Thân hình to cao, ngực nở, bắp chân, bắp tay gân cơ nổi cuồn cuộn, vai đeo khẩu súng trường hiệu “trung chính” có từ thời quân “thanh thiên bạch nhật”1 còn thống trị ở nước láng giềng, tất cả làm nên dáng vẻ ông xã đội trưởng tuổi trung niên lừng lững giữa vùng núi đá nhấp nhô nối nhau chạy đến chân trời. Ông là Sùng Mí Mua, đảm nhiệm chức vụ xã đội trưởng từ thời chính quyền về tay nhân dân ở Vần Chải thuộc xứ đá xa xôi, nơi tận cùng của đất nước. Ông giữ chức vụ liên tục mấy chục năm như vậy bởi chính quyền cũng như người dân luôn bảo rằng: “Ông là người xứng đáng!”. Chính quyền nhận xét ông là cán bộ nhiệt tình, trách nhiệm, luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Người dân mở miệng là khen: “Ông Mua gương mẫu lắm, tốt nhiều lắm, có ông ấy là xóm làng bình yên!”. Ông Mua lấy đó làm tự hào, quên bẵng đi những khi gặp khó khăn lúng túng, sau mỗi lần bầu cử có số phiếu ủng hộ cao nhất thì ông lại cười:
1. “Thanh thiên bạch nhật” là cờ của Trung Hoa dân quốc (Tưởng Giới Thạch).
- Tôi xung phong làm xã đội trưởng, quen rồi.
Mấy ngày nay ông Mua gặp chuyện khó: Thằng Tủa, con trai đầu của ông đòi lấy con Mỷ, con gái nhà Giàng Sè Lử làm vợ. “Trai lớn lấy vợ, gái lớn gả chồng”, điều đó có gì làm khó ông? Khó lắm nên ông Mua phải lẳng lặng đi hỏi ý kiến nhiều người mà chưa gỡ được cái mớ rối như bòng bong ấy. Chuyện ông Mua nhớ như in trong đầu là vào năm sáu mươi của thế kỷ trước, khi Giàng Sè Lử làm phỉ, ông Mua xã đội phó đã một mình tay không tìm vào hang bọn phỉ ẩn nấp gọi tướng phỉ Hầu Vản, em rể và cũng là chân tay trung thành của Giàng Sè Lử về với chính quyền cách mạng. Hầu Vản đã nghe theo lời ông Mua để được hưởng lượng khoan hồng của chính quyền cách mạng. Ông Mua làm được việc lớn cho cách mạng cũng nhờ có con vợ họ Sùng bị Lử bỏ rơi giúp sức, đưa đường để xã đội phó vào hang cọp gọi phỉ về hàng. Vợ Lử vất vả một mình nuôi con. Vào mùa cày nương, mấy mẹ con dàn hàng ra mà cuốc đất. Ông Mua thương tình: “Làm như thế bao giờ mới nên nương nên ruộng mà trồng cây ngô, cây bí?”. Ông Mua bảo mấy dân quân trẻ đấu đôi bò giúp vợ Lử cày nương. Nương Vần Chải lắm đá, chỉ nhỡ không kịp nhấc tay một lần là gãy mũi lưỡi cày vì đâm vào đá. Ông Mua là người cày nương thành thạo, khéo léo, chẳng ngại gì mà không giúp bà ta buổi cày. Thằng Tủa đi theo cha cày nương, cùng lũ trẻ nhà Lử vơ cỏ vào bờ đốt đống lửa. Thằng Tủa trưởng thành. Con Mỷ nhà Lử lớn phổng phao thành cô gái xinh đẹp nhất làng. Thằng Tủa thích con Mỷ, chơi đùa với nhau không muốn rời. Ông Mua biết tính con trai, thích là phải được nên càng lo lắng, đứng ngồi không yên.
