất dễ đụng độ với những tay pháp sư lánh đời này của Invierne.

“Belén, tôi cần biết thêm về người thú. Chúng ăn gì? Chúng mặc gì? Chúng muốn gì? Có lẽ có ai đó đã lẻn vào doanh trại của chúng rồi. Có lẽ bá tước Treviño…”

“Cô nên nói chuyện với Cosmé.”

“Sao?”

“Cosmé. Nếu cô muốn nói chuyện lén lút vào đâu.” Anh nháy mắt với tôi. “Hãy nói chuyện với cô ấy. Cô ấy là gián điệp đó.”

Tôi úp đầu vào tay. Tất nhiên rồi. Cô ta có lẽ làm gián điệp giỏi chẳng kém gì giặt đồ. Tôi cảm ơn và vội vàng đi tìm cô gái dẫn đường/hầu gái/thầy thuốc/gián điệp kia.

Cô ta ở cái động lộ thiên, đang chăm sóc người bị thương. Trước khi tôi mở miệng, cô đã bảo có một người nữa chết trong đêm, nhưng những người khác có lẽ sẽ bình phục. Vài ngày nữa chúng tôi mới có thể biết chắc chắn.

“Tôi hỏi cô mấy điều được không?” Tôi tưởng cô ta sẽ đuổi tôi đi, nhưng tôi vẫn cố thử.

“Về chuyện gì?”

“À… lén lút.”

Cô nhướng mày.

“Tôi muốn biết về Invierne. Nhất là người thú. Nếu cha hoặc chị tôi cai quản vùng đất của bá tước Treviño, có lẽ bây giờ chúng tôi đã thâm nhập doanh trại địch rồi. Chúng ta phải biết chỉ huy là ai, kế hoạch của chúng thế nào, chúng ăn gì cho bữa sáng, chúng…”

“Treviño chẳng biết gì hết.”

Nỗi thất vọng như tảng đá chẹn họng tôi. “Cô chắc chứ?”

“Chắc.” Cô đứng nghiêm nhìn thẳng vào tôi. “Tôi đã đề nghị như vậy khi còn phục vụ ông ấy. Tôi nghĩ chúng ta nên đưa gián điệp trà trộn vào đội triều cống. Nhưng bá tước và con gái ông ấy thấy vậy là quá nguy hiểm.”

Tôi không hiểu. “Triều cống gì?”

Mặt Cosmé nhăn lại tỏ vẻ khó chịu. “Bá tước tốt bụng thỏa thuận với Invierne. Chúng không tấn công lãnh địa của ông ta, đổi lại bá tước sẽ cống nạp cừu và thực phẩm.”

Tim tôi đập thình thịch. “Cô nói đùa sao!”

“Không.”

“Bá tước phản quốc.”

“Đúng vậy.”

“Nhà vua biết chứ?”

Cô ta lắc đầu. “Ariña sẽ không bao giờ nói.”

Ariña? Ả nhân tình của chồng tôi thì có liên quan gì… rồi tôi vỡ lẽ, và thầm mắng mình vì không nhận ra sớm hơn. “Ariña là con gái bá tước Treviño.”

“Đúng. Cô ta đại diện cho cha mình trong Hội đồng Ngũ Trưởng lão.”

“Vậy cô là gián điệp. Trong vai người hầu của Ariña. Để thám thính cái gì?”

Cô ta nhún vai. “Trên danh nghĩa là nghe ngóng mấy tin vịt trong lâu đài. Giúp Ariña trở thành tân hoàng hậu. Nhưng khi đó, Humberto và tôi đã liên lạc với nhóm của bác Alentín.” Cô ta khịt mũi chế giễu. “Tôi đoán chúng tôi đại loại là quân khởi nghĩa, chống lại sự phản quốc của bá tước, sự bất tài của nhà vua. Vậy nên tôi tới Brisadulce, mong tìm được người mang Thánh thạch. Và tôi tìm thấy cô.” Cô ta nhìn khắp nền hang, về những người dân làng bị thương đang nằm la liệt. Cô ta tặc lưỡi, rồi trong mắt ngập tràn sự tự giễu. “Công chúa à, cô không thấy chúng ta là một nhóm đáng sợ ra sao ư? Một nhóm trẻ nít chơi trò khởi nghĩa đấy.”

“Hãy gọi tôi là Elisa.” Tôi cũng nhìn quanh, nhưng thay vì thấy sự tuyệt vọng, tôi lại thấy những người sống sót, dù có bị thương đi chăng nữa. Tôi thấy một ngôi làng xinh đẹp, nằm khuất nẻo vẫn tồn tại trong chiến tranh. “Cosmé, cô nghiêm túc tiếp tục cuộc chiến này đến mức nào? Ý tôi là, sao cô không bỏ đi? Nếu cô trốn, về miền bắc Orovalle chẳng hạn, cô sẽ sống.”

Môi cô ta mím chặt, còn đôi mắt đen mở lớn. Kể cả lúc giận dữ, buồn bã và mặt mũi bẩn thỉu, cô ta vẫn xinh đẹp. “Tôi chưa từng bỏ cuộc,” cô ta nhổ nước bọt, bước đến tới khi trán chỉ còn cách tôi chút ít. “Chúng giết cha mẹ tôi. Chúng giết hầu hết bạn bè tôi. Tôi sẽ giết bao nhiêu tên có thể trước khi cuối cùng chúng bắn tên vào bụng tôi hay thiêu tôi ra tro.”

Tôi ép mình không được thối lui. “Còn những người khác? Họ có cùng chung ý nghĩ với cô không? Họ sẽ tiếp tục chiến đấu chứ?”

“Hầu hết là có.”

Chúng tôi chăm chú nhìn nhau một hồi lâu. “Tốt.”

Sự ngạc nhiên thấp thoáng trong mắt cô gái trước khi tôi quay người bỏ đi. Những chiến thuật bắt đầu thành hình trong tâm trí tôi. Đó là một kế hoạch điên rồ, một chuyện mà các chiến binh Joya d’Arena chưa từng thử qua.

Nó sẽ không bao giờ thành công.