Không thể tự quyết định việc lấy vợ cho con trai, ông Mua nghĩ, nếu mình là người bình thường thì nói làm gì, đằng này mình là xã đội trưởng nên con gái nhà ấy phải là vùng cấm, không được dây vào kẻo dính bùn bẩn thì không rửa sạch được, suốt đời chịu tiếng là con trai xã đội trưởng Mua thấy con gái nhà trùm phỉ thì mê đến mờ mắt, không còn thấy đường đi. Ông Mua vào chuồng ngựa, dắt con ngựa lông màu vàng sẫm phi nước đại lên phố huyện. Huyện đội trưởng Vừ Seo Phử nắm chặt dây cương ngựa của ông Mua:
- Cái gì đuổi mà chạy không thèm nhìn ai đấy?
- Xin phép Huyện đội trưởng, tôi muốn về Quân khu gặp cán bộ Đặng Bằng có một ít chuyện riêng... - Rồi ông Mua nói rõ chuyện thằng Tủa với con Mỷ.
Phử nói ngay:
- Việc lấy vợ cho con trai thì có gì mà phải báo cáo tận Tư lệnh Quân khu?
- Không thì biết thế nào là được, thế nào là không được?
- Bây giờ là thời nào rồi mà ông còn phân biệt bên này bên kia nặng nề thế?
- Thời nào thì người cách mạng cũng phải giữ cho ngọn lửa tỏa hơi ấm, đừng để lửa tắt, giá lạnh mùa đông ùa về thì người Mông ta lại đói rách, nô lệ.
- Theo tôi thì hai đứa chúng nó đẹp đôi như chim gáy trên nương ngô, còn ngại ngần gì mà không thu xếp cho chúng là vợ chồng của nhau?
Ông Mua không muốn nghe lời Phử nói, mặc dù anh ta là người từng trực tiếp chỉ huy xã đội vào hang gọi tướng phỉ về hàng. Phử có cha từng là người được cha Lử là Giàng Seo Sính sai dẫn quân tới căn cứ đe dọa Việt Minh của đồng chí Đặng Bằng. Mặc dù không muốn tin lời Phử nói nhưng bị Phử ngăn cản, ông Mua không thể đi tìm hỏi đồng chí Đặng Bằng. Ông hậm hực, cưỡi ngựa thủng thẳng quay về. Ông thúc ngựa chạy nhanh vì ý nghĩ hiện trong đầu: Ngày mai chợ phiên Phố Bảng.
Ngày chợ, người Mông, người Dao, người Tày từ các làng lưng chừng núi, len lỏi dưới thung lũng đổ về triền núi chênh chênh giáp biên giới họp chợ. Thằng Tủa hẹn con Mỷ. Đôi trai gái dắt tay nhau lên nương ngô ngồi tình tự. Ông nhìn theo đôi trai gái, máu trong người như sôi lên. “Mày dẫm chân vào cứt bò rồi con ơi”. Ông giật khẩu súng trường treo trên tường, phăm phăm theo chân đôi trai gái. “Để ông rửa một lần cho sạch”. Ông đặt súng lên tảng đá, bẻ khóa nòng lên đạn, hướng đầu súng về phía đôi trai gái. Ông nheo mắt chỉnh đường ngắm. Ngón tay cong cong trong vòng cò không nhúc nhích, rất lâu sau đó như rời ra. Ông hướng đầu súng lên trời, bàn tay đã đưa ngón trỏ vào vòng cò vội vã bẻ khóa nòng, tháo đạn. Ông nói với khẩu súng: “Mày lên tiếng là để cho xóm làng bình yên mới đúng. Hai đứa này mà ngã ra sẽ là rối loạn, không phải công việc của mày”. Trong đầu ông ngổn ngang ý nghĩ.
***
Ông Mua lên tận trên huyện nhờ người đăng ký cho thằng Tủa nhập ngũ. Ông nghĩ rồi, chỉ còn cách cho thằng Tủa đi bộ đội là hay nhất. Ở đó, đồng đội sẽ giúp Tủa phân biệt người tốt, kẻ xấu; giúp Tủa biết lựa chọn con nhà nào làm vợ để không ảnh hưởng danh dự.
Thằng Tủa lặng lẽ nhập ngũ dạng xung phong, vui một ít, buồn nhiều hơn. Tủa vui vì mơ ước được làm anh lính biên phòng đi tuần tra biên giới, đến làng nào cũng được người lớn quý trọng, trẻ con yêu mến, nhiều cô gái nhìn theo quyến luyến. Tủa sẽ chững chạc không cần nói mọi người đều biết mình đã trưởng thành. Nhưng Tủa cũng thấy buồn vì phải xa Mỷ. Hai đứa mới cầm tay nhau hẹn ước được một lần. Xa nhau rồi Mỷ còn nhớ Tủa không, hay như con chim ăn rồi quẹt mỏ để bay?
Ông Mua thấy Tủa thơ thẩn liền bảo:
- Con trai xã đội trưởng lên đường nhập ngũ đừng có đeo cái bộ mặt lì xì như đít bò đến tháng đẻ như thế, phải tươi cười vui vẻ…
- Con chỉ làm theo sắp đặt.
- Anh hiểu thế nào là nghĩa vụ quân sự?
- Con biết chứ, nhưng không phải đi đợt này.
- Ở nhà thêm một đợt để làm gì?
- Con yêu Mỷ thật lòng, dù có phải lên trời thì con vẫn cứ yêu Mỷ.
Câu nói của thằng Tủa khiến ông Mua phải cắn răng kìm nén. Ông cố gượng, tỏ ra đúng mực để tiễn con lên đường, bụng bảo dạ: “Bộ đội sẽ dạy mày biết cách chọn vợ, ta không để con làm họ hàng xấu hổ với dân làng”.
- Vào đơn vị phải chấp hành nghiêm kỷ luật, phải nghe lời chỉ huy - Ông Mua cố kìm nén, căn dặn - Con nhớ phải luôn luôn là người yêu lao động, không ngần ngại trước bất kỳ việc gì được phân công; phải thương yêu đồng đội như anh em một nhà; phải tôn trọng lẽ phải, tôn trọng chỉ huy, đừng làm điều ngang trái mà vi phạm kỷ luật...
Thằng Tủa dụi mắt tìm kiếm trong đám đông người nhà tiễn đưa. Lẽ nào Mỷ không tiễn Tủa lên đường nhập ngũ?
Mỷ ngơ ngác như bê con lạc mẹ, không tiếng gọi, không ngó nghiêng đôi mắt tìm xung quanh. Gió núi nhè nhẹ thổi ra cùng lời thì thầm của Tủa đều lặn sâu trong lòng Mỷ. Mỷ không đến tiễn Tủa vì cô mặc cảm mình là đứa có bố làm phỉ. Cô ghê sợ cái tiếng phải mang ấy, nó cứ như cái quả đắng treo sẵn trên miệng người đời, có thể đổ hồi phát ra tiếng kêu bất kỳ lúc nào, như quả chuông treo ở cổ con ngựa kêu reng reng gieo vào lòng người buồn tủi. Thực lòng Mỷ không thấy mình có gì khác các cô gái Mông cùng làng. Mỷ chỉ là con một người đàn bà Mông nghèo khó, bị người ta bắt về làm vợ nhưng không được dòng họ chấp nhận. Mỷ cũng phải ăn đói, mặc rách, lam lũ cùng mẹ và các em trồng cây ngô ở hốc đá kiếm miếng ăn, gieo luống lanh xe sợi kiếm cái mặc. Cái tiếng phỉ hà hiếp dân lành, cướp bóc vơ vét của cải về cho riêng mình để có cuộc sống xa hoa thì Mỷ chỉ nghe chứ không biết nó như thế nào. Nếu ông, cha đã làm thì người làm phải chịu tội với dân làng chứ Mỷ đâu có tội gì. Mỷ tức tối vì thấy mình oan uổng. Mỷ nhất định phải nói với Tủa những suy nghĩ trong đầu làm cô nhiều đêm mất ngủ. Mỷ hỏi biết được con đường tắt xuyên rừng về nơi Tủa đóng quân. Mỷ không đợi con gà gáy đánh thức. Mỷ đi xuyên rừng để trời sáng là gặp được Tủa. Ngày mai là chủ nhật, vùng cao có chợ phiên, ngày chúng mình vẫn hẹn để được cầm tay nhau đấy, Tủa à…
- Đồng chí Tủa, ra phòng trực ban đón người nhà!
- Nhà tôi ở Vần Chải, không người nào đến sớm thế này được đâu.
- Không tin hả, một cô gái đẹp…
Tủa không đợi nghe hết câu nói của đồng chí trực ban, chạy nhanh ra phía cổng:
- Mỷ thật mà, Tủa mơ thấy trong đêm ngủ…
Tủa đưa bàn tay vuốt làn sương còn đọng trên mái tóc Mỷ. Tủa dắt tay Mỷ lên nhà ban chỉ huy:
- Báo cáo chỉ huy, Mỷ là người vợ chưa cưới của tôi.
Đại đội trưởng ngạc nhiên vì lính trẻ thường hay bí mật chuyện tình duyên còn đang chưa đâu vào đâu. Tủa thì quả quyết, như mọi chuyện đã được gia đình đồng ý. Đại đội trưởng đã được ông Sùng Mí Mua nói rõ: “Cho Tủa đi bộ đội là để chia cắt cho chúng xa nhau ra, lửa gần cây ngô khô thì không biết sẽ xảy ra chuyện gì!”. Đại đội trưởng lúng túng, đôi trai gái đẹp đôi thế này mà bị cha mẹ ép duyên, tội nghiệp. Đại đội trưởng đành “nói theo bài”:
- Đồng chí Tủa huấn luyện tốt, chấp hành kỷ luật nghiêm, hai người yêu nhau thì phải động viên nhau hoàn thành nhiệm vụ.
Mỷ đứng lặng, gót chân di mạnh xuống đất mà người vẫn run. Đối với Mỷ tất cả đều lạ lẫm, từ người đứng trước mặt không có gì khác nhiều so với mấy anh bộ đội biên phòng vẫn gặp khi đi tuần tra biên giới mà Tủa lại xưng hô là Đại đội trưởng, đến huấn luyện, kỷ luật là những cái gì mà phải động viên Tủa làm? Mỷ không biết động viên là phải nói gì, làm thế nào để Tủa làm nhiệm vụ cho tốt? Mỷ có chuẩn bị gì đâu. Ở nhà nhớ Tủa quá thì đi đường tắt qua rừng già tới đây để được gặp, cầm tay nhau, nói với nhau vài câu cho đỡ nhớ, thế thôi. Mỷ không ngờ chuyện lại to tát thế này, cứ như đi kiểm tra xem Tủa có tốt với đơn vị hay không. Lại còn phải động viên, Mỷ không biết đâu, nhớ Tủa nhiều, không muốn xa nhau, thế thôi. Đại đội trưởng bảo Mỷ ở lại thăm Tủa vài ngày. Mỷ ngại lắm, chưa đi xa nhà bao giờ.
Tủa dắt tay Mỷ đi về phía sau dãy nhà. Dãy nhà gỗ mái lợp cỏ gianh do chính tay những người lính tự xây dựng, ngay ngắn, thẳng hàng như đội ngũ quân nhân chỉnh tề. Trước mắt đôi trai gái là những quả đồi bát úp nối nhau chạy dài về phía xa, đường hào xẻ dọc ngang trên những quả đồi, hất lên những đống đất lẫn đá non phơi dưới nắng chiều màu vàng sậm. Tủa xòe bàn tay chai sần khoe với Mỷ:
- Bộ đội mình tự vào rừng chặt cây, lên đồi cắt gianh làm nhà ở, đào hầm hào làm thao trường huấn luyện, vất vả mà ai cũng tăng cân. Sống tập thể vui, khỏe người. - Tủa im lặng một lát rồi thì thầm: - Nhớ nhà nhiều lắm. Nhớ những buổi dắt tay Mỷ lên nương ngô, hốc đá tít trên núi cao. Hai đứa cầm tay nhau đón nắng ban mai, đón gió núi trưa hè mát quá quên đi tất cả. - Tủa lặng lẽ nhìn Mỷ, cái khuôn mặt tròn tròn, trán hơi dô bướng bỉnh mà đêm nào Tủa cũng gặp trong mơ: - Tủa đi bộ đội, Mỷ có chờ không?
Mỷ yêu Tủa nên không nói dối:
- Không.
- Mỷ sẽ đi với người khác?
- Bộ đội có cho lấy con nhà có người theo phỉ làm vợ?
Tủa quả quyết:
- Kệ! Nhất định phải lấy Mỷ làm vợ, không ai ngăn được.
- Ai mà tin được?
- Mình sẽ làm vợ chồng ngay bây giờ.
- Mỷ không phải cô gái ngoan hiền. Tủa không định đoạt được cuộc đời Mỷ. Tủa làm bộ đội rồi đừng làm điều mất danh dự.
- Mỷ nói giống chính trị viên.
- Đấy là cái lý làm người tử tế.
Tủa im lặng ngồi bên Mỷ. Tủa không tức giận mà càng thấy yêu Mỷ nhiều hơn. Hai người cầm tay nhau cho tới khi ông trời thu mất những vạt nắng vàng cuối cùng trên thao trường.
Tối, đơn vị đánh kẻng ngủ, Mỷ chia tay Tủa, đi tắt đường rừng về nhà.
Ông Mua biết chuyện thứ bảy, chủ nhật hàng tuần Mỷ đi đường tắt, xuyên đêm tới đơn vị thăm Tủa. Ông Mua thở dài. Thế này là trời với đất không nói chuyện được với nhau rồi. Hai đứa này muốn làm vợ chồng của nhau quá đi. Ông không ngăn cản kịp thời để xảy ra chuyện thì cái mặt xã đội trưởng không biết phải giấu vào chỗ nào? Đời người có cái danh dự là quý nhất, mọi thứ khác chỉ như cơn gió thổi qua. Mất danh dự thì còn dám nhìn thấy ai? Mà nghĩ như thế có bảo thủ không nhỉ? Có bị mọi người cho là kém tin không? Chẳng lẽ bao nhiêu năm mọi người được sống trong đời sống mới mà không tiến bộ, mà không tốt lên? Điều ông đang nghĩ trong đầu để thằng Tủa không lấy con Mỷ là kinh nghiệm đúc kết bằng xương máu của người cha ngay thẳng mà ông yêu mến, kính phục, bằng cả đau đớn của bản thân ông từng phải chịu và cả những điều ông từng chứng kiến suốt chặng đường đời đi theo cách mạng. Quá khứ đeo bám, ám ảnh, ông muốn quên đi mà không được. Ông không muốn mất lòng tin vào cuộc sống. Con người như ông mà bị mất lòng tin thì sống cũng coi như đã chết. Ông Mua tự dằn vặt mình, thấy bí tắc, muốn thoát ra để hưởng chút nhẹ lòng, thanh thản hóng nắng trời, gió núi giữa cao nguyên lạnh giá sương sa. Ông quyết định thu xếp một chuyến đi, tìm gặp đồng chí Đặng Bằng hỏi cho ra phải trái, như ngày nào ông đã hỏi để đi theo con đường đấu tranh giành độc lập, tự do, cơm no, áo ấm! Ông nghĩ về vùng quê Vần Chải từ ngày đi theo cách mạng, mọi việc dân làng bảo nhau có lý, có tình. Bản thân ông không được vội vàng mà mắc sai lầm, mà sai thì phải sửa ngay để dân tin tưởng, đừng bảo thủ để công việc trì trệ, mắc bảo thủ thì phải tiếp thu phê bình mà tiến bộ để dân tin.
Ông Mua nói lại chuyện muốn lên gặp Tư lệnh Quân khu với Vừ Seo Phử:
- Mọi việc lớn của đời tôi mà thiếu lời chỉ bảo của cán bộ Đặng Bằng thì không yên tâm được...
Ông Mua không muốn nói hết ý nghĩ trong lòng cho Phử biết, nhưng nghĩ thân phận hai người không giống nhau nên lại thôi. Từ bé Phử chỉ rong chơi, lớn một tý thì được cho đi học bên nước láng giềng. Phử nói chuyện toàn khoe dòng họ mình là nhất. Còn Mua là con nhà nông nghèo khó, có cha dựng cờ khởi nghĩa chống thực dân. Dù hai người không xung khắc như nước với lửa nhưng nghe Phử nói chuyện không lọt lỗ tai. Mỗi lần Mua gặp lại cha trong giấc mơ thì lại càng không muốn nghe Phử nói. Phử nói không giống những điều cha căn dặn Mua. Có điều cha nhắc đi nhắc lại, lý người Mông ta đoàn kết là sống, chia rẽ là chết, không được trái lý tổ tiên để lại. Xứ đá thuở hồng hoang mây ấp núi, núi đá chen mây, thiếu đất, thiếu nước cỏ cây chỉ có xác với xơ. Người Mông đến đào đất trình tường nhà, gió hú nứt tường trình. Nạn thổ phỉ hoành hành. Các vụ cướp xảy ra bằng mọi cách: đón đường, cướp đường, cướp bất cứ thứ gì có trên người đi đường. Bọn phỉ có vũ khí tự chế: đao, kiếm, súng kíp... Bọn phỉ có uy thế mạnh hơn bày kế “nội công ngoại kích”, cho người vào nhà giả vờ hỏi mua thứ nọ thứ kia để khi màn đêm xuống, bọn ở ngoài kéo vào giết chủ nhà, cướp phá. Các toán phỉ tranh giành, thanh toán lẫn nhau, chém giết cả người dân vô tội. Đội quân viễn chinh của thực dân xâm lược đến xứ đá, lính viễn chinh cũng làm phỉ. Các dòng họ lợi dụng bọn phỉ, cậy thế đua nhau nắm giữ chức dịch. Các dòng họ có máu mặt ngự trị từng vùng. Người dân lương thiện sống quằn quại, ngột ngạt do nạn thổ phỉ, thổ ty hoành hành. Họ khao khát một cuộc sống an lành và đã dựng cờ khởi nghĩa nhưng bất thành. Đứa trẻ Sùng Mí Mua đói khát bơ vơ trên đỉnh núi. Gió thổi hất tung những mảnh vải rách rưới che thân, Mua gào to: “Cha ơi!”. Ông Mua thức giấc, sau phút bàng hoàng nhận ra mình mơ ngủ.
Những cuộc nổi dậy chống thực dân và bọn quan lại của người Mông và cả tiếng kêu khóc của những đứa trẻ cao nguyên làm trời đất nao lòng. “Nhà trời” cho ông già tiên đến cứu giúp. Sùng Mí Mua kể chuyện nhiều lần về ông già đứng đầu Chính phủ lâm thời cử cán bộ Đặng Bằng đến xứ đá. Ông là người đã bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước rồi trở về chọn Cao Bằng làm nơi đứng chân và trực tiếp xây dựng Mặt trận Việt Minh, lấy vùng này làm trung tâm căn cứ địa. Từ trung tâm này lực lượng cách mạng tỏa đi các nơi. Mùa Xuân năm Ất Dậu, ông già giao nhiệm vụ cho đồng chí Đặng Bằng đi xứ đá với nhiệm vụ xây dựng cơ sở cách mạng ở đó để tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Ông căn dặn đồng chí Đặng Bằng cặn kẽ về nhiệm vụ, tinh thần, thái độ và phương pháp công tác trên đường đi cũng như khi xây dựng cơ sở. “Xây dựng tình đoàn kết các dân tộc tạo thành sức mạnh để lấy sức ta mà giải phóng cho ta”. Ông đưa tiền, một nghìn đồng và một lọ Sun-pha-đi-a-din. Ông già căn dặn đồng chí Đặng Bằng nên tìm và dùng thêm thuốc Nam. Ánh sáng cách mạng theo chân đoàn cán bộ do đồng chí Đặng Bằng phụ trách đã đến với người dân xứ đá. Người dân xứ đá theo cán bộ làm cách mạng mà có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Ông Mua giữ câu chuyện trong lòng như giữ ngọn lửa sưởi ấm suốt đời